18-7-2012
Lịch sử Trung hoa là lịch sử hàng nghìn năm tiến hành xâm
lăng các nước cận biên (biên giới tiếp giáp ) với họ, đặc biệt là với các nước
nhỏ và yếu hơn họ nhiều như Triều tiên , Myanma ,Việt Nam (… ), họ thực hiện
các bước : xâm chiếm đất đai , nô dịch con người, sáp nhập hành chính và cuối
cùng là đồng hóa văn hóa và chủng tộc bằng nhiều thủ đoạn tàn ác. Nhưng thâm
độc nhất là phá hủy các di tích lịch sử của người bản địa, đốt sách hoặc tịch
thu các sách lịch sử, văn hóa của đối phương mang về Trung hoa, nhằm làm cho
đối phương mất nguồn gốc, dẫn đến bị đồng hóa và bị thôn tính vĩnh viễn.
Ảnh (Thùy Linh): Một học sinh tiểu học trong đoàn người biểu tình chống
Trung quốc xâm lược, hai tay dơ cao biểu ngữ “Tổ quốc lâm nguy, xin đừng vô
cảm”. Hà Nội, 22/7/2012.
Chúng ta có thể nghe một đoạn huấn lệnh của Minh Thành Tổ ( Ming Cheng Zu ) (1403-1424) của Trung hoa, ra lệnh cho các tướng lảnh nhà Minh ( Ming) năm 1406, trước khi viễn chinh sang đánh An Nam ( Việt Nam ) như sau : “ Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách vở và bản in của đạo Phật và đạo Lão, còn thì mọi sách vở, văn tự, cả những dân ca, sách dạy trẻ ( …) đều phải đốt hết, một mảnh, một chử củng không chừa. Những bia nào Trung hoa xây dựng từ trước thì đều giữ gìn cẩn thận, còn bia nào do An Nam dựng thì phá hủy cho hết …” ( 1)
Trước khi tấn công các nước láng giềng, Trung hoa thường
tiến hành phân hóa, mua chuộc, ru ngũ đối phương và các nước có liên quan, bằng
các thủ đoạn ngoại giao vô cùng xảo trá .Thủ đoạn đặc trưng của họ là áp dụng
sách lược Viển giao – Cận công . Nghĩa là giao hảo với các nước ở xa biên giới
của họ, nhằm giử các nước đó ít nhất ở thế trung lập bằng các quyền lợi kinh tế
hoặc các thỏa hiệp chính trị, nhưng đồng thời họ sẻ tấn công và thôn tính từng
nước riêng lẻ ở sát biên giới với họ. Chính sách nầy được áp dụng từ hàng ngàn
năm nay, và họ hiện nay vẩn đang áp dụng chính sách đó .Thời Thất hùng (7 nước
) của lịch sử Trung hoa, nước Tần ( Qin) đã sử dụng chính sách Viển giao – Cận
công (dùng thuyết Liên hoành để cầm chân nước Sở, Tề hùng mạnh ở xa và tiêu
diệt Tam Tấn là Hàn , Triệu ,Ngụy ở gần ). Kết cục trong vòng 10 năm ( 230BC. –
221BC. ) họ đã thôn tính lần lượt 6 nước còn lại : Hàn ( Han ) ,Triệu ( Zhao) ,
Ngụy ( Wei), Yên
( Yan ) , Sở ( Chu). Tề ( Qi) , và lần đầu tiên thống
nhất đế chế Trung Hoa (2).
Ảnh (huffingtonpost.co.uk): Jamphel Yesh, một thanh niên Tây Tạng đang làm
ngọn đuốc sống trên đường phố của Tân Đề Li, Ấn Độ, để phản đối Trung quốc
cưỡng chiếm Tây Tạng.
Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều ví dụ tương tự về sách
lược Viễn giao – Cận công, vào nhiều thời kỳ khác nhau của lịch sử Trung hoa .
