Báo
Nga viết về 14 năm Liên Xô giúp Việt Nam đánh Mỹ
Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
17/09/2021
http://nghiencuuquocte.org/2021/09/17/bao-nga-viet-ve-14-nam-lien-xo-giup-viet-nam-danh-my/
Sau năm 1945, trên lãnh thổ Bán đảo Đông Dương
hình thành hai nhà nước – Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (trong vùng lãnh thổ do
quân đội Trung Quốc chiếm đóng) và Việt Nam Cộng hòa (trong vùng do Anh và sau
đó là Pháp kiểm soát).[i] Ngày 19 tháng 12 năm 1946, xung đột
giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp leo thang, trở thành hành động chiến
tranh.
Từ đầu những năm 1950, Trung Quốc đã tích cực
giúp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kể từ năm 1953, Liên Xô cũng đã cung cấp cho Việt
Nam trang thiết bị quân sự và vũ khí, đồng thời đào tạo sĩ quan. Về phía Mỹ,
do bị phân tâm bởi hành động quân sự ở Triều Tiên nên hồi đó Mỹ không can thiệp
vào tình hình Việt Nam.
Bất chấp hiệp định đình chiến Geneva ký kết
năm 1954 và sự rút lui của quân đội Pháp ra khỏi Việt Nam, cuộc nội chiến tại
Việt Nam vẫn tiếp tục. Vào tháng 4 năm 1961, những quân nhân Liên Xô đầu tiên
đến Việt Nam. Tổng cộng, trong toàn bộ thời kỳ chiến tranh Việt Nam, đã có 24
nghìn chuyên gia quân sự và 15 nghìn công dân Liên Xô tới nước này công
tác. Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà các hệ thống tên
lửa phòng không SA-75, máy bay MiG-15, MiG-17 và MiG-21, xe tăng T-34-84, T-54,
T-55 và PT-76, các trạm radar, các thiết bị khác, vũ khí cỡ nhỏ, v.v. Tổng cộng,
từ năm 1965 đến năm 1972, đã có 95 hệ thống phòng không và 7.658 tên lửa được
chuyển giao cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa .
Từ năm 1961, Mỹ bắt đầu viện trợ quân sự cho
Nam Việt Nam. Sau sự cố ở Vịnh Bắc Bộ vào ngày 2 tháng 8 năm 1964, khi các tàu
phóng lôi của Bắc Việt tấn công các tàu khu trục của Hải quân Mỹ, người Mỹ bắt
đầu can thiệp vào cuộc chiến ở Việt Nam bằng cách ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa chỉ vài ngày sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Lực lượng Không quân Mỹ trong khu vực
gồm khoảng 330 máy bay chiến thuật, hơn 200 máy bay hải quân. Lực lượng Phòng
không-Không quân của Quân đội Việt Nam được trang bị 60 máy bay chiến đấu và
1.000 hệ thống pháo phòng không.
Ngày 24 tháng 7 năm 1965, bộ đội phòng không
Việt Nam lần đầu tiên sử dụng hệ thống phòng không SA-75 tấn công máy bay Mỹ.
Hôm ấy hai tiểu đoàn quân đội Việt Nam đã tiêu diệt 3 máy bay cường kích F-4.[ii] Hai tiểu đoàn ấy do các sĩ quan Việt
Nam chỉ huy, tuy rằng trên thực tế, người chỉ huy cuộc chiến đấu là các Trung
tá Liên Xô Boris Mozhaev và Fedor Ilinykh.
Thậm chí người Việt Nam còn thử di chuyển hệ
thống phòng không SA-75 của Liên Xô đến bờ biển và bắn thẳng vào các tàu của Hạm
đội 6, với ý định đánh chìm tàu sân bay Mỹ. Tuy nhiên, đơn vị bộ đội Việt Nam ấy hầu như bị tiêu diệt
ngay lập tức bởi hỏa lực pháo trên boong tàu chiến Mỹ.
Sự xuất hiện hệ thống tên lửa phòng không đã
buộc không quân Mỹ phải thay đổi chiến thuật tấn công, máy bay Mỹ phải chuyển
sang bay ở độ cao thấp và cực thấp. Để phá hủy hệ thống phòng không, người Mỹ
đã thành lập một phi đội đặc biệt. Tuy nhiên, tổn thất của Không quân Mỹ tiếp tục
tăng lên – trong đó có nguyên nhân vì Liên Xô cung cấp máy bay MiG-21 cho Việt
Nam.
Từ tháng 3 năm 1965, Mỹ bắt đầu chuyển lực lượng
mặt đất đến Nam Việt Nam, nhằm thực hiện nhiệm vụ chính là hoạt động trên bộ,
tích cực chống lại quân du kích miền Nam Việt Nam và quân chính quy Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, do cuộc giao tranh trong rừng rậm rất phức tạp, do
phía Việt Nam hiểu biết tốt về các đặc điểm của hệ thống hoạt động quân sự, và
do Việt Cộng được dân chúng hỗ trợ, cho nên cuộc chiến chống du kích của người
Mỹ trở nên kém hiệu quả.
