July 24, 2012 9:27 PM
Sự sụp đổ của hệ thống Cộng Sản trong
phạm vi thế giới từ cuối thập niên 1980 đã tạo điều kiện cho các dân tộc vùng
Đông Âu tìm về bản sắc văn hóa và cội nguồn lịch sử của mình. Sự phục hưng và
phát triển vượt bực của Slovakia, Estonia, Czech, Slovenia, Latvia và Lithuania
hiện nay cho thấy yếu tố văn hóa không những là động lực chính của phong trào
độc lập mà còn là nguồn thúc đẩy cho phát triển kinh tế dù đó là những nước
chật hẹp về đất đai và rất ít về dân số. Sức sống dân tộc và đôi cánh tự do dân
chủ đã giúp cho các quốc gia này ngày càng thịnh vượng.
Nhưng không phải lãnh đạo nào cũng
đức độ như Vaclav Havel của Czech hay tài ba như bà Vaira Vīķe của Latvia, từ
Hitler với đảng Quốc Xã Đức đến Đặng Tiểu Bình với đảng CS Trung Quốc, nhân
loại đã chịu đựng nhiều tai họa chỉ vì giới lãnh đạo độc tài tại các quốc gia
này đã sử dụng chủ nghĩa dân tộc như một phương tiện phục vụ cho mục tiêu bành
trướng bá quyền.
Khi Đặng Tiểu Bình chết, 17 tháng
Hai, 1997, nhiều lãnh đạo quốc gia, chính khách ca ngợi y như là một thiên tài
kinh tế, nhà chính trị lỗi lạc, can đảm và cũng là người giúp ngăn Trung Quốc
khỏi rơi vào hố thẳm. Tuy nhiên, các thành tựu kinh tế của Trung Quốc được đổi
bằng sự chịu đựng, hy sinh, mồ hôi, xương máu của nhiều dân tộc khác và ngay
tại Trung Quốc hàng trăm triệu dân thiểu số vẫn phải tiếp tục sống trong độc
tài, nghèo đói, bất công và bạc đãi. Nhiều học giả so sánh giữa Hitler và
Statin, Hitler và Mao nhưng rất ít người so sánh giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình
bởi vì họ chỉ nhìn những điểm sáng của Đặng Tiểu Bình mà bỏ qua phía tối của y.
Các điểm giống nhau giữa Hitler và
Đặng Tiểu Bình
Hitler và Đặng Tiểu Bình có nhiều chủ
trương rất giống nhau: (1) Cả hai đều dùng yếu tố chủng tộc để khích động lòng
yêu nước cực đoan; (2) cả hai đều triệt để khai thác hận thù trong quá khứ giữa
các quốc gia (3) cả hai đều tận dụng các kỹ thuật tuyên truyền tinh vi để tẩy
não, đầu độc, vận dụng và điều khiển nhận thức người dân; (4) cả hai đều chủ
trương bành trướng, mở rộng biên giới để chiếm đoạt tài nguyên nhằm phục vụ cho
các mục đích kinh tế và bá quyền nước lớn.
1. Yếu tố chủng tộc ưu việt: Giống như quan điểm của Hitler đề cao chủng tộc Aryan,
Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo kế thừa y đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại
Hán. Edward Friedman, một chuyên viên về Trung Quốc tại đại học Wisconsin phát
biểu “Khi Đặng Tiểu Bình nắm quyền 1977, chủ nghĩa dân tộc và tinh thần
chống Nhật đã trở thành chất keo giữ chặt xã hội lại với nhau”. Ngoài 1.2
tỉ người gốc Hán đang sống tại lục địa còn có 22 triệu người gốc Hán tại Đài
Loan, 6 triệu người gốc Hán tại Hong Kong, 10 triệu người gốc Hán tại Nam
Dương, gần 4 triệu người gốc Hán tại Singapore và hầu như khắp nơi trên thế
giới nước nào cũng có người gốc Hán. Đặng Tiểu Bình khi đề cao chủng tộc Hán, y
cũng không chỉ nhắm tới nhân dân Trung Hoa lục địa mà ở bất cứ nơi nào trên thế
giới. Theo họ Đặng “bất cần người Hoa mặc áo quần màu gì hay có quan điểm
chính trị gì” mà chỉ cần “yêu Trung Quốc”.
2. Khai thác hận thù trong quá khứ
giữa các quốc gia: Giống như chủ trương của Hitler khai
thác nội dung trừng phạt Đức nặng nề trong hiệp ước Versailles, Đặng Tiểu Bình
từ 1977 đã đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan bằng cách khích động lòng thù hận
với các nước Tây phương qua các hiệp ước bất bình đẳng dưới thời nhà Thanh. Đặng
Tiểu Bình nhiều lần nhắc đến “100 năm sỉ nhục”, thời gian Trung Quốc bị các đế
quốc khinh thường. Y nói: “Tôi là người Trung Hoa, và tôi quen thuộc với
lịch sử chịu đựng dưới sự xâm lược của ngoại bang”. Phần dẫn nhập của hiến
pháp Trung Quốc 1982 nhấn mạnh đến những vết nhục trong thời gian bị nước ngoài
chia năm, xẻ bảy và công lao thống nhất đất nước của đảng CS. Quá khứ “100 năm
sỉ nhục” đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nhận thức của người dân và đã được đảng
CS khai thác tận tình. Bất cứ hành động nào trong quan hệ ngoại giao quốc tế,
bất lợi cho đảng CS Trung Quốc, câu chuyện “100 năm sỉ nhục” lại được nhắc đến.