Gần đây nhất là việc Trung quốc (3) cưởng chiếm Tây Tạng ( Tibet ) năm 1950
-1959, lấn chiếm lảnh thổ của Ấn Độ năm 1962, xâm lăng quần đảo Hoàng sa (
Paracel ) năm 1974, đảo Gạc Ma ( Johnson south Reef) thuộc quần đảo Trường sa (
Spratly ) năm 1988 của Việt Nam sau khi họ đã thực hiện được Viển giao thành
công với Hoa kỳ. ( ít nhất là họ nhận được dấu hiệu không can thiệp từ phía Hoa
kỳ ). Nếu trước đó không thực hiện được Viễn giao với Hoa kỳ , chắc chắn Trung
quốc không thể thực hiện được các cuộc Cận công nói trên. Một cách cận cảnh,
chúng ta có thể gọi Việt nam nói riêng và 2 nước Đông dương Việt nam , Lào nói
chung là các nước cận biên với Trung quốc . Việt nam là cái đầu của bán đảo
Đông dương , nước nào chiếm được Việt nam sẻ chiếm được cả Đông dương . Hoa kỳ
, Úc , Ấn độ , Nhật bản , Hàn quốc, Liên minh Châu âu và các nước Asean trừ
Miến điện ( Myanma) được coi là các nước ở xa.
Hiện tại, Trung quốc đang có hàng loạt yêu sách về lảnh
thổ trên biển đối với Hàn quốc , Nhật bản , Việt nam , Philíppin , Malaysia .
Nhưng với thực lực quân sự và ngoại giao hiện tại, tôi tin chắc rằng Trung quốc
không có khả năng dám sử dụng vủ lực trực tiếp với các đồng minh chiến lược của
Hoa kỳ như Nhật bản , Hàn quốc kể cả với Philippin ( Philippines) trong một
tương lai gần. Trung quốc chỉ nghi binh, khuấy động vấn đề, thăm dò quyết tâm,
giải mả các phản ứng của đối phương và thực hiện Giương đông – Kích tây ( đe
dọa Nhật bản, Hàn quốc , Phi líp pin nhưng sẻ tấn công Việt nam ). Một khả năng
rất lớn họ sẻ tấn công quần đảo Trường sa của Việt Nam, vì phía bắc Quần đảo
Trường sa họ có căn cứ hải quân cho tàu ngầm nguyên tử và hàng không mẩu hạm ở
cực nam đảo Hải nam ( Hainan).
Mới đây, Trung quốc lại vừa điều chuyển một tướng lảnh
chủ chốt có đường lối cứng rắn, từ chỉ huy hạm đội Bắc hải sang chỉ huy hạm đội
Nam hải , điều nầy cho thấy ý muốn sử dụng vủ lực để giải quyết vấn đề của Bắc
kinh là rất lớn. Nhưng quan trọng hơn ,Việt nam là một mắt xích trơ trọi và khá
yếu về quân sự, chưa có nhiều kinh nghiệm về hải chiến, không chiến và phối hợp
trên biển . Mặt khác, Việt nam hiện nay quá đơn độc về ngoại giao quốc phòng ,
không có cường quốc nào là đồng minh chiến lược, hoặc có một hiệp ước phòng thủ
hổ tương nào đáng tin cậy về quân sự với bất kỳ cường quốc nào . Ngoài ra,
chính phủ hiện tại của Việt nam dường như có một thái độ chính trị, và ngoại
giao chưa nhất quán, thiếu quyết liệt , thiếu chủ thuyết, thiếu sức mạnh , nhằm
bảo vệ chủ quyền trên biển trước một Trung quốc tham lam và cường bạo. Tuy
nhiên, củng cần ghi nhận rằng gần đây Việt nam đã có một bước tiến tuy chưa đủ
nhưng khá tích cực.
Việc quốc hội Việt nam đã thông qua luật biển vào ngày
21/6/2012, ngay sau khi bộ trưởng quốc phòng Hoa kỳ Leon Panetta vừa sang thăm
Việt nam . Điều nầy cho thấy chính phủ Việt nam, trong một chừng mực nào đó, đã
nhận thức rỏ ràng hơn về dã tâm xâm lược trắng trợn của nhà cầm quyền Trung
quốc. Từ trước đến nay, thủ đoạn nham hiểm nhằm che đậy dã tâm xâm lược của
Trung quốc được thực hiện thông qua bọn Hán gian và một số quan chức tham nhũng
bán nước tại Việt nam là đưa ra khẩu hiệu giả dối về tình hửu nghị “16 chử vàng
– 4 tốt “ nhằm ru ngủ, làm chính phủ và người dân Việt nam mất cảnh giác, và
đưa ra một luận điệu lổi thời có tên gọi là “ thế lực thù địch” nhằm ngăn cản
bang giao tin cậy Việt – Mỹ , đồng thời phá hoại sức mạnh đoàn kết dân tộc của
người Việt trong nước với chính phủ Việt nam, và chính phủ Việt nam với người
Việt hải ngoại yêu nước, trong nổ lực cùng chống Trung quốc xâm lược.
