Đặng Tiến
Cập
nhật : 04/07/2012 11:40
Tưởng niệm Nguyễn Mộng Giác
(1940-2012)
Trường
thiên tiểu thuyết là thuật ngữ Nguyễn Mộng Giác đã dùng để gọi thểloại mà ông
sử dụng khi viết Mùa biển động : một tiểu thuyết dài nhiều lần
hơn mức trung bình, chia thành nhiều tập, đưa ra một tuyến nhiều nhân vật, sống
trong một giai đoạn lịch sử dài, và những hoàn cảnh khác nhau.
ĐINH
CƯỜNG :
Chân dung Nguyễn Mộng Giác
Chân dung Nguyễn Mộng Giác
Có
thể nói Nguyễn mộng Giác là « chuyên gia » về thể loại này : ông còn là tác giả
bộ tiểu thuyết lịch sử, lấy thời kỳ Tây Sơn làm bối cảnh, bộ truyện Sông
Côn Mùa Lũ,bốn cuốn, dài khoảng 2000 trang, viết tại Sài Gòn từtháng 3
đến tháng 8-1981, tu chính tại Hoa Kỳ 1990, và nhà An Tiêm của Thanh Tuệ xuất
bản, cùng năm, tại Cachan-Paris và California. Sách được tái bản trong nước,
tôi không nhớ xuất xứ, vì tôi có một bộ nhưng đã gửi tặng… tác giả ! Sách, vì
ấn hành trong nước,đã gây tai tiếng và phiền hà cho người viết tại Mỹ.
Như
vậy, mấy chữ trường thiên tiểu thuyết đã mất nghĩa đầu tiên của nó : trước kia,
nó chỉ là truyện dài, khác với trung thiên tiểu thuyết là truyện vừa, và đoản
thiên tiểu thuyết là truyện ngắn. Từ ngày báo Phong Hóa, năm 1932, đưa
ra từ truyện ngắn, thì dần dần người ta chỉ còn dùng hai chữ truyện dài, truyện
ngắn. Cũng cần thêm rằng, hai chữ truyện ngắn mượn của người Anh, dịch từshort
story, chớ người Pháp và người Trung Quốc, thầy ta lúc ấy, không có khái
niệm truyện ngắn, hiểu theo quan niệm bây giờ.
Tiểu
thuyết trường thiên không phải là một phát minh son trẻ. Đông Châu liệt
quốc hay Tam quốc chí đã là truyện trường thiên hay, đọc
lại không chán và không thấy dài. Người Pháp có truyền thống tiểu thuyết trường
thiên từ Rabelaisđến Balzac, Zola, Jules Romain, v.v.
Ở
Việt Nam, người thí nghiệm tiểu thuyết trường thiên đầu tiên có lẽ là Nhất
Linh, phần nào dưới ảnh hưởng của các tác gia Pháp nói trên, và một số tác phẩm
bề thế khác của Tolstoi mà ông rất hâm mộ. Ông trình bày quan niệm và dựtính
sáng tác qua lời giới thiệu bộ truyện Xóm Cầu Mới, khởi thảo từ
1940 viết dang dở và in năm 1973 :« Xóm Cầu Mớilà bộ trường
giang tiểu thuyết gồm một loạt truyện dài, đặt dưới tên chung Xóm Cầu Mới. Mỗi
truyện dài lại có tên riêng. Những truyện dài có liên can hoặc xa hoặc gần đến
cái xóm Cầu Mới, mà các nhân vật chính hay phụ phần nhiều lấy ở số người tới
ngụ cư trong xóm. Tuy có cái tên chung, và tuy các nhân vật có thể có mặt ở
trong hết cả hay một sốlớn các truyện, nhưng độc giả có thể đọc một truyện mà
không cần đọc truyện khác cũng không bịthắc mắc hay ngơ ngác […]. Tôi
mong viết độ hai chục cuốn nữa thành một bộ gần vạn trang mới đủ để tả đầy đủ
sự phức tạp và muôn mặt của cuộc đời.».
