Trần
Thiện Khiêm, 95 tuổi, Qua đời
DCVOnline dịch
thuật
POSTED ON JULY 3, 2021
https://dcvonline.net/2021/07/03/tran-thien-khiem-95-tuoi-qua-doi/
rong sáu năm, ông là chỉ huy thứ hai của Việt
Nam Cộng Hòa, một bậc thầy về mưu đồ chính trị, người đã âm mưu tổ chức và ngăn
chặn các cuộc đảo chính trước khi chạy trốn khi Công sản thắng vào năm 1975.
Trần Thiện Khiêm tại
Washington vào tháng 12 năm 1964, khi ông là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa tại
Hoa Kỳ. Là một sĩ quan chuyên nghiệp, ông là một thế lực giấu mặt trong suốt
hai mươi năm người Mỹ tham gia vào Chiến tranh Việt Nam. Ảnh Harvey
Georges/Associated Press
Một người đầy quyền
lực ở miền Nam Việt Nam trước khi sụp đổ
Tướng Trần Thiện Khiêm, người chỉ huy thứ hai
sau Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của miền Nam Việt Nam trong sáu năm cuối của
Chiến tranh Việt Nam và chạy sang Hoa Kỳ ngay trước khi Sài Gòn thất thủ vào
tay quân Cộng sản năm 1975, qua đời vào ngày 24 tháng 6. ở Santa Ana, Calif.
Ông 95 tuổi.
Một đồng nghiệp thân cận của Tướng Khiêm, cựu
Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình, đã xác nhận ông qua đời trong một viện dưỡng lão,
nơi ông đang hồi phục sau khi bị ngã. Tướng Khiêm đã gần như biến mất khỏi tầm
nhìn của công chúng kể từ sau chiến tranh và đang sống ở San Jose.
Là một bậc thầy về mưu đồ chính trị, Tướng
Khiêm là thủ tướng của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1969 cho đến những ngày tàn của
chế độ, một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp và là một người nắm quyền lực trong
nhiều chục năm Mỹ tham chiến. Ông đã giúp tổ chức hoặc ngăn chặn một số cuộc đảo
chính quân sự ở Việt Nam trong những năm 1960.
Với sự chấp thuận ngầm của Tổng thống John F.
Kennedy và Cục Tình báo Trung ương Mỹ, Tướng Khiêm miễn cưỡng giúp dàn xếp cuộc
đảo chính quân sự năm 1963 kết thúc bằng vụ ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm, một
người chuyên quyền nhưng cũng là một người bạn cũ của ông và đã thất bại dù cố
gắng không để ông bị giết như ông và chính quyền Kennedy mong đợi một cuộc đảo
chính không đổ máu.
Tướng Khiêm, người có cách cư xử ra vẻ khiêm tốn,
từng là đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ và Đài Loan trong bốn năm. Sau
đó ông đã giữ vị trí kiểm soát cảnh sát; cơ quan anh ninh dân sự; một luc lượng
phụ trách nội an gồm 1,5 triệu nhân viên; và một “chương trình bình định” của Mỹ-Việt
Nam Cọng hòa nhằm thu phục “tim óc” của người dân sống trong các ấp được cho là
do du kích địch kiểm soát.
Là cánh tay phải của Tổng thống Thiệu, Tướng
Khiêm đã thẳng tay đàn áp các đối thủ của chế độ và gạt sang một bên về mặt
chính trị những người ủng hộ đối thủ không đội trời chung của ông Thiệu, Phó Tổng
thống Nguyễn Cao Kỳ, một cựu tư lệnh không quân. Tướng Khiêm là người thực thi
chính sách cứng rắn nhất của chính phủ và là con cưng của Đại sứ quán Hoa Kỳ.
Năm 1969, ông được Tổng thống Thiệu, một cựu
tướng, một người bạn thân khác của ông, khen thưởng với hai lần thăng cấp — vào
tháng Ba lên Phó Thủ tướng, và vào tháng Tám lên Thủ tướng. Là một tướng bốn
sao, ông cũng là sĩ quan quân đội cấp cao nhất của đất nước.
Việc ông được bổ nhiệm làm thủ tướng đã đưa một
quân nhân khác vào tam đầu chế quân đội cầm quyền, một chế độ quân đội cai trị
dùng dân sự như tấm bình phong, và củng cố sức đề kháng của Sài Gòn trước bất kỳ
sự đàm phán hòa bình nào.