Ngay cả việc chính phủ các nước tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma, bán võ khí cho Đài
Loan, chỉ trích chính sách ngăn chận Internet của Trung Quốc, cũng được bộ máy
tuyên truyền CS giải thích cho nhân dân Trung Quốc đó những hành động khơi dậy
“100 năm sỉ nhục” và xúc phạm đến danh dự của Trung Quốc.
3. Tận dụng các kỹ thuật tuyên truyền
để đầu độc nhân dân: Giống như
Hitler chủ trương “Một dân tộc, một quốc gia, một lãnh tụ”, bộ máy tuyên
truyền của đảng CS Trung Quốc lập đi lập lại rằng chỉ có đảng CS mới là cứu
tinh Trung Quốc, phục hồi Trung Quốc như một cường quốc vốn từng vang danh năm
ngàn năm. Một trong những lý luận quan trọng trong Lý Thuyết Đặng Tiểu Bình là
việc thay đổi khái niệm từ “trung thành với giai cấp” sang “trung
thành với quốc gia” nhưng “trung thành với quốc gia” trước hết phải “trung
thành với đảng Cộng Sản”. Thực chất của chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong
quan điểm họ Đặng là một hình thức khác của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản
trong thời đại toàn cầu.
Tại Trung Quốc không có báo chí đúng
nghĩa để chuyển tải tin tức giữa hai nguồn một cách khách quan nhưng chỉ là
phương tiện tuyền truyền độc quyền của đảng. Không giống như giai đoạn đầu của
chính sách đổi mới chỉ có vài tờ báo đảng, năm 2005, Trung Quốc có trên hai
ngàn tờ báo, chín ngàn tạp chí nhưng tất cả tập trung vào mỗi một mục tiêu là
củng cố vai trò lãnh đạo của đảng CS. Trang đầu của các báo gần như giống nhau
với khuôn mặt tươi cười của các lãnh đạo đảng và nhà nước CS, với những thành
tựu kinh tế chính trị. Không có tờ báo nào có bộ phận tin quốc tế độc lập và
tất cả đều trích từ bản tin thế giới tổng hợp hàng ngày của Tân Hoa Xã. Bản tin
quan trọng quốc nội và quốc tế lúc 7 giờ tối của hệ thống truyền hình cũng đọc
lại tin của Tân Hoa Xã. Để tiết giảm chi phí, sau này nhà nước đã tư hữu hóa
các đài truyền hình, tuy nhiên, các tin tức quan trọng ảnh hưởng đến chính sách
đối nội và đối ngoại vẫn bị kiểm duyệt và chi phối bởi một cơ quan thông tin
trực thuộc trung ương đảng CS.
4. Bành trướng, mở rộng biên giới để
chiếm đoạt tài nguyên nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế và bá quyền nước
lớn: Giống như Hitler chiếm các nguồn tài
nguyên năng lượng để nuôi dưỡng bộ máy chiến tranh, Đặng Tiểu Bình mở rộng biên
giới, độc chiếm tài nguyên để nuôi dưỡng sự phát triển kinh tế. Song song với
phát triển kinh tế, Trung Quốc, nơi cư ngụ của một phần năm nhân loại, cũng
chuyển mình từ một một nền kinh tế tự túc xã hội chủ nghĩa để dần dần trở thành
một xã hội tiêu thụ. Nhu cầu năng lượng, vì thế, trở nên bức thiết.
Tại Phi châu, Trung Quốc khai thác
mọi bất đồng giữa các nước phương Tây và các quốc gia nghèo nhưng giàu tài
nguyên. Trung Quốc ngày nay đã thay thế vai trò của các đế quốc Anh, Pháp, Bồ
Đào Nha đã từng đóng tại Châu Phi thế kỷ 19. Để hút cạn nguồn dầu hỏa châu Phi,
Trung Quốc không những nuôi dưỡng các tầng lớp lãnh đạo độc tài mà còn tiếp tay
cho chúng để đàn áp các thành phần đối lập, tàn sát các tầng lớp nhân dân da
đen thiếu học, không một tấc sắt trong tay bằng những phương tiện vô cùng ác
độc. Giống như chế độ thực dân đế quốc trước đây, Trung Quốc bao che giới lãnh
đạo, cung cấp cho chúng tiền bạc, súng đạn, che chở an ninh cá nhân và bảo vệ
chế độ bằng quyền phủ quyết trong các cơ quan quốc tế như Liên Hiệp Quốc.
Đối với các nước Á Châu, trong giai
đoạn từ 1979 và sau chiến tranh biên giới với Việt Nam, Trung Quốc tập trung
mọi nỗ lực để theo đuổi Bốn Hiện Đại Hóa. Cuối thập niên 1980, Đặng Tiểu Bình
thực hiện chính sách hòa hoãn và quan hệ ngoại giao tốt đối với các nước láng
giềng Á Châu qua việc tái lập quan hệ ngoại giao với hàng loạt quốc gia như Ấn
Độ (1988), Mongolia (1989), Indenosia (1990), Singapore (1990), Brunei (1991).