Đoạn
trích dẫn dông dài, nhưng nói lên được những nét chính của thể loại tiểu thuyết
trường thiên – thời đó gọi là trường giang– như các tác gia phương Tây đã quan
niệm. Ý định Nhất Linh chỉ thực hiện được một phần mười : hai tập Xóm Cầu
Mớichỉ ngoài 700 trang là đi trước ; nhà Phượng Giang đã xuất bản mười
năm sau khi Nhất Linh quá cố, ngày nay gia đình đã in lại, có phụ lục hồ sơ
sáng tác, nxb Văn Mới, 2002, California, Xóm Cầu Mới là một tác phẩm
hay, hành văn giản dị, các nhân vật được mô tả tinh vi trong dáng điệu, lời
nói, nếp suy nghĩ và rung cảm. Đời sống hàng ngày của những con người tầm
thường trong một xã hội tầm thường, đó là nội dung nghệ thuật Nhất Linh mà ít
người đạt tới.
Bộ
Dòng sông Thanh Thủygồm ba cuốn : Ba người bộ hành,
Chi bộ hai ngườivàVọng quốc, tổng cộng hơn 600
trang, Nhất Linh viết rất nhanh, ba bốn tháng gì đó (1960-61). Tác phẩm kể lại
hoạt động chính trị của một số cán bộ Việt Quốc và Việt Minh sang hoạt động tại
Côn Minh khoảng 1944. Tuy có hình thức một tiểu thuyết trường thiên, nhưngDòng
sông Thanh Thủy chỉ là một truyện dài, vì chỉ mô tả số phận một vài
nhân vật chính, chứ không gợi rađược một khung cảnh xã hội lớn lao. Điều đó
nhắc lại rằng : tiểu thuyết trường thiên, hay chu kỳ, không phải do số trang,
mà còn do cơ cấu nội tại. Những kẻkhốn nạn (Les misérables)
của Victor Hugo hay Jean-Christophecủa Romain Rolland, thậm chí Đi
tìm thời gian đã mất(A la recherche du temps perdu) của
Marcel Proust, tuy là dài, vẫn không phải là tiểu thuyết chu kỳ. Ở Việt Nam,
hai tậpBão biển(1969) và Đất mặncủa Chu Văn, Cù
lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn (1985) là truyện dài, nhưng Vỡ bờ
hai tập (1962 và 1970) của Nguyễn Đình Thi, tuy gọi là tiểu thuyết, lại mang
vóc dáng một tác phẩm trường thiên, vì tính cách sử thi đã làm sống lại cả xã
hội miền Bắc trong năm năm chuyển mình, chuẩn bị cuộc Cách mạng tháng Tám. Vỡ
bờ thuộc vào tác phẩm lớn lao, đã được tác giả ôm ấp và sáng tác trong
hai mươi năm, từ 1948. Những tiểu thuyết riêng lẻ của Tô Hoài, từ Quê
Người, 1941, Giăng Thề,1944 đến Mười Năm1957,
lấy làng dệt Nghĩa Đô làm khung cảnh, cũng mang dáng dấp tiểu thuyết chu kỳ ;
trong ý tác giả, dường như Người ven thành, 1972, và Quê
Nhà, 1981, cũng nằm trong chu kỳ này.
Ở
miền Nam trước 1975,Khu rừng laucủa Doãn Quốc Sĩ là một bộ trường
thiên quan trọng vì ghi lại tâm trạng một lớp thanh niên theo kháng chiến chống
Pháp rồi bỏ kháng chiến, di cư vào Nam. Những truyện của Võ Hồng gom lại, cũng
có tính cách trường thiên tiểu thuyết về đời sống tại miền nam Trung bộ thời
kháng chiến chống Pháp.
Tiểu
thuyết trường thiên tiêu biểu của văn học Việt Nam là bộ Cửa biển
của Nguyên Hồng, khoảng hai nghìn trang, chia ra làm bốn cuốn :Sóng gầm(1961),
Cơn bãođã đến (1967), Thời kỳ đen tối (1973), Khi
đứa con ra đời(1976), mô tả đời sống cay cực của lớp người nghèo tại
thành phố cửa biển Hải Phòng trong mười năm 1936-1945, đã vùng lên làm cuộc
Cách mạng tháng Tám.