Thủ tướng Khiêm,
bên phải, với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ở giữa, tại Sài Gòn vào tháng 9 năm
1970. Bên phải TT Thiệu là chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Lương (1967-1971). Thủ tướng
Khiêm là cánh tay phải của Tổng thống Thiệu, ông đã lãnh đạo một cuộc đàn áp đối
với các đối thủ của chế độ. Ảnh: Bettmann, via Getty Images
Trong vài năm tiếp theo, Hoa Kỳ, dưới áp lực
phản chiến tại Mỹ, bắt đầu rút quân và viện trợ tài chính khỏi miền Nam Việt
Nam. Bắc Việt nói rằng họ sẽ không bao giờ đàm phán với chế độ Thiệu, và Miền
Nam ngày càng mất chỗ dựa trong cuộc chiến. Nhưng ông Khiêm sôi nổi đã ở bên cạnh
ông Thiệu để chào đón giới chức Mỹ đến thăm như Tổng thống Richard M. Nixon và
các thành viên trong nội các của ông.
Khi nạn tham nhũng phát triển mạnh ở miền Nam
Việt Nam, ông Khiêm đã đưa họ hàng vào những công việc béo bở trong cơ quan
hành chính dân sự. Như giới điều tra và báo chí Mỹ đưa tin, ông đã bổ nhiệm hai
anh vào các cơ quan trách nhiệm về quan thuế để họ kiếm lợi từ việc buôn lậu ma
túy và các loại hàng lậu khác tại sân bay Tân Sơn Nhứt của Sài Gòn và các hải cảng
ở Miền Nam[1].
Một người em rể trở thành Đô trưởng Sài Gòn[2];
một người bà con khác trở thành giám đốc cảnh sát quốc gia[3].
Khi lạm phát tăng cao, ông Khiêm đưa ra các biện
pháp thắt lưng buộc bụng về kinh tế và các nỗ lực bình định lớn hơn. Năm 1971,
ôngkhẳng định rằng 90 phần trăm dân số đang sống trong tình trạng an ninh tương
đối. Nhưng trong vòng một năm, đối diện với sự phản kháng ngày càng tăng của
dân chúng, chính phủ đã bãi bỏ hầu hết các cuộc bầu cử và nói rằng giới chức địa
phương, từ lãnh đạo tỉnh đến trưởng ấp, sẽ được chế độ bổ nhiệm.
Đến năm 1973, các vấn đề lớn hơn đã xuất hiện.
Một hiệp định hòa bình đã được ký kết tại Paris giữa Bắc Việt, Hoa Kỳ và, một
cách miễn cưỡng, Tổng thống Thiệu, người coi hiệp định này là sự phản bội của
Hoa Kỳ đối với lời hứa viện trợ của họ. Sự tham gia trực tiếp của Mỹ vào cuộc
chiến đã kết thúc. Nhưng sau khi ngừng bắn, giao tranh giữa Bắc và Nam lại tiếp
tục. Ông Thiệu bám quyền dù đã giao nhiều nhiệm vụ cho ông Khiêm vào năm 1974.
Bắc Việt chuẩn bị cho một cuộc tấn công xâm
lăng cuối cùng vào miền Nam. Họ bắt đầu vào đầu năm 1975. Đến cuối tháng 3,
quân đội VNCH vượt trội quân cộng sản về số lượng nhưng đã mất tinh thần hoặc
đã rút lui hoặc đã đầu hàng. Quân xâm lược tràn ngập hầu hết miền Nam và tiếng
về Sài Gòn.
Trong bài phát biểu trên đài phát thanh và
truyền hình ngày 2 tháng 4 năm 1975, ông Khiêm nói với quốc dân:
“Trong hai tuần qua, chúng ta đã bị thương
vong nặng nề chỉ vì chúng ta mất tự chủ và không giữ trật tự. Tôi khẳng định
quyết tâm của chính phủ trong việc bảo vệ phần lãnh thổ còn lại của miền Nam Việt
Nam và cuối cùng sẽ chiếm lại toàn bộ lãnh thổ gần đây đã mất vào tay Cộng sản.”
