Chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ cần vượt qua nỗi lo sợ bất ổn
Fareed
Zakaria - Washington Post
Vũ Ngọc Chi, dịch
10/07/2021
https://baotiengdan.com/2021/07/10/chinh-sach-doi-ngoai-cua-hoa-ky-can-vuot-qua-noi-lo-so-bat-on/
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/07/0-48-696x448.jpg
Thủy quân Lục chiến
Hoa Kỳ chờ trực thăng vận chuyển ở Afghanistan vào ngày 2/7/2009. Nguồn:
Manpreet Romana / AFP / Getty Images
Câu hỏi: Khi nào và tại sao Anh chiếm đóng
Sudan? Câu trả lời là, vào năm 1899, sau một thập niên rưỡi chiến đấu, các lực
lượng của Anh đã chống lại các dân quân Sudan tập hợp lại dưới ngọn cờ của một
nhà lãnh đạo Hồi giáo lôi cuốn, người tự phong cho mình là Mahdi, là người mà
người Anh coi là một kẻ khủng bố cuồng tín.
Có một bài học lịch sử đáng học ở đây về việc
một đế quốc với quá xa, khi Hoa Kỳ rời Afghanistan. Nhiều tiếng nói cảnh báo rằng,
những gì tiếp theo sẽ là sự bất ổn và cuối cùng thì Taliban sẽ tiếp quản.
Họ lập luận rằng, đất nước này một lần nữa sẽ trở thành căn cứ của chủ nghĩa khủng
bố, và vì vậy chúng ta phải ở lại để giữ cho nó ổn định và nằm trong vòng tay
các nước thân hữu.
Sự thật là, kể từ ngày 11/9, Washington và hầu
hết các chính phủ cấp tiến đã phát triển năng lực mạnh mẽ để đánh chặn những kẻ
khủng bố, truy tìm chúng và ngăn chặn chúng phát động các cuộc tấn công quy mô
lớn. Các nhóm như al-Qaeda và Nhà nước Hồi giáo đang ở trong tình trạng tả tơi,
bị săn đuổi khắp nơi và bị phân tán thành các lực lượng địa phương. Họ hoạt động
ở nhiều quốc gia bất ổn khác nhau, chẳng hạn như Afghanistan, Mali và Yemen.
Đây là một lập luận cho các nỗ lực chống khủng bố toàn cầu, không phải là sự
chiếm đóng lâu dài của bất kỳ một địa điểm cụ thể nào.
Nhưng tâm lý thúc đẩy Hoa Kỳ chiếm đóng
Afghanistan và Iraq là ác cảm của một đế quốc đối với bất kỳ sự bất ổn nào.
Trong những năm cuối thế kỷ 19, Anh lo lắng rằng, sự bất ổn ở Sudan – đặc biệt
là từ những kẻ khủng bố Hồi giáo – sẽ tràn qua và đe dọa quyền tiếp cận của Anh
với Kênh đào Suez ở Ai Cập. Con kênh đó cung cấp huyết mạch cho các tuyến đường
biển đến Ấn Độ, là viên ngọc quý trên vương miện của Đế chế Anh. Với tư cách là
siêu cường của toàn cầu, Anh cũng có nỗi sợ hãi tương tự như ở nhiều nơi trên
thế giới. Vì vậy, London đã gửi hàng chục ngàn quân tham gia chiến tranh ở
Sudan và các nơi khác, thôn tính các lãnh thổ xa xôi ở châu Phi và châu Á (bao
gồm cả Afghanistan!) – tất cả đều trở thành gánh nặng lớn cho nước Anh. Người
Anh cho phép một phần nhỏ quyết định cho tình hình tổng thể.