Trung Quốc cũng tái lập quan hệ với Cộng Sản Việt Nam năm 1991. Như vậy vào
thời điểm 1991, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với cả mười quốc gia
thuộc khối ASEAN.
Về mặt ngoài, Đặng Tiểu Bình chủ
trương mở rộng quan hệ láng giềng tốt chỉ vì y không muốn các quốc gia nhỏ cảm
thấy bị đe dọa và kết thành một khối chung quanh Mỹ như họ đã làm trước đây
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, nhưng đối với từng quốc gia,
Đặng Tiểu Bình áp dụng một chính sách riêng biệt tùy thuộc vào điều kiện chính
trị, thế mạnh thế yếu của quốc gia đó. Phía sau của chính sách hòa hoãn, ổn
định để phát triển, giới lãnh đạo CS Trung Quốc luôn xem các nước nhỏ trong
vùng thuộc vòng đai kiểm soát của họ. Trung Quốc cũng dùng các nước Á Châu nhỏ
như là hàng rào an ninh bao bọc lục địa Trung Hoa và sẵn sàng dùng võ lực để
bảo vệ vòng đai an ninh này như trường hợp đối với Việt Nam từ 1974 đến nay.
Đặng Tiểu Bình và quá trình xiển
dương chủ nghĩa dân tộc cực đoan tại Trung Quốc
Giai đoạn đổi mới 1978: Sau khi nắm toàn bộ quyền hành sau
Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lần vào tháng 12, 1978, Đặng Tiểu Bình
vận dụng chủ nghĩa dân tộc để đẫy mạnh Bốn Hiện Đại Hóa (Công Nghiệp,
Nông Nghiệp, Quốc Phòng, và Khoa Học Kỹ Thuật). Từ sau hội nghị Lư Sơn và rõ
nhất là sau Hội Nghị Trung Ương Đảng tại Bắc Kinh 1961, quan điểm của Đặng Tiểu
Bình gần giống với Lưu Thiếu Kỳ, dùng mọi cách để nâng cao sản xuất bất chấp
các nguyên tắc kinh tế xã hội chủ nghĩa tập trung. Câu nói “Mèo đen hay mèo
trắng không quan trọng miễn là nó bắt được chuột” của Đặng Tiểu Bình thật
ra chỉ lập lại một câu châm ngôn trong văn hóa Trung Quốc nhưng phản ảnh không
những về đường lối, chính sách hiện đại hóa mà cả quan điểm của y về học thuyết
Mác. Theo Bác sĩ Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của Mao Trạch Đông, giai đoạn kinh
hoàng 1959 đến 1962, Đặng Tiểu Bình chủ trương “không quan tâm mèo đen hay
mèo trắng, công khai ủng hộ cho bất cứ chính sách gì miễn là gia tăng sản xuất
nông nghiệp”. Đặng Tiểu Bình nổi tiếng qua câu nói lịch sử này nhưng cũng
nhiều lần khổ sở vì nó. Cây gậy “mèo đen mèo trắng” được phe Giang Thanh
và Khang Sinh dùng để đánh họ Đặng trong Cách Mạng Văn Hóa khi Mao còn sống, đã
được cánh tả khuynh dùng để đánh y lần nữa sau khi Mao qua đời.
Sau cái chết của Mao, Đặng Tiểu Bình
lần nữa đối đầu với một thử thách có tính quyết định không chỉ sự nghiệp chính
trị mà cả mạng sống. Y đã liên minh với Hoa Quốc Phong và các lãnh đạo thuộc
thế hệ già trong nội bộ đảng để chống lại “Bè lũ bốn người” gồm Giang
Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn. Họ Đặng đã thắng.
Sau khi dẹp tan “Bè lũ bốn người”, cô lập Hoa Quốc Phong, nhận sự ủng hộ trung
thành của thành phần lãnh đạo mới lên như Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương, lôi kéo
được nhóm lãnh đạo thời Vạn Lý Trường Chinh như Diệp Kiếm Anh, Bành Chân, Lý
Tiên Niệm, Uông Đông Hưng, Đặng Tiểu Bình không còn đối thủ nào đủ tầm vóc,
thâm niên đảng tịch và tài năng hơn y. Trong cương vị Chủ tịch Quân Ủy Trung
Ương, họ Đặng trong thực tế là lãnh tụ tối cao của đảng Cộng Sản và nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Chiến dịch Mùa xuân Bắc Kinh và Bức
tường dân chủ: Đặng Tiểu Bình phát động chiến dịch Mùa
xuân Bắc Kinh trong đó cho phép hình thành một diễn đàn chưa bao giờ có
trong xã hội Cộng Sản: Bức tường dân chủ. Bức tường dân chủ là bức tường
gạch ở phố Tây Đơn, quận Tây Thành, Bắc Kinh. Đây là nơi để người dân nêu lên
các ý kiến có tính phản biện các chính sách của nhà nước. Nhiều bài thơ ca ngợi
tự do dân chủ cũng được dán lên đây. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan được họ Đặng
khơi dậy trong giai đoạn này nhằm lôi kéo quần chúng về phía mình, thu hút sự
tham gia của các tầng lớp nhân dân gia tăng sản xuất, tấn công vào tầng lớp tả
khuynh bảo thủ đang cản trở các thay đổi kinh tế chính trị của y.