Nhưng hai ngày sau, ông Thiệu thông báo rằng
ông Khiêm đã bị sa thải. Ông Khiêm biến mất vào một thành phố nhường chỗ cho sự
hoảng hốt và hỗn loạn khi người dân tranh nhau rời bỏ Việt Nam. Ông Thiệu từ chức
vào ngày 21 tháng 4, dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng 9 ngày sau đó, khi giới chức Mỹ
và Việt Nam cuối cùng được di tản và xe tăng Bắc Việt Nam lăn bánh vào thành phố.
Không rõ ông Khiêm trốn thoát bằng cách nào[4],
nhưng nhiều viên chức chính phủ và quân đội, nhà ngoại giao, nhà báo và thường
dân quan trọng đã được vận chuyển từ Sài Gòn lên hàng không mẫu hạm Mỹ ở Biển
Đông hoặc bay đến các căn cứ của đồng minh ở Đông Nam Á.
Sau khi dừng chân ở Đài Loan, ông Khiêm đến
Hoa Kỳ, một trong những người giàu nhất trong số 200.000 người Việt tị nạn. Tờ
Chicago Tribune viết vào năm 1979,
“Khiêm, người sẽ không bao giờ phải làm việc nữa,
sống với vợ trong một ngôi nhà sang trọng ở ngoại ô Virginia, và họ có một ngôi
nhà thứ hai ở miền nam nước Pháp.”
Sau đó, ông dọn nhà từ McLean, Va., đến
California. Cựu Tổng thống Thiệu định cư tại Luân Đôn, Boston và Pháp. Cựu Phó Tổng
thống Kỳ điều hành một cửa hàng rượu ở Newark, California.
Tướng Khiêm, thứ
hai từ phải trên khán đài, là Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa khi ông gặp
giới chức Mỹ tại Sài Gòn vào tháng 3 năm 1964. Đứng với ông từ trái là Tướng
Maxwell D. Taylor, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân; Bộ trưởng Quốc
phòng Robert F. McNamara; và Henry Cabot Lodge, đại sứ Hoa Kỳ tại miền Nam Việt
Nam. Ảnh: Associated Press
Trần Thiện Khiêm sinh ngày 15 tháng 12 năm
1925, tại Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Ông là một trong 12 người con
của Trần Thành và Địch Võ, chủ ruộng ở Long An, một tỉnh ngay phía nam Sài Gòn.
Mặc dù cha mẹ ông là Phật tử, ông đã tốt nghiệp một trường trung học Công giáo
La Mã ở Sài Gòn và sau đó nói với một người phỏng vấn rằng ông “đã bị cuốn hút
vào Công giáo từ khi còn nhỏ.”
Ông lớn lên khi Việt Nam bị người Pháp đô hộ
vào thế kỷ 19 và bị Nhật Bản chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai. Sau cuộc chiến
đó, khi Hồ Chí Minh đòi độc lập theo chủ nghĩa Mác cho Việt Nam và Pháp cố gắng
khẳng định lại chính quyền thực dân của mình, ông Khiêm đã theo học[5] tại
nơi sẽ trở thành Trường Võ Bị Quốc gia tại Đà Lạt.
Năm 1948, ông trở thành thiếu úy trong Quân đội
Việt Nam chiến đấu bên cạnh lực lượng Pháp chống lại Việt Minh của Hồ Chí Minh
trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Ông được phong là thiếu tá vào
năm 1954 trong trận Điện Biên Phủ, thất bại của quân Pháp, kết thúc chiến tranh
và dẫn đến hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam thành một nước Cộng sản miền Bắc
và một nước Cộng hòa miền Nam. Năm 1957 và 1958, mang cấp bậc đại tá, ông Khiêm
theo học tại trường Cao đẳng Chỉ huy và Tham mưu ở Leavenworth, Kan.
Ông kết hôn với bà Đinh Thùy Yến năm 1950, và
họ có một con gái. Người vợ đầu tiên của ông mất năm 2004, và năm 2005 ông kết
hôn với Ann Chastain, ở Eureka, Calif. Họ đã ly hôn vào năm 2012. Ông còn sống
với con gái của mình, Yên Khánh, và một người con nuôi, Trần Khẩn, cùng như một
cháu gái (gọi bằng ông).