Bộ
sách viết trong mười lăm năm (1959-74), thời gian đó Nguyên Hồng không làm việc
gì khác, và đi đâu cũng khệ nệ tập bản thảo, sợ…mất. Trong hồi ký Những
nhân vật ấy đã sống với tôi(1978), ông đã kể lại kinh nghiệm sáng tác Cửa
biển, sự thành hình những nhân vật nhô lên từ ký ức hay thực tại, quá
trình tái sinh những sự kiện, những hìnhảnh. Đây là một hồ sơ sáng tác quý
hiếm, nếu không phải là duy nhất giúp ta tìm hiểu sự thai nghén và khai hoa một
tác phẩm nghệ thuật. Nguyên Hồng đã thổ lộnỗi vất vả và vật vã của kẻ « đã
thai nghén và mang rất nặng, đẻ thì đau quá sức lẽ mình, vậy mà lạiđẻ ra người
giấy, nhân vật giấy » : « Năm 1959, tôi bắtđầu viết tập đầu là tập Sóng
gầmtrong bộ Cửa biển. […] Sang năm 1960 thì được hơn
150 trang bản thảo, giấy là mặt sau của trang sổ khổ rộng, giấy màu hồng hồng,
của một công sở hay nhà buôn gì đó hồi Pháp thuộc bỏ lại […]. Bốn, năm
chương của tập đầu đã thành chữ với hơn 150 trang kia, chính mình đọc mà cũng
chán ngấy. Chán vì nó nhạt hoét, giả khượt. Mà nó nhạt hoét, giả khượt vì sáo
mòn, dễ dàng, nông choèn[…]. Tôi bỏ hẳn tập bản thảođầu với hơn 150
trang khổ rộng, giấy màu hồng hồng nọ. Tôi viết tập bản thảo hai, bản thảo ba.
Nhà tôi chép lại, tôi lại sửa và đưa đăng báo mấy chương. Đánh máy, đăng báo
rồi (Báo Văn nghệ 1961), tôi lại sửa. Đưa nhà xuất bản,đánh máy duyệt in, vẫn
sửa. Thành trang đưa đọc đểmáy chạy trọn vẹn, cũng vẫn sửa… Vẫn sợ nhạt loãng,
vẫn lo sự giả tạo, vẫn phải sao thật tỉnh táo với chính mình nếu có chút gì gian
dối. »
Ấy
là Nguyên Hồng đã sáng tác trong hoàn cảnh ưu đãi của xã hội mà ông phục vụ, vì
đã đăng ký đề cương sáng tác với Hội nhà văn, ký giao kèo sáng tác trong mười
năm… Chứ thật raCửa biển đãđược ấp ủ từ 1941. Từ khi khởi thảo
tác phẩm, đến Khi đứa con ra đời (!), 1976, là 35 năm, thời gian dài hơn hai
cuộc kháng chiến cộng lại. Và phần gian lao ắt cũng tương đương. Kết quả đápứng
xứng đáng với công lao động ấy : Cửa biển của Nguyên Hồng là tác
phẩm quan trọng hàng đầu trong ngành tiểu thuyết Việt Nam, ở tầm vóc của nó, và
ở giá trị nhân đạo, xã hội, lịch sử và nghệ thuật nữa.
Gần
đây hơn, Phan Tứ đã viết bộ tiểu thuyết trường thiên Người cùng quê,
vềxã hội tại địa phương vùng nam Trung bộ, chủ yếu là Quy Nhơn, đã xuất bản ba
tập (1985, 1995, 1997) khoảng1500 trang. Chúng tôi không biết những tập sau.
Tiểu
thuyết trường thiênđòi hỏi sức lao động bền bỉ, và hoàn cảnh sáng tác thuận
lợi, dù ở mức tương đối. Nhưng công trình có khi bạc bẽo : trong xã hội nhiều
đột biến như Việt Nam từ mấy mươi năm nay, có khi tác phẩm viết xong rồi– hai
mươi năm sau – thì không còn đáp ứng với sởthích người đọc, như trường hợp Xóm
Cầu Mới của Nhất Linh. Khối độc giả mới, đa số là thanh niên, không còn
thư thái để nhâm nhi những tinh vi, tế nhịcủa Nhất Linh, nhưng tác phẩm cũng
gây một ảnh hưởng nào đó trong tiến trình tiểu thuyết, mà ta gặp lại trong tiêu
đề Bèo giạt của Nguyễn Mộng Giác, là một trong những tên cũ của Xóm
Cầu Mới.