Bức tường dân chủ của Đặng là con dao
hai lưỡi. Những người góp ý kiến trong Bức tường dân chủ không chỉ tấn công vào
tàn dư của phe nhóm Giang Thanh hay tham vọng tôn thờ cá nhân của Hoa Quốc
Phong mà dần dần tiến đến việc phê bình các chính sách của họ Đặng. Nhà vận
động dân chủ Wei Jingsheng vào ngày 5 tháng 12 năm 1978 đã dán lên bức tường
lời kêu gọi “Hiện đại hóa thứ năm” tức Dân Chủ Hóa.
Ý thức sự đe dọa của ngọn lửa dân chủ
bắt đầu nhen nhúm trong dân chúng, Đặng Tiểu Bình chỉ thị di chuyển Bức Tường
Dân Chủ vào bên trong một công viên nhỏ, và cuối cùng hủy bỏ. Dù sao, các ý
kiến được dán lên Bức Tường Dân Chủ đã cho thấy sự hiện diện của hai trường
phái tư tưởng đối lập tại Trung Quốc: dân chủ và độc tài, Mác và không Mác. Đây
là nguồn gốc sâu xa dẫn tới phong trào Thiên An Môn mười năm sau đó.
Mùa xuân Bắc Kinh đã tàn nhưng hạt
mầm dân chủ gieo trồng vào ý thức người dân Trung Hoa, nhất là giới trẻ đã dần
dần lớn lên. Các cuộc biểu tình của sinh viên đã xuất hiện từ 1985, 1986 tại
các thành phố lớn như Thượng Hải, Bắc Kinh với các khẩu hiệu “Dân chủ muôn
năm”, “Luật pháp chứ không phải độc tài lãnh đạo”. Lễ tưởng niệm dành cho
Hồ Diệu Bang, lãnh tụ CS có đầu óc đổi mới qua đời ngày 15 tháng Tư, 1989 đã
biến thành cuộc tuần hành đòi dân chủ lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện
đại. Sáng 22 tháng Tư, hàng trăm ngàn người thuộc nhiều giới, trong đó có các
đảng viên Cộng Sản trẻ, các nhóm Cộng Sản có khuynh hướng cải cách tập trung để
thương tiếc cựu tổng bí thư và phản đối chính sách trung ương tập quyền của
đảng, đòi hỏi các cải cách chính trị, kinh tế.
Dù gây một tiếng vang lớn, phong trào
Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc đã không đạt được mục đích như đã đề ra
trong tuyên bố bảy điểm và để lại cho các phong trào dân chủ trẻ thế giới nói
chung và tại các quốc gia Cộng Sản nói riêng. Chế độ CS lần nữa sống sót sau
trận bão dân chủ thổi qua Liên Xô và các nước Đông Âu đầu thập niên 1990.
Những cây cột chống đỡ chế độ Cộng
Sản tại Trung Quốc hiện nay
Tiếp tục củng cố tính chính danh của
đảng CS: Đặng
Tiểu Bình và các lãnh đạo CS tại Trung Quốc biết rõ hơn ai hết, cây cột duy
nhất có thể giữ chế độ CS khỏi sụp đổ trước mắt là xây dựng tính chính danh
lãnh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter Hays Gries, một chuyên gia về Trung Quốc,
viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa theo thủ tục để bầu ra các chính phủ theo
các nguyên tắc dân chủ, và đối phó với sự sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng
Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để cai trị đất
nước.”
Đặng Tiểu Bình bảo vệ yếu tố chính
danh: “Hình ảnh một Trung Quốc hiện đại không phải được tạo ra bởi nhà Thanh
hay bởi các lãnh chúa quân phiệt, và cũng chẳng phải do Tưởng Giới Thạch hay
con trai của ông ta. Chính là do Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã thay đổi hình
ảnh của Trung Quốc”. Khác với lý thuyết kinh điển CS trong đó giải thích
các yếu tố giai cấp là nguyên nhân của hình thành đảng CS và đấu tranh giai
cấp, các quan điểm CS ngày nay giải thích sự có ra đời của đảng CS Trung Quốc,
trước hết phát xuất từ lòng yêu nước. Giáo sư Liu Kang, Duke University, nhận
xét rằng hiện nay tại Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc trở thành một yếu tố chính
danh mạnh mẽ.
Giới lãnh đạo CS Trung Quốc tận dụng
mọi cơ hội để tiêm nhiễm chủ nghĩa dân tộc cực đoan vào nhận thức người dân.
Trong các sách vở, tài liệu, kể cả trong đại lễ kỷ niệm 60 năm thành lập Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa hay trong lễ khai mạc Thế Vận Hội, tinh thần Đại Hán
được biểu dương đến mức cao nhất. Việc tổ chức vô cùng rầm rộ Thế Vận Hội 2008
về mục đích cũng chỉ là một cách bắt chước dụng ý của Hitler trong việc tổ chức
Thế Vận Hội 1936 với cả hệ thống truyền hình và truyền thanh đạt tới 41 quốc
gia. Cả hai đều là cơ hội để chế độ độc tài củng cố quyền lực và hợp thức hóa
vai trò cai trị của họ.