Cuối những năm 1950 và đầu những năm 60 là thời
kỳ cai trị chuyên quyền và độc tài của tổng thống Ngô Đình Diệm, thiên vị người
Công giáo ở nhiều tầng lớp xã hội; tổrng thống Diệm được người Mỹ ủng hộ tại miền
Nam Việt Nam, phần lớn là người Phật giáo. Việc ông từ chối không tổ chức bầu cử
vào năm 1956 (theo hiệp định Geneva 1974) là một yếu tố hàng đầu dẫn đến Chiến
tranh Việt Nam. Năm 1960, Đại tá Khiêm dẹp tan cuộc đảo chính chống lại ông Diệm,
cha đỡ đầu của ông, và được thăng cấp tướng.
Nhưng vào năm 1963, trong sự kiện mà chính quyền
Kennedy và Tướng Khiêm dự tính là một cuộc đảo chính bất bạo động, các âm mưu quân sự khác của Việt Nam
đã dàn xếp để Tổng thống Diệm bị lật đổ và bị bắn chết trong một chiếc xe bọc
thép trên đường đến sân bay và một cuộc sống lưu vong ở nước ngoài.
Trong những âm mưu sau vụ ám sát, những chính
phủ quân đội ngắn ngủi đã kết thúc bằng những cuộc đảo chính. Tướng Khiêm có một
thời gian ngắn tham gia chính phủ quân đội cầm quyền trước khi bị đưa đi lưu
vong chính trị với tư cách đại sứ tại Hoa Kỳ vào năm 1964. Từ Washington, ông
đã âm mưu với các tướng lĩnh ở Sài Gòn để giành chính quyền. Nhưng vào ngày có
kế hoạch đảo chính, ông quên đặt đồng hồ báo thức và ngủ quên. Cuộc đảo chính
diễn ra mà không có ông và đã thất bại.
Năm 1965, một chính quyền quan nhân khác, có cả
Tướng Thiệu và Tướng Kỳ, bổ nhiệm ông Khiêm làm đại sứ tại Đài Loan. Ông được
đưa trở lại Sài Gòn năm 1968 và cam kết trung thành với Tổng thống Thiệu mới đắc
cử. Một năm sau, ông được bổ nhiệm làm thủ tướng và ông đã giữ chức vụ quyền lực
đó cho đến những ngày cuối cùng của chế độ.
Tướng Khiêm sống yên tĩnh trong thời kỳ hưu
trí tại San Jose, cùng với một số cựu sĩ quan cao cấp khác của Nam Việt Nam.
(Cuối cùng ông ấy đã được rửa tội trở thành một người Công giáo ở đó vào năm
2018.)
Cộng đồng người Việt hải ngoại tại Hoa Kỳ chia
rẽ thanh nhiều mảnh, với các cựu sĩ quan giữ khuynh hướng chống Cộng kiên định
nhất. Tướng Khiêm tránh tranh cãi bằng cách giữ thái độ khiêm tốn và hầu như
không trả lời phỏng vấn.
Tác giả | Robert D.
McFadden (19377-) là một cây bút thâm niên viết mục Cáo phó và đã đoạt giải
Pulitzer năm 1996 mục tin tức thời sự. Ông làm việc với New York Times từ tháng
5 năm 1961 và cũng là đồng tác giả của hai cuốn sách.
© 2021 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
Nguồn:
Tran Thien Khiem, 95, Dies; a Power in South Vietnam Before Its
Fall
For six years he was the nation’s second in
command, a master of political intrigue who had plotted and thwarted coups before
fleeing the Communist victory in 1975.
July 2, 2021
Chú thích của DCVOnline.
[1] Trần
Thiện Khởi, sinh năm 1918 tại Sài Gòn. Nguyên là Tổng Giám đốc Quan thuế Việt
Nam Cộng hòa và Trần Thiện Phương, sinh năm 1920 tại Sài Gòn, tốt nghiệp trường
Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu. Nguyên là Đại tá Giám đốc Thương cảng Sài
Gòn. Giải ngũ năm 1970.
[2] Đại
tá Đỗ Kiến Nhiễu (1931-1996).
[3] Người
bà con của bà Trần Thiện Khiêm (Đinh Thùy Yến, 1934-2004) là tướng Trần Thanh
Phong làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia.
[4] Ông
đã cùng với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rời khỏi Việt Nam vào chiều tối ngày 25
tháng 4 năm 1975 để đến Đài Loan và sau đó sang Mỹ.
[5] Khóa
đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân Viễn Đông do Quân đội Thuộc địa Pháp thành lập
No comments:
Post a Comment