Có một giả định không bao giờ thừa , Trung quốc sẻ tấn
công Việt nam trên biển , và trong một tương lai xa hơn, nếu đủ điều kiện họ sẻ
thôn tính luôn trên bộ, lập ra một chính phủ tay sai thân Trung quốc, hoặc
cưởng nhập Việt nam vào Trung quốc ( tương tự Tây tạng ) với một lý do điên rồ
và dối trá rằng Việt nam từng thuộc về Trung quốc. Giống như Iraq thời Sadam
Husein, thực hiện xâm lăng và tuyên bố sáp nhập Kuwait thành tỉnh thứ 19 với lý
do Kuwai từng thuộc đế quốc Ottoman, mà một thống đốc Thổ nhĩ Kỳ ( Turkey )đóng
tại Bagdag thời đó đã cai trị luôn cả Kuwait. Trung quốc có thực hiện được điều
giả định nầy không? Câu trả lời là hoàn toàn CÓ. Nếu họ thực hiện Viển giao
thành công với Hoa kỳ . Chúng tôi , nhân dân Việt nam hy vọng là Hoa kỳ ngày
nay , không tiếp tục mắc mưu Trung quốc trong vấn đề Biển Đông . Chính sách
phân chia vùng ảnh hưởng và thỏa hiệp với Trung quốc nhằm loại Liên xô, hay ít
nhứt là không can thiệp trên biển Đông trước đây, không phải là không có hậu
quả đối với Hoa kỳ cho tới ngày nay. Với vị trí chiến lược được mệnh danh là “
Người lính canh của Biển đông.” của quần đảo Hoàng sa mà Trung quốc đang chiếm
của Việt nam từ năm 1974 ( trước sự không can thiệp của hải quân Hoa kỳ ) ,
củng như vị trí giao thông hàng hải và kinh tế quan trọng của quần đảo Trường
sa nếu Trung quốc chiếm được , hoàn toàn có thể đe dọa Hoa kỳ và các đồng minh
một cách trầm trọng và lâu dài.
Ngày nay, chúng ta có thể nhận dạng hình thù của một nước
Trung quốc hiện đại, đang lộ rỏ dáng dấp của một nước Đức phát xít trước đệ nhị
thế chiến . Lợi dụng suy thoái kinh tế thế giới hiện tại, tương tự khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 1929-1933, họ đã và đang đưa ra nhửng yêu sách mang tính
cường bạo và phi lý . Các yêu sách lảnh thổ bất hợp pháp của họ hiện nay trên
biển, củng tương tự như yêu sách của Hitler đối với vùng Sudetenland của Tiệp
khắc trước hiệp ước Munich năm 1938, và lịch sử củng chứng minh rằng sự nhượng
bộ và thỏa hiệp của Anh, Pháp đối với Đức tại Munich đã không đem lại hòa bình
. Sự thực, Trung quốc không phải chỉ muốn quần đảo Senkaku , đảo Ioedo, bải cạn
Scarborough, quần đảo Hoàng sa, quần đảo Trường sa mà họ muốn cả quần đảo
Ryukyu, cả Hàn quốc, cả biển Đông , cả Đông dương, cả Asean và tất nhiên luôn
cả một nước Úc rộng lớn, giàu tài nguyên mà dân số ít cho một quốc gia sẻ đạt
1,5 tỷ dân của họ . Vào một ngày “ ma quỹ.”nào đó, họ có thể dể dàng trân tráo
tuyên bố : “Nơi nào có người Trung hoa sinh sống, các hòn đảo và các đảo quốc
trên Thái bình Dương và Ấn độ dương mà Trịnh Hòa ( Zheng He) đời nhà Minh ( 1368-
1644) đã từng ghé qua trong 7 lần hải hành ( 1405 – 1430). Lảnh thổ hoặc vùng
biển nơi đó thuộc Trung Quốc.” Họ gọi một cách bất hợp pháp , và đáng nhạo
báng: Đó là chủ quyền lịch sử của Trung quốc!
