20-7-2012
“Kể từ ngày nổ ra
cuộc biểu tình yêu nước đầu tiên 5/6/2011, đến nay cả thẩy đã có 13 cuộc xuống
đường của những người Việt Nam yêu nước ở Hà Nội và Sài Gòn, để phản đối các
tham vọng bá quyền của Trung Quốc, trong đó có cả những cuộc biểu tình bầy tỏ
sự ủng hộ quốc hội Việt Nam sớm ra luật biểu tình và Luật Biển. Vậy mà vẫn chưa
đủ độ vang để thức tỉnh những đồng nghiệp , những thế hệ học sinh… tiếp nối
thời đứng bục giảng của tôi. Họ vẫn vô tư đứng ngoài các biến động đó bằng một
thái độ dửng dưng, vô cảm, Mackeno… thật là khó hiểu.(!?)
Tôi không bất ngờ
khi những biểu tượng của biểu tình yêu nước như Bùi Thị Minh Hằng, Trịnh Kim
Tiến, Nguyễn Chí Đức, Huỳnh Thục Vi… bị bắt giữ, bị vô hiệu hoá ngay trong ngày
1 – 7 và việc cơ quan an ninh Việt Nam vẫn tiếp tục cầm chân tại gia các gương
mặt dân chủ có nhiều ảnh hưởng tới đám đông…cũng không làm tôi phải ngạc nhiên.
Nhưng, việc cụ bà Lê Hiền Đức, một Teresa của dân oan Việt Nam, đã ngoài bát
thập rồi vẫn phải đảm đương vai trò là biểu tượng cho những cuộc xuống đường ở
Hà Nội và tương tự điều đó…ở Sài Gòn, những gương mặt của phong trào Sinh Viên
- Học Sinh Sài Gòn trước 30 – 4 – 1975, những con người của những đêm không ngủ
“Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe ”ngày nào… nay cũng đã là các bậc trưởng thượng
trong giới sĩ phu Nam Hà rồi, họ xứng đáng được nghỉ ngơi, được mọi người kính
lão đắc thọ, mà nay họ vẫn phải giữ vai trò đi hàng đầu của cuộc xuống đường ở
đó sáng 1 – 7 – 2012…làm tôi thấy quá bất ngờ và suy nghĩ: “Vì sao mà lứa trẻ
ngày nay lại vô tình đến thế?”
Bài viết này là
một trong những nỗ lực để tôi tìm đến lời giải đáp cho điều mà tôi đã nhiều lần
tự vấn mà vẫn chưa tìm được đâu là lời giải đáp cuối cùng. ”
Nguyễn Thượng Long
Các sĩ phu của Sài
Gòn trong ngày biểu tình phản đối Trung Quốc 1 – 7 - 2012
Ngày 1- 7
-2012:“Hà Nội ầm ầm rung, Sông Hồng reo” dưới cánh tay của một cụ bà đã ngoài
80 tuổi.
Nhiều người bảo:
Trong kho tàng thơ và ca khúc Việt Nam đương đại, bài thơ Biển của Xuân Diệu và
ca khúc “Chuyện Tình Của Biển” (Thanh Tùng) là những sáng tác để lại
nhiều tình cảm đẹp về biển thật khó quên:
“Anh không xứng
làm biển xanh,
Nhưng anh muốn em
làm bờ cát trắng …”(XD)
và:
“Ngày xưa biển
không có cát như bây giờ
Ngày xưa biển
không có sóng vỗ bờ” (TT)
Theo thiển nghĩ
của tôi, các thi phẩm, nhạc phẩm theo Motip chuyện tình kiểu này, chỉ nẩy nở
trong những ngày mà người Việt còn mải vui chơi ca hát mà quên rằng, dân tộc
mình, đất nước mình, vùng Biển Đông của mình đang ẩn chứa những điều gì là phúc,
là hoạ... Tôi tin là mọi người sẽ rất khác khi biết ngoài việc ban cho nhân dân
Việt Nam một đường bờ biển đẹp như trong mộng, Thượng Đế còn tặng riêng cho
người Việt Nam mình một trữ lượng dầu mỏ to lớn đến không ngờ. Lượng dầu đó là
bao nhiêu? Xin thưa! Dư sức để vận hành nền kinh tế Trung Quốc đang ở ngôi thứ
2 thế giới với GDP 6000 tỉ USD (2001) trong suốt 30 năm nữa, còn kinh tế Việt
Nam lúc này với GDP là 130 tỉ USD thua kém Trung Quốc 45 lần thì bể dầu đó dư
sức để con cháu mẹ Âu Cơ yên trí vận hành trong suốt 45 x 30 = 1350 năm.