Để tập hợp toàn dân sau lưng đảng và
hoán chuyển đối tượng đấu tranh của tuổi trẻ sang mục tiêu khác hơn là cơ chế
độc tài đảng trị, bộ máy tuyên truyền của đảng CS luôn nhấn mạnh đến các “thế
lực thù địch” đe dọa sự sống còn của Trung Quốc. Bộ máy tuyên truyền cũng làm
tất cả những gì cần thiết để “thế lực thù địch” luôn hiện diện không chỉ trong
suy nghĩ, nhận thức mà cả trong đời sống của người dân.
“Thế lực thù địch” là ai?
Trước hết là Mỹ: Đối với Mỹ, mặc dù giữa hai quốc gia có một mối quan hệ
kinh tế phụ thuộc vào nhau một cách phức tạp và sâu xa, Trung Quốc, về đối nội,
luôn vẽ một hình ảnh Mỹ đầy đe dọa trong nhận thức của nhân dân Trung Hoa. Mỹ
là thị trường lớn nhất cho hàng hóa Trung Quốc, tuy nhiên trong thống kê do BBC
thực hiện vào 2009, 58% dân Trung Quốc có cái nhìn tiêu cực về Mỹ. Trong Sách
Trắng Quốc Phòng Trung Quốc 2002 (China Defense White Paper 2002), Trung Quốc
cho rằng việc tăng cường đồng minh giữa Mỹ với các nước đồng minh Á Châu là
“yếu tố của bất ổn” trong khu vực này.
Ngày 8 tháng Năm, 1999, một máy bay
Mỹ ném bom lầm vào tòa đại sứ Trung Quốc tại Belgrade làm thiệt mạng 3 nhân
viên tòa đại sứ và bị thương một số người khác. Biểu tình bùng nổ khắp Trung
Quốc để tố cáo Mỹ “xâm phạm thô bạo chủ quyền Trung Quốc”. Trên
internet, các hacker tấn công trang web của tòa đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh và dán
ngay trong trang đầu hàng chữ “Đả đảo bọn người dã man”. Tức khắc sau
tai nạn, chính phủ Mỹ làm tất cả những gì họ nghĩ ra để chứng tỏ sự hối tiếc kể
cả việc hạ cờ thấp nửa cột tại tòa đại sứ Mỹ ở Belgrade. Trung Quốc cũng từ
chối cho phép Đại Sứ Mỹ Sasser tham dự lễ tiễn đưa cũng như không cho phép một
phái đoàn cao cấp của chính phủ Mỹ đến tận Bắc Kinh để xin lỗi.
Giới lãnh đạo Trung Quốc cố tình trì
hoãn việc công bố lá thư xin lỗi của Tổng Thống Clinton để nhân dân Trung Quốc
có dịp trút căm thù lên “thế lực thù địch” đế quốc Mỹ. Các trường đại
học cung cấp xe bus để chở sinh viên đến bao vây tòa đại sứ Mỹ. Tất cả mười
ngàn tờ báo tại lục địa Trung Hoa đăng những bài bình luận có tính khiêu khích
lòng tự ái dân tộc và kết luận tai nạn làm chết ba người Hoa tại Belgrade là “hành
động cố ý”. Ba người chết trong tai nạn thâm chí còn được là ba “thánh
tử đạo”. Các báo đảng được tự do kết tội Mỹ. Vài tờ báo so sánh hành động
máy bay Mỹ ném bom lầm tàn ác không thua gì tội ác chiến tranh do Đức Quốc Xã
gây ra. Trang đầu của Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức của nhà
nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, phân tích các điểm giống nhau giữa việc Mỹ
ném bom với cuộc tấn công của các đế quốc sau Loạn Quyền Phỉ (Boxer Rebellion).
Nhưng quá khích nhất là tờ Tuổi Trẻ Bắc Kinh với những bài bình luận với nội
dung khích động bầu máu nóng của thanh niên. Ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng sau
đó đã trao giải thưởng đặc biệt cho tờ báo này. Các phản ứng mang tích kích
động hận thù Mỹ cũng được thể hiện qua nhiều biến cố khác như trường hợp máy
bay thám thính U.S. EP-3 có thể bay lạc vào không phận Trung Quốc vào tháng Tư
2001 chẳng hạn.
Thái độ quá khích của giới lãnh đạo
CS Trung Quốc phát xuất từ một lý do khác: nỗi sợ bị bao vây. Từ thập niên 1990
đến nay, Trung Quốc luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng “khối quân sự” ám
chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt của quân đội Mỹ
tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Hiện nay, các quốc gia Đông Á vẫn
là đồng minh với Mỹ về mọi mặt, từ kinh tế chính trị và cả quân sự. Do đó, mối
lo lớn nhất của Trung Quốc là bị bao vây và thật sự nước Cộng Sản này đang bị
bao vây. Để đối phó lại các liên minh quân sự khối, Trung Quốc cố gắng phát
triển mối quan hệ đa phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải
(SCO), tuy nhiên tổ chức này chưa phải là đối lực của các khối thân Mỹ. Tuy mặt
ngoài thân thiện, các cơ quan truyền thông của đảng CS Trung Quốc cho rằng Mỹ
và các nước Tây Phương âm mưu làm cản trở đà tiến của Trung Quốc. Một số lãnh
đạo Trung Quốc còn tố cáo rằng Mỹ đang lừa Trung Quốc vào cuộc Chiến Tranh Lạnh
như Mỹ đã từng áp dụng với Liên Xô để cuối cùng dẫn đến cả hệ thống Liên Xô tan
rã.