Chính sách rất thâm độc của Trung quốc là ở chổ : Sau khi
chiếm được một quốc gia láng giềng cận biên, họ sẻ sử dụng nguồn lực của quốc
gia đó như nhân lực, vật lực, tài nguyên, vủ khí (…) để tấn công nước kế tiếp
theo biên giới mới của họ. Thông qua chiến tranh, họ làm cho quốc gia mới bị
chiếm, bị tiêu diệt về dân số vì phải bị Trung quốc trưng binh để gây chiến với
quốc gia khác. Sau đó, Trung quốc sẻ đưa người Hoa sang lấp vào khoảng trống về
dân số đó. Campuchia thời Khome đỏ có thể tạm coi là một ví dụ bất thành của
chính sách đó ( vì Khmer Đỏ đã bị đánh bại, nếu không, chúng ta đã chứng kiến
một cuộc di dân bí mật nhưng khổng lồ từ Trung quốc sang Campuchia).
Như vậy , không sớm thì muộn các quốc gia ở xa củng sẻ bị
thôn tính.
Giả định, nếu Trung quốc cưởng nhập được Đài loan, thì với nguồn lực hùng mạnh, giàu có của Đài loan thì các quốc gia láng giềng như Ấn độ, Úc , Nhật bản , Hàn quốc, Việt nam (…) và Hoa kỳ sẻ vô cùng mệt mỏi. Khi đó, ngay lập tức tại Hong kong sẻ không còn hình thái 1 quốc gia 2 chế độ, vì Trung quốc không còn cần phải dùng Hong kong như một kiểu mẩu để chiêu dụ dân Đài loan trở về với lục địa . Nếu Trung quốc chiếm được Việt nam, và tất nhiên là Đông dương thì họ sẻ dùng nguồn lực của Đông dương để xâm lăng Thái lan , Malaysia , Brunei, Miến điện và Indonesia và sau đó lại …..: Viển giao – Cận công . Khi đó tôi e rằng Úc và Ấn độ sẻ bị đe dọa trực tiếp và tất nhiên sẻ đe dọa gián tiếp sự sống còn của Hoa kỳ.
Có một câu nói rất phổ biến và nổi tiếng, xác nhận đặc
trưng nảo trạng của người Trung hoa : “Một nước không thể có hai vua – một bầu
trời không thể có hai mặt trời – một khu rừng không thể có hai con hổ.” . Do
vậy, sớm hay muộn, Trung quốc sẻ từ đồng minh chiến thuật trước đây trong việc
loại bỏ đế chế Liên xô , sẻ chắc chắn trở thành kẻ thù chiến lược của Hoa kỳ
trong việc tranh đoạt vị thế số 1 thế giới.
Trường hợp nầy sẻ tương tự như Iraq thời thập niên 80,
từng là đồng minh chiến thuật của Hoa kỳ trong chiến tranh Iran –Iraq
((1980-1988), nhưng sang thập niên 90 , Iraq đã biến thành kẻ thù chiến lược
của Hoa kỳ sau khi xâm lăng Kuwait năm 1991, và cuối cùng Hoa kỳ đã loại bỏ
thành công chế độ độc tài – xâm lược của Sadam Husein .
Chúng tôi , những người công dân Việt nam yêu nước, và là công dân yêu chuộng hòa bình của thế giới tự do, luôn lo lắng về vận mệnh và chủ quyền quốc gia củng như tương lai hòa bình của cộng đồng thế giới.
Chúng tôi yêu cầu các nhà lảnh đạo Việt Nam hiện tại, cần
cương quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lảnh thổ quốc gia trên biển và trên bộ
bằng mọi biện pháp, coi đây là mục tiêu tối thượng và cấp bách nhất hiện nay.
