HỌC VỊ,
DANH HIỆU và . . . TỰ TRỌNG!
https://www.facebook.com/huyenaimy.le.9/posts/216292053706570
Ngó qua cái thông tư mới toanh của ông Bộ
GD-ĐT ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ, có yêu cầu mở rộng
– nhưng theo chiều hướng dễ dãi, hạ thấp về chuyên môn và ngoại ngữ của chuẩn đầu
ra, tui nghĩ giờ mà gom các ông bà tiến sĩ, nhất là tiến sĩ ngành khoa học xã hội
nhân văn lại rồi cho “Leo lên đỉnh Olympia” bằng tiếng Anh (hoặc Pháp, Trung,
Nhật…) bằng chính kiến thức nền tảng cộng kiến thức của lĩnh vực mà họ nghiên cứu,
đạt được học vị thì e là cũng lắm chuyện cười ra nước mắt.
Vấn đề không chỉ là cái phương tiện sinh ngữ,
mà là với chiếc chìa khóa ấy, người làm nghiên cứu, khoa học sẽ có điều kiện mở
những cánh cửa tri thức của thế giới để tiếp cận, chọn lọc, học hỏi, phản biện;
và chiều ngược lại, họ sẽ giới thiệu, trình bày cho cộng đồng khoa học năm châu
những gì là thành quả nghiên cứu của chính họ, của những tinh hoa trong nước.
Không ai phủ nhận toàn bộ tạp chí khoa học,
hay có một hàm lượng khoa học nào đó ở trong nước. Nhưng nếu đã gọi là chuẩn của
khoa học – nơi không có đường biên địa lý, càng lại cần hơn bao giờ hết trong
thời “thế giới phẳng” – thì tại sao không giữ nguyên cái chuẩn cũ, đảm bảo tỷ lệ
nghiên cứu sinh phải có bài đăng trên các tạp chí khoa học Scopus/ISI…
Sự thay đổi, lại là thay đổi trong hoạt động
nghiên cứu khoa học luôn luôn được đặt ra theo chiều tiến bộ hơn, chất lượng phải
ngày một cao hơn để đáp ứng, phục vụ cho cái thực tế đang phức tạp hơn, đa dạng
hơn.
Còn thay đổi để “nhân văn” theo chiều dễ dãi,
dễ thở nên càng là kẽ hở cho những người kém cỏi, cơ hội, săn bằng cấp học vị,
thì đó là sự thay đổi thụt lùi, phản quy luật.
Nói thêm, ngoài chuyện túm cổ mấy ông bà tiến
sĩ lại cho “trắc nghiệm” sinh ngữ còn yêu cầu họ trình bày hoạt động nghiên cứu,
nghiên cứu phục vụ đào tạo ngay trong lĩnh vực họ từng nghiên cứu sau khi ẳm bằng
và xênh xang áo mũ. Thử đi. Đố.
Cho nên, có những quy định, thông tư ra đời,
nó không những không tạo được sự thách đố kiêu hãnh cho người tham dự mà ngược
lại, nó có phần cào bằng và “xúc phạm” chính những người có đủ tư chất, năng lực,
khát vọng thật sự trong cuộc thách đố chân chính ấy.
Cũng như, có những tước hiệu, danh vị bị thấp
kém đi bởi cá nhân con người ứng cử.
Có những danh hiệu cao quý được đặt ra và trao
tặng cho những tài năng, tận hiến, dù thầm lặng (ở những liên hoan, hội diễn)
nhưng dậy sóng trong lòng công chúng. Vậy mà, nhìn vào hồ sơ đề nghị xét tặng
danh hiệu NSND, NSƯT của Sở Văn hóa – thể thao TP.HCM, ở danh sách 22 ứng cử
viên cho danh hiệu NSND, có một, hai người, tôi thật sự không hiểu vì sao họ dám
tự “điền tên mình” vào đơn từ, vì sao hội đồng xét duyệt cơ sở lại dám thông
qua?
Hay chính họ tự bỏ phiếu cho mình?
Nghệ thuật là chuỗi sáng tạo từ tài năng, từ
khát vọng tận hiến tự thân trước cuộc đời, con người với đầy đủ những khổ đau,
hạnh phúc, bức bối, bất công, tươi đẹp… Nó không phải là phép cộng thô sơ của
những thành tích thi thố theo mùa, vai diễn nhàn nhạt, vị trí công tác hay…
lòng thương người được đong đếm qua các cuộc từ thiện, viếng thăm người nghèo
khó, cơ nhỡ.
Nhìn danh sách ứng cử NSND, nếu tôi có quyền hạn
và… tự trọng nghề nghiệp, tôi sẽ rút tên mình để đề cử vinh thăng những tài
năng xứng đáng hơn: Nghệ sĩ Thanh Nga, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Trường Sơn,
đạo diễn Ca Lê Hồng, nghệ sĩ Thành Lộc, nghệ sĩ Hữu Châu, nghệ sĩ Ái Như, nghệ
sĩ Thanh Thủy, ca sĩ Cẩm vân, ca sĩ Ánh Tuyết…
No comments:
Post a Comment