Tất nhiên, sự so sánh này không hẳn chính xác,
nhưng Hoa Kỳ hiện là siêu cường duy nhất trên thế giới. Sẽ thật không may nếu
Taliban tái chiếm Afghanistan, Washington nên hỗ trợ chính phủ Kabul và làm việc
với các quốc gia khác trong khu vực – Trung Quốc, Ấn Độ và trên hết là Pakistan
– để tìm ra một thỏa thuận chia sẻ quyền lực bền vững ở Afghanistan. Nhưng
Washington cũng cần lưu ý, như chính quyền Biden dường như đang làm, rằng các lực
lượng Hoa Kỳ đã trải qua hai thập niên ở Afghanistan. Họ đã làm những gì có thể
làm được, thành công trong việc hạ bệ al-Qaeda và tiêu diệt trùm khủng bố Osama
bin Laden. Cuối cùng, Afghanistan không phải là việc chính yếu đối với vị trí
cường quốc toàn cầu của Hoa Kỳ.
Sai lầm lớn nhất của nước Anh trong các cuộc mạo
hiểm đế quốc vào đầu thế kỷ 20 là không phân biệt được đâu là lợi ích quan trọng
của mình và đâu là lợi ích ngoại vi. Ngược lại, chiến lược gia người Mỹ lỗi lạc
nhất trong Chiến tranh Lạnh, George F. Kennan, luôn nói rằng, Chiến tranh Lạnh
phụ thuộc vào một số lượng nhỏ các trung tâm quyền lực. Ông lập luận, vào cuối
thập niên 1940, rằng chỉ có 5 nước – Hoa Kỳ, Anh, khu vực Tây Đức, Nhật Bản và
Liên Xô. Miễn là Washington có thể duy trì tỷ lệ 4 chọi 1, chống lại Moscow,
thì nước này sẽ chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Lạnh.
Kennan thúc giục sự tập trung kiên định vào những
trung tâm quyền lực này. Ông nói: “Chúng ta phải quyết định những khu vực
nào là khu vực then chốt, và những khu vực nào không, những khu vực nào chúng
ta phải nắm giữ bằng tất cả sức mạnh của mình và chúng ta có thể mang lại thắng
lợi về mặt chiến thuật“. Nhưng Washington đã can thiệp vào những nơi xa xôi
trên khắp thế giới để ngăn cản những người cộng sản giành được quyền lực ở bất
cứ đâu. Đây là một việc vặt vãnh của một kẻ ngu ngốc và nó chỉ tạo ra những vết
thương do chính mình gây ra. Chiến lược phải dựa trên lợi ích, không phải đáp
trả đối với bất kỳ mối đe dọa nào hay tất cả các mối đe dọa.
Henry Kissinger, một người theo chủ nghĩa thực
tiễn như Kennan, từng là một học giả hoài nghi về Chiến tranh Việt Nam. Là một
thành viên của chính quyền Nixon, ông ủng hộ mạnh mẽ việc theo đuổi chiến tranh
trong khi đàm phán về việc rút quân của Mỹ. Nhưng trong các cuộc trò chuyện
riêng tư với Richard Nixon, ông tiết lộ rằng, ông không tin vào logic trọng điểm
đã dẫn tới sự can thiệp của Mỹ. Ông nói với Nixon sẽ không thật sự quan trọng nếu
miền Nam Việt Nam thất thủ, và miễn là điều đó xảy ra “một hoặc hai năm” sau
khi quân đội Hoa Kỳ rút về, công chúng Hoa Kỳ sẽ không “quan tâm tới”.
Miền Nam Việt Nam đã thất thủ và nó gây ra một
thảm kịch nhân đạo, nhưng về lâu dài nó không làm Hoa Kỳ tê liệt. Chỉ có một số
quân cờ domino nhỏ rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản ở châu Á, và 10 năm sau khi
Sài Gòn sụp đổ, chính quyền Reagan đang đàm phán từ một thế mạnh với Liên Xô. Đến
năm 1989, Bức tường Berlin sụp đổ.
Tất nhiên, một trong những lý do chính dẫn đến
sự sụp đổ của đế chế Moscow là sự can thiệp của nó vào Afghanistan, khiến Liên
Xô đổ máu và hủy hoại ý chí của họ. Người Nga tham gia vì những lý do quen thuộc:
một cuộc nổi dậy, chia rẽ nội bộ, lo sợ bất ổn. Lúc đó, Moscow lẽ ra phải chú ý
đến lời khuyên khôn ngoan của George Kennan, như bây giờ chúng ta nên làm.
No comments:
Post a Comment