Cần tuyên cáo đầy đủ cho toàn thể quốc dân Việt nam được biết Việt nam đang bị
hiểm họa xâm lăng từ Trung quốc . Ngoài ra, phải có biện pháp kiểm soát chặc
chẻ và vạch mặt bọn Hán gian dấu mặt tại Việt nam . Không thỏa hiệp hay nhượng
bộ Trung quốc , không ký kết bất kỳ các hiệp ước hợp tác hoặc khai thác chung
nào trên các vùng lảnh thổ có tranh chấp trên bộ, củng như trên biển với Trung
quốc , không ký kết các hiệp ước về tuần tra chung trên biển với Trung quốc(…)
Vì các hợp tác nầy chỉ tạo điều kiện cho Trung quốc lợi dụng Việt nam mà thôi .
Việt nam cần sát cánh , thống nhất phối hợp hành động với quốc gia có cùng hoàn
cảnh chiến thuật giống Việt nam là Philippin trên mọi diển đàn quốc tế về biển
Đông . Đồng thời, cần thiết lập các mối quan hệ bền vửng, nhất quán, tin cậy và
chiến lược về ngoại giao và quốc phòng với các cường quốc ở xa như Ấn độ , Nhật
bản, Hàn quốc, Úc , Liên minh Châu âu ,(… ), đặc biệt là Hoa Kỳ.
Hoa kỳ luôn luôn là nhân tố cốt lỏi để bẻ gảy chính sách
Viển giao của Trung quốc. Chính phủ Việt nam dứt khoát nên kết liểu chính sách
ngoại giao kiểu “ Con khỉ .”, chấm dứt đi hàng hai giửa Trung quốc và Hoa kỳ.
Việc thiếu nhất quán và thành tín ngoại giao về lâu dài sẻ làm cho uy tín ngoại
giao của Việt nam phá sản . Chính phủ Việt nam cần đặt quyền lợi quốc gia lên
trên quyền lợi cá nhân và đảng phái. Cần xác tín rằng, vì lợi ích quốc gia ,
chính phủ Việt nam cần phải thắt chặt quan hệ toàn diện và chiến lược với một
quốc gia có nguồn lực kinh tế, kỷ thuật , sức mạnh quốc phòng, sức mạnh ngoại
giao và hệ thống tình báo vượt trội gấp nhiều lần so với Trung quốc. Quốc gia
đó chỉ có thể là Hoa kỳ . Việc thắt chặc quan hệ chiến lược với Hoa kỳ hoàn
toàn không có nghĩa là Việt nam lệ thuộc Hoa kỳ . Việt nam là một quốc gia độc
lập và nó đã từng chứng tỏ sức tự cường và sẻ chiến đấu để tự tồn, nhưng sự sát
cánh với Hoa kỳ trong lúc nầy là giải pháp duy nhất đúng và mang tính sống còn
của dân tộc.
Chính phủ Việt nam không nên nghi ngại về lịch sử chiến
tranh với Hoa kỳ, mà cần nhìn xem các cựu thù với Hoa kỳ là Đức quốc và Nhật
bản đã trở thành đồng minh tin cậy và chiến lược với Hoa kỳ như thế nào? hiệu
quả thịnh vượng của họ khi là đồng minh với Hoa kỳ hiện nay ra sao? .Chính phủ
Việt nam củng nên nhớ rằng , chỉ có thể phối hợp với các nước Asean như một
tiếng nói ngoại giao, chứ không thể là một trông cậy về quân sự, và chắc chắn
rằng Asean chưa bao giờ là một thực thể quân sự đủ trọng lượng trước Trung
quốc, và nó vẩn thường thiếu sự thống nhất về chính trị và ngoại giao ( lập
trường của Campuchia về biển Đông là một bằng chứng ). Các quốc gia thuộc Châu
á –Thái bình dương, các nước Asean , Ấn độ , Úc , Hàn quốc , Nhật bản , Nga ,
liên minh Châu Âu và đặc biệt là Hoa kỳ cần nhận thức chính xác, nhanh chóng và
hửu hiệu về sách lược Viển giao – Cận công của Trung quốc, nhằm không thỏa hiệp
với Trung quốc và tiến hành giúp đở các quốc gia cận biên với Trung quốc chống
lại âm mưu xâm lăng của Trung quốc. Làm như vậy là các quốc gia đó và Hoa kỳ
đang tự bảo vệ mình.