Tháng 5 năm 1968, Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình tại Paris. Ngày 13 tháng 10 năm 1968,
Mỹ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam. Ước tính thiệt hại kinh tế do Mỹ ném bom
miền Bắc Việt Nam gây ra [cho phía Việt Nam] là vào khoảng 320 triệu USD,
nhưng giá thành 938 máy bay Mỹ bị bắn rơi trong các cuộc không kích là 911 triệu
USD.
Từ năm 1968 đến năm 1972, Mỹ giảm dần sự hiện
diện quân sự ở miền Nam Việt Nam, ngày càng hạn chế cung cấp vũ khí và hạn chế
yểm trợ cho các hành động quân sự của quân đội Nam Việt Nam. Ngày 18
tháng 12 năm 1972, người Mỹ thực hiện trận đánh bom cuối cùng và lớn nhất trong
chiến tranh để buộc lãnh đạo Việt Nam phải ký các thỏa thuận với Mỹ [B52 ném
bom Hà Nội]. Tuy nhiên, trong 12 ngày, lực lượng phòng không Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã tiêu diệt 81 máy bay Mỹ, trong đó có 31 chiếc B-52 (Mỹ đã công nhận có
15 chiếc B-52 bị bắn rơi), sau đó Mỹ đã dừng các cuộc xuất kích máy bay.
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ tuyên bố rút
quân khỏi Việt Nam. Những người lính Mỹ cuối cùng rời Việt Nam vào ngày
29/3/1973. Sau đó, quân đội Nam Việt Nam trong một thời gian đã đẩy lùi thành
công các cuộc tấn công của quân du kích. Tuy nhiên, vào ngày 9 tháng 3 năm 1975,
quân đội chính quy Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và các lực lượng du kích bắt đầu
cuộc hành quân tấn công chiến lược “Bông sen”, kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm
1975 với việc đánh chiếm Sài Gòn.
Tổn thất của Liên Xô tại Việt Nam từ tháng 7
năm 1965 đến tháng 12 năm 1974 lên tới 16 người, trong đó có 12 sĩ quan.
Tổn thất của Mỹ trong chiến tranh lên tới
47.355 người thuộc lực lượng chiến đấu và 10.796 người không chiến đấu. Đã có
3.720 máy bay cánh cố định và 4.892 máy bay trực thăng bị tiêu diệt. Chỉ tính
trên miền Bắc Việt Nam (nơi có hệ thống tên lửa phòng không của Liên Xô hoạt động)
đã có 1.095 máy bay Mỹ bị bắn rơi, trong đó có 17 chiếc B-52.
Về phía Liên Xô, ngoài việc củng cố được chế
độ thân thiện ở Đông Nam Á [tức Việt Nam Dân chủ Cộng hoà], còn được tiếp nhận
căn cứ hải quân Cam Ranh theo ý muốn của mình. Ngoài ra, nhiều mẫu thiết bị
quân sự của Mỹ đã rơi vào tay Liên Xô, một số trong đó đã được Liên Xô phục chế.
Suốt 14 năm liền Moskva giúp Hà Nội đánh đuổi
người Mỹ. Cuối cùng, sự giúp đỡ ấy đã thu được kết quả.
Nguyễn Hải Hoành biên dịch từ nguồn tiếng
Nga: Война во Вьетнаме. Журнал “Коммерсантъ Власть”. №17 от 04.05.2001,
стр. 53.
————-
[i] Theo thoả thuận của
Đồng Minh về việc tiếp quản sự đầu hàng của quân đội Nhật tại Việt Nam sau
15/8/1945: – Quân đội Quốc Dân Đảng Trung Quốc (QDĐTQ) phụ trách vùng phía Bắc
vĩ tuyến 16; – Quân đội Anh phụ trách vùng phía Nam vĩ tuyến 16. Từ cuối
8/1945, khoảng 20 vạn quân đội QDĐTQ tiến vào miền Bắc Việt Nam. Đồng
thời các tổ chức chính trị phản động chống Pháp và chống Việt
Minh như Việt Quốc, Việt Cách, cũng theo chân quân QDĐTQ vào
nước ta và lập chính quyền tại Lào Cai, Yên Bái. Ngày 6/3/1946, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp ký Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt, cho
quân Pháp thay thế quân QDĐTQ giải giáp quân Nhật. Tháng
10/1946, quân QDĐTQ rút hết khỏi Việt Nam. Tại miền Nam, quân đội Anh vũ
trang cho 14.000 tù bình Pháp (bị Nhật bắt giam) chiếm Sài Gòn ngày 23/9/1945,
mở đầu chiến tranh.
[ii] Máy bay cường kích vừa làm nhiệm vụ tiêm kích vừa làm nhiệm vụ
ném bom.
---------------------------
XEM THÊM :
Tại sao Liên Xô giúp đỡ Bắc Việt?
Nguồn: Sergey Radchenko, “Why Were the
Russians in Vietnam?”, The New York Times, 27/03/2018. Biên dịch: Nguyễn Thị
Kim Phụng Ngày nay chúng ta đã biết được tại sao người Mỹ lại mất quá nhiều thời
gian như vậy trước khi rút khỏi Việt Nam: Rời đi có nghĩa là thể hiện sự yếu đuối
… Continue reading Tại sao Liên Xô giúp đỡ Bắc Việt?
No comments:
Post a Comment