Vỡ
bờ của
Nguyễn Đình Thi, Cửa biểncủa Nguyên Hồng cũng chịu số phận
laođao, vì những lý do khác. Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi là những người cộng
sản trung kiên, đã đi theo cách mạng từ thời kỳ trứng nước, đã vào tù, ra khám,
đã trưởng thành trong chiến đấu, đã quán triệt mọi lập trường, quan điểm, yêu
cầu giai cấp. Thế mà khi tác phẩm in ra thì bị các nhà phê bình tuyên huấn hạch
sách trăm thứ bà dằn, đến độ bố Thi cáu sườn, trả lờiđại khái là : tôi là người
buôn ngựa, các anh là kẻlái trâu, nên đã chê ngựa tôi… không có sừng.
Những
truyện của Tô Hoài, người đã theo cách mạng rất sớm, viết về những người thợ
dệt làng Nghĩa Đô, quê ông, ở ngoại thành Hà Nội, thu vén lại cũng thành trường
thiên tiểu thuyết : đó là hoài bão của ông khi ông viết truyệnMười năm(1957)
mà ông đã thai nghén trong… mười năm. Khi sách xuất bản, bị đập tơi bời – vì
sai lập trường cách mạng, không nêu lên được « con người mới ». Tô Hoài chán,
một thời gian, không viết nữa. Những người lãnh đạo Việt Nam phải chịu trách
nhiệm về sự bế tắc của tiểu thuyết Việt Nam.
Tiểu
thuyết xưa nay vẫn là niềm an ủi của quần hùng chiến bại, là tiếng kèn bi thảm
của hiệp sĩ Roland từ đèo Roncevaux đáp lại lời kêu cứu thất thanh của Quan
Công khi thất thủ Kinh Châu, là tâm sự của Từ Hải, chết rồi còn đứng giữa trận
tiền để đợi chàng Julien Sorel rụng đầu bên máy chém. Tiểu thuyết, nơi hẹn hò
của những Hạng Võ khi biệt Ngu Cơ. Ngược lại lịch sử là triều đình của những
người chiến thắng, của Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang, Câu Tiễn, Trần Thủ Độ, Đặng
Trần Thường, tiểu thuyết là lối về của người chiến bại, những Kinh Kha, Ngũ Tử
Tư hay Ngô Thời Nhậm. Trong đám tàn quân rã ngũ đó, có cả nhân vật Mùa
biển độngcủa Nguyễn Mộng Giác – và có lẽ có cả Nguyễn Mộng Giác. Tiểu
thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa, ở một chân trời khác, thì lật ngược quy luật
: các nhân vật chính và chính diện – con người mới – sau khi chiếm đoạt lịch sử
thì chế ngự luôn cả nghệ thuật ; họ làm anh hùng hai lần, chỉ với một mũi tên ;
họ xe duyên với Thúy Vân rồi ép duyên cả Thúy Kiều, họ có cái vẻ vang luộm
thuộm lẫn cái hạnh phúc lúng túng của những ngườiđàn ông hai vợ.
Ngày
nay, mấy chữ tiểu thuyết trường thiên nghe nó xa xôi quá. Cứ gọi là bộtruyện Cửa
biển,Mùa biển động,Sông Côn mùa lũ,nghe gần
gũi hơn, và đúng hơn. Vì khái niệm tiểu thuyết, du nhập từ phương Tây, từ thời
kỳ này sang thời đại khác, đã nhiều lần biến chất, và hiện nay là một văn loại
đang tự hủy hay băng hoại trước nhưng thể loại khác và phương tiện truyền thông
mới. Cái còn lại là cốt lõi, là phần « truyện », hiểu theo nghĩa nôm na :
truyện Tam Quốc, truyện Thạch Sanh. Khi mọi ngườiđều nói truyện Mùa Biển
Động, thì Nguyễn Mộng Giác có quyền sung sướng.
Đặng
Tiến
Orleans,
05 tháng hai 1990, đọc lại và cập nhật 02-7- 2012,
để
tưởng niệm Nguyễn mộng
Đặng Tiến
Cập
nhật : 03/07/2012 23:24
Tiếc thương Nguyễn Mộng Giác
(1940-2012)
Đặng Tiến
Cập
nhật : 03/07/2012 23:24
Tiếc thương Nguyễn Mộng Giác
(1940-2012)
No comments:
Post a Comment