“Thế lực thù địch” thứ hai là Nhật: Không thể và cũng không ai phủ nhận chính sách hà khắc của
các chế độ quân phiệt Nhật với Trung Quốc và Triều Tiên. Những biến cố như vụ
Tàn Sát Nam Kinh (Nanking Massacre) hay còn gọi Hiếp Dâm Nam Kinh (Rape of
Nanking) sau khi thành phố này rời tay Nhật trong chiến tranh Hoa Nhật lần thứ
hai (1937 – 1945) đã được thế giới biết qua nhiều sách vở, phim ảnh. Từ 1950
đến 2010, lãnh đạo các chính phủ Nhật đã 52 lần xin lỗi về các tội ác do quân
đội Nhật gây ra.
Thái độ chống đối hay ngay cả thù
ghét, căm hận Nhật trong tình cảm của nhân dân các nước bị xâm lăng trước đây
là một phản ứng tình cảm tự nhiên. Theo thống kê 2010, 24 phần trăm người dân
Nam Hàn nghĩ rằng Nhật chưa bao giờ xin lỗi và 58 phần trăm tin rằng Nhật không
xin lỗi một cách thành thật. Tuy nhiên, chánh phủ Nam Hàn không trộn lẫn các
tình cảm chống Nhật vào các chính sách kinh tế, chính trị và bang giao quốc tế.
Tại Trung Quốc thái độ chống Nhật là một loại vũ khí tuyên truyền của đảng CS.
Giới lãnh đạo CS Trung Quốc kiểm soát
tuyệt đối không chỉ đời sống vật chất mà cả đời sống tình cảm, tinh thần thương
ghét của người dân. Quá nhiều phim ảnh, sách báo tập trung vào một cuộc chiến
đã chấm dứt 60 năm trước. Một đứa bé Trung Quốc khi mới bắt đầu tập đọc sách đã
được dạy căm thù Nhật Bản. Việc đi thăm viếng và học hỏi tư liệu từ các viện
bảo tàng tội ác Nhật là một phần trong chương trình học của học sinh trung học.
Phóng viên tạp chí Time đã phỏng vấn một nữ sinh 15 tuổi sau khi em vừa viếng
thăm Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Chống Nhật và em đã trả lời “Xem xong, em thù
Nhật hơn bao giờ hết”.
Năm 2005, khi Nhật Bản vận động để
trở thành hội viên thường trực của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc, lãnh đạo CS
Trung Quốc lại lần nữa xúi giục hàng vạn sinh viên Trung Quốc xuống đường phản
đối. Các thành phố lớn, sinh viên tấn công các tòa lãnh sự, các cơ sở thương
mại, siêu thị, nhà hàng Nhật kể các công ty hàng hóa Nhật do người Hoa làm chủ.
Giới lãnh đạo CS biết, tội ác của Nhật càng nặng bao nhiêu thì vai trò cứu rỗi
dân tộc của đảng CS Trung Quốc càng to lớn bấy nhiêu. Hầu hết các nhà phân tích
chính trị thế giới đều đồng ý việc tuyên truyền công lao của đảng CS trong cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc chỉ nhằm biện hộ cho vai trò lãnh đạo lâu dài
của đảng.
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đe dọa sự
sống còn của đảng CS
Chủ nghĩa Đại Hán là con dao hai
lưỡi: Giáo sư Susan L. Shirk, nguyên Phụ
tá Bộ Trưởng Ngoại Giao đặc trách Trung Quốc nhận xét, trong lúc ảnh hưởng của
Trung Quốc ngày càng mạnh trên trường quốc tế, quốc gia này lại rất mong manh
trong nội bộ. Sau biến cố Thiên An Môn, để mua chuộc giới trung lưu có quyền
lợi mâu thuẫn với đảng, giới lãnh đạo đảng CS đã gia tăng tiền lương, nâng cao
mức sống của giới này, cung cấp công ăn việc làm trong hệ thống nhà nước, thu
hút họ gia nhập đảng CS. Mức lợi tức bình quân đầu người tại Thượng Hải vào
khoảng 9000 đô la, cách quá xa so với các khu vực ngoại ô nghèo nàn. Sự khác
biệt giàu và nghèo, thành phố và thôn quê đang báo hiệu một tai họa. Ngoài ra,
như lịch sử đã chứng minh sự phát triển của giai cấp trung lưu là nguồn thúc
đẩy của cách mạnh dân chủ vì đó là giai cấp có học thức, có phương tiện và có
nhiều nhu cầu vật chất cũng như tinh thần cần được thỏa mãn. Tại Trung Quốc,
giới lãnh đạo đảng CS đến nay đang thành công trong việc cầm chân giới trung
lưu nhưng không thể nào giữ được lâu dài.