Nhìn chung, tôi ủng hộ chính sách Châu á – Thái bình
dương của Tổng thống Obama, tôi ủng hộ sự thành công bước đầu về ngoại giao của
Hoa kỳ tại Miến điện và Indonesia, ủng hộ liên minh quân sự Nhật – Mỹ – Hàn –
Úc – Ấn . Tuy nhiên, tôi nghĩ Hoa kỳ cần hành động nhanh chóng , mạnh mẻ, và
cương quyết hơn nửa trước Trung quốc. Mặc khác, tôi cho rằng Hoa kỳ, Liên minh
Châu âu với sức mạnh truyền thông , Nhật bản với sự hiểu biết sâu sắc về Trung
hoa của mình cần đẩy mạnh việc phơi bày và chứng minh sự gian trá của Trung
quốc trên toàn thế giới và hình thành một liên minh chống một đế quốc hung hản
mới. Đế chế hung hản Liên bang Xô Viết trước đây đã tan rả, thế giới đã hòa
bình hơn . Nếu đế chế bạo tàn và xảo quyệt Trung quốc ngày nay tan rả, thế giới
sẻ an toàn và tốt hơn.
Là công dân Việt nam, công dân của cộng đồng Châu á -Thái
bình dương , công dân của thế giới , tôi hy vọng tổng thống Obama tái đắt cử,
mặc dù tôi nghĩ rằng ứng cử viên đảng Cộng hòa ông Mit Romney củng là người
xứng đáng nếu được nhân dân Hoa kỳ lựa chọn. Tôi củng mong muốn rằng, các tổng
thống Hoa kỳ, dù thuộc đảng Cộng hòa hay Dân chủ, đừng bao giờ quên rằng trong
lịch sử Trung hoa, đã có rất nhiều câu chuyện về việc người Trung hoa có thể trịnh
trọng mời một người khách đi dự tiệc, nhưng đồng thời tổ chức phục kích, giết
chết người khách mời đó trong đối sách của Hoa kỳ đối với Trung quốc. Mặt khác,
cộng đồng quốc tế , Liên minh Châu âu và Hoa kỳ củng không bao giờ nên tin
tưởng hoàn toàn vào các hiệp ước đã ký kết với Trung quốc. Việc thực thi rất
kém về cam kết bảo vệ quyền sở hửu trí tuệ, tỷ giá hối đoái , thực thi nhân
quyền, tự do tôn giáo và tự do thông tin ( … ) của Trung quốc, là một trong rất
nhiều bằng chứng đã được kiểm chứng về sự man trá của các nhà lảnh đạo Trung
quốc . Đối với các nhà lảnh đạo Trung quốc, các hiệp ước thường chỉ có tính
chiến thuật và chỉ để “cầm chân” đối phương, chứ đó không bao giờ là một căn
bản, để hoạch định hợp tác và thực thi. So với Liên bang Xô viết độc tài , nước
Đức phát xít trước đây thì Trung quốc hiện tại còn mưu mô và xảo quyệt hơn
nhiều.
“Chỉ có những kẻ ngu mới tin Trung quốc” ( 4) đó là một
chân lý đã được chứng minh.
Nam Hưng tháng 7, 2012
Tài liệu tham khảo
- ( 1) Sử Trung Quốc . Nguyễn Hiến Lê
- ( 2 ) Các phiên âm theo mẩu tự Latin các địa danh và tên nhân vật Trung hoa dựa trên Wikipedia
- ( 3) Các sự kiện xảy ra trước 1/10/1949 tôi gọi là nước Trung hoa , sau sự kiện Trung hoa trở thành quốc gia cộng sản tôi gọi là Trung quốc .Việc phân chia nầy dựa trên cách phân chia của Giáo sư sử học Trần Gia Phụng – Canada
- ( 2 ) Các phiên âm theo mẩu tự Latin các địa danh và tên nhân vật Trung hoa dựa trên Wikipedia
- ( 3) Các sự kiện xảy ra trước 1/10/1949 tôi gọi là nước Trung hoa , sau sự kiện Trung hoa trở thành quốc gia cộng sản tôi gọi là Trung quốc .Việc phân chia nầy dựa trên cách phân chia của Giáo sư sử học Trần Gia Phụng – Canada
- ( 4) : Có tài liệu cho rằng đây là lời phát biểu của
Nikita khrushchyov, tổng bí thư đảng cộng sản liên xô 1953 – 1964 , chủ tịch
hội đồng bộ trưởng Liên xô 1958 – 1964
No comments:
Post a Comment