Đối với các dân tộc thiểu số, chỉ
riêng ba tháng đầu năm 2009, Trung Quốc đã có 50 ngàn vụ xung đột có tính bạo
động lớn nhỏ giữa dân thiểu số và lãnh đạo CS tại địa phương. Các cuộc nổi dậy
chống chính sách Hán hóa tại 5 khu vực tự trị Tân Cương (Xinjiang), Ninh Hạ
(Ningxia), Nội Mông Cổ, Tây Tạng và Yining (thủ phủ khu tự trị dân tộc Kazakh
Ili) cũng như với 50 nhóm thiểu số khác khắp Trung Quốc ngày càng gia tăng. Lợi
thế của các dân tộc thiểu số tuy ít về dân số nhưng sở hữu những vùng đất rộng
mênh mông rất dễ gây khó khăn cho chính quyền trung ương.
Cũng trong tác phẩm Trung Quốc,
siêu cường dễ vở (China Fragil Superpower), Giáo sư Susan L.
Shirk nhận xét giới lãnh đạo CS Trung Quốc luôn sống trong tình trạng bất an
khi nghĩ về ngày vĩnh biệt không thể tránh khỏi của chế độ CS tại lục địa Trung
Hoa. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan phát triển đến một giai đoạn không còn kiểm
soát được đang trở thành mối đe dọa cho sự tồn tại của đảng CS và bộ máy độc
tài.
Chủ nghĩa Đại Hán làm gia tăng bất
hòa, thù địch với các nước láng giềng và sẽ đẩy các nước nhỏ không có chọn lựa
nào khác hơn là liên minh quân sự:
Từ thập niên 1990 đến nay, Trung Quốc luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng
“khối quân sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt
của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Phần lớn các quốc
gia vùng Đông Á vẫn là đồng minh với Mỹ về mọi mặt, từ kinh tế chính trị và cả
quân sự. Mối lo lớn nhất của Trung Quốc là bị bao vây và thật sự nước Cộng Sản
này đang bị bao vây. Để đối phó lại các liên minh quân sự khối, Trung Quốc cố
gắng phát triển mối quan hệ đa phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng
Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO), tuy nhiên tổ chức này chưa phải là đối lực của các khối thân
Mỹ. Tuy mặt ngoài thân thiện, các cơ quan truyền thông của đảng CS Trung Quốc
được chỉ thị phải liên tục tố cáo Mỹ và các nước Tây Phương âm mưu làm cản trở đà
tiến của Trung Quốc. Một số lãnh đạo Trung Quốc còn nghĩ rằng Mỹ đang dẫn dắt
Trung Quốc vào cuộc Chiến Tranh Lạnh như Mỹ đã làm với Liên Xô để cuối cùng dẫn
đến cả hệ thống Liên Xô tan rã.
Chiếc mặt nạ chủ nghĩa dân tộc sớm
muộn sẽ rớt xuống: Trung Quốc mặt ngoài rất hung hăng,
cứng rắn, ăn hiếp láng giềng qua các đụng độ quân sự nhỏ nhưng rất sợ chiến
tranh quốc tế hay khu vực bởi vì như nhà ngoại giao kỳ cựu Ngô Kiến Dân cảnh
cáo “Rất nhiều người cho rằng cứ tiến hành chiến tranh để giành chiến thắng
là ổn. Thực ra không phải vậy, mà ngược lại, sẽ chỉ làm tình hình xung quanh
Trung Quốc rơi vào hỗn loạn.” Nhà ngoại giao Ngô Kiến Dân cũng so sánh giữa
chủ nghĩa dân túy của Hiter và chủ nghĩa dân tộc cực đoạn tại Trung Quốc hiện
nay “Hitler có yêu nước Đức không? Dĩ nhiên có, nhưng hắn theo chủ nghĩa dân
túy. Thanh niên ngày nay cần có tầm nhìn rộng mở, phải có trái tim bao dung
thiên hạ. Thứ chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa yêu nước
hẹp hòi là không thể được. Một quốc gia chỉ biết cái lợi riêng mình thì sẽ mất
hết bạn bè, sẽ bị cô lập. Thời nay, cô lập là tai họa….Trong thời đại toàn cầu
hóa, tin học hóa khiến lợi ích các nước gắn kết chặt chẽ với nhau như hiện nay,
đã đến lúc chúng ta không thể đóng cửa lại để tuyên truyền thứ chủ nghĩa yêu
nước hẹp hòi.”
Giới lãnh đạo CS Trung Quốc không
phải không ý thức hiểm họa đó, tuy nhiên, để kéo dài sự sống, giới lãnh đạo CS
Trung Quốc không có chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục giương cao ngọn cờ chủ
nghĩa dân tộc và xoay xở bằng mọi cách để phát triển kinh tế. Cả hai điều kiện
đầu bất khả thi. Không một nền kinh tế nào có thể duy trì được mức phát triển
cao một cách liên tục và không sự thật nào được che giấu mãi mãi. Sự phẫn nộ
của dân chúng trước các suy thoái kinh tế xã hội sẽ trút lên đầu đảng CS. Sắc
dân Hán tuy đông nhưng sẽ không cứu được đảng CS. Lịch sử đã chứng minh, không
phải ngày nay sắc dân Hán mới chiếm đa số mà đã là đa số trong nhiều ngàn năm
trước nhưng vẫn bị các sắc dân nhỏ uy hiếp, tấn công và ngay cả cai trị. Sự suy
yếu bên trong và áp lực bên ngoài là những mối đe dọa thường trực và trực tiếp
cho quyền cai trị của đảng CS.
Bài học Tiệp Khắc trước chủ nghĩa dân
tộc cực đoan Đại Hán ngày nay
Chủ trương bành trướng về phía Đông
Âu của Hitler để làm bàn đạp chinh phục Âu châu cũng không khác gì nhiều so với
chủ trương bành trướng Đông Nam Á làm bàn đạp chinh phục Á châu của giới lãnh
đạo CS Trung Quốc hiện nay.
Sau khi sáp nhập Áo không có một phản
ứng mạnh nào từ phía các cường quốc Âu Châu, Hitler đòi vùng Sudelenland trù
phú với đa số dân nói tiếng Đức từ Tiệp Khắc. Anh Pháp nhượng bộ. Hiệp ước
Munich được ký kết bất chấp sự chống đối của chính phủ Tiệp. Không lâu sau đó,
Hitler chiếm luôn Tiệp Khắc. Tháng Chín 1939, Đức tấn công Ba Lan. Anh và Pháp
cam kết ủng hộ Ba Lan và tuyên chuyến với Đức. Thế chiến thứ hai thật sự bùng
nổ. Hậu quả, khoảng 60 triệu người trên thế giới đã chết trong sáu năm kinh
hoàng nhất trong lịch sử nhân loại.
Trường hợp Tiệp Khắc là bài học lớn
cho dân tộc Việt Nam và sẽ được phân tích trong bài viết đầy đủ hơn sau này.
Tuy nhiên một cách vắn tắt, lý do chính làm Tiệp Khắc bị xóa tên trên bản đồ
thế giới ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chưa hẳn vì Anh và Pháp
đã bán đứng cho Hitler tại hội nghị Munich như nhiều sử gia đồng ý. Chính sách
nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là
Thủ tướng Anh Neville Chamberlain chỉ là nguyên nhân khách quan, nằm ngoài vòng
kiểm soát chủ động của chính phủ và nhân dân Tiệp. Tiệp Khắc rơi vào tay Hitler
nhanh chóng chỉ vì Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều
chính khách làm tôi mọi ngoại bang và không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất
nước. Hitler nhắm vào Tiệp Khắc vì y biết Tiệp Khắc là một quốc gia nhưng không
có nội lực của một dân tộc thống nhất. Như người xưa nhắn nhủ muốn thắng kẻ thù
trước hết phải chiến thắng chính mình. Trong phạm vi dân tộc cũng thế, trước
khi thắng được ngoại xâm một dân tộc phải biết vượt qua mọi bất đồng, biết hy
sinh, biết đoàn kết thành một mối, và nếu cần phải biết chết cho các thế hệ
tương lai của dân tộc được sống còn.
Trần Trung Đạo
facebook.com/trantrungdao
danlambaovn.blogspot.com
danlambaovn.blogspot.com
———————————–
Tham khảo:
Susan L. Shirk, China Fragil
Superpower, Oxford University Press, 2007.
Center for Strategic and
International Studies and the Peter G. Peterson Institute for International
Economics, China: The Balance Sheet, Public Affairs 2007
Wenfang Tang and Gaochao He, Separate
but Loyal: Ethnicity and Nationalism in China, East-West Center 2010,
Hawaii University 2010.
Roderick MacFarquhar, Michael
Schoenhals, Mao’s Last Revolution, Cambridge, MA, Belknap Press of
Harvard University
The Democracy Wall Movement and the
Variations of Socialist Democracy, Department of Contemporary History. The 7th Biennial Nordic Conference on Chinese Studies,
Helsinki 7-9 June 2005
Jayshree Bajoria, Nationalism in
China, Council on Foreign Relations, April 23, 2008
Tiananmen
Square, 1989.The Declassified History
Robert Kagan, The End of
History, The New Republic, April 23, 2008
Joshua Kurlantzick, Nonstop party,
The surprising persistence of Chinese communism, Boston Globe,
November 22, 2009.
Maria Hsia Chang, Thoughts of Deng
Xiaoping, The Regents of the University of California
1996
Peter Hitchens, How China has
created a new slave empire in Africa, Mail, 28th
September 2008
Trần Trung Đạo, Từ Olympic đến
Darfur, đế quốc đỏ trên lục địa đen, Talawas, 19th
August 2008
Matthew Forney, Why China Loves
to Hate Japan, Time, Dec 10 2005
Austin Ramzy, Bao Tong on Deng
Xiaoping, ON THE WEB, 30 December 2008
Ngô Kiến Dân Vũ lực không
giải quyết được tranh chấp ở Biển Đông Tiền Phong, 15/07/2012
Robert L. Worden, Andrea Matles
Savada and Ronald E. Dolan, China: A Country Study. Washington: GPO for
the Library of Congress, 1987
No comments:
Post a Comment