Hình như các bậc
Tiên Đế của chúng ta có biết đến điều này thì phải, nên vua Lê Thánh Tông ngay
từ năm 1473 đã để lại lời nguyền trước bá quan văn võ:
“Nếu ngươi đem một
thước sông, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di”
Còn Đại Đế Trần
Nhân Tôn thì nhắc nhở:
“Cái hoạ lâu đời
của ta là hoạ Trung Hoa” và “Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được
để lọt vào tay kẻ khác”.
Vể ý chí chống
giặc ngoại xâm bảo vệ sự vẹn toàn của đất đai cương thổ, các cụ đã để lại cho
muôn đời con cháu một truyền thống ứng đối vô cùng ngoan cường trước người
Trung Quốc. Nhưng!... Vì sao mà con cháu Đại Việt không có mặt trong câu lạc bộ
của các chủng tộc làm chủ đại dương ngay từ những ngày đầu dựng nước?…Đây là
một câu hỏi rất khó trả lời ngay cả với giới Sử Gia.
Không biết từ bao
giờ mà tâm thức người con đất Việt đã bàng bạc một nỗi niềm yếm thế:
“Thương em, anh
cũng muốn vô .
Sợ Truông nhà Hồ,
sợ phá Tam Giang”.
Trạng thái tâm lý
buông xuôi này, không biết chúng ta nên vui hay nên buồn, nên tự hào hay nên tự
ti đây! Đặt vấn đề như thế rất dễ bị mấy ông chuyên nghề tán tụng, tô hồng,
chụp mũ cho là phủ nhận quá khứ, là phỉ báng ông cha, là mang giọng lưỡi thù
địch đây!?
Trên bước thiên di
mở rộng bờ cõi xuống đồng bằng, các cụ ta đã nhanh chóng dừng bước bên bờ đại
dương, yên tâm và an phận là cư dân của văn minh lúa nước hay chấp nhận cuộc
sống chài lưới bên những luồng, lạch, kênh, rạch, quẩn quanh vụng vịnh gần bờ…
mặc cho trùng khơi ngàn năm, ngày đêm sóng vỗ cho đám rợ Tây Dương mắt xanh mũi
lõ dọc ngang – ngang dọc bằng tầu sắt, tầu đồng, nhả khói đen xì, nghênh ngang
nhòm ngó và xỉ mắng triều đình… và giai đoạn đó, chúng ta đã mất nước từ hướng
biển… là những hiện thực khó có thể bác bỏ.
Việt Nam - Về
phương diện Địa Lý, với hơn 3260 Km là bờ biển, chúng ta xứng đáng là một quốc
gia mặt biển… lẽ ra chúng ta đâu phải đối diện với những hiện thực rất vô lý
như sự ngang nhiên tồn tại cái “Lười Bò” chèn lấp lên Hoàng Sa và Trường Sa,
những đảo này nằm trọn trong vùng biển đặc quyền Việt Nam 200 hải lý, theo luật
biển quốc tế chúng ta toàn quyền quản lý. Những đảo này ngay từ thời kỳ cuối Lê
đầu Nguyễn đã in dấu chân đồn trú của những người lính thú Đại Việt, mà nay
ngót 90 triệu người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước lại vẫn phải tranh đấu
khốn khổ mọi bề để thoát khỏi cảnh bị triệt đường sống bên bờ một Biển Đông
đang có nguy cơ phải mang tên kẻ khác!? (Biển Nam Trung Hoa).
Trong khi đó, ngay
từ những năm đầu của thiên niên kỷ thứ nhất, người Nhật ở Đông Bắc Á, người Phê
ni xi (Phe’nici) hùng cứ ở miền Đông Địa Trung Hải, Người Viking, người Gô loa
(Gaulois), người Xen tơ (Celt- Pro celtic)… là các bộ tộc sớm nhất cư trú ở
vùng ven biển Âu Châu… về phương diện Địa Lý hải văn, xứ sở họ cũng không hơn
gì chúng ta, nhưng những gì còn lưu lại trong sử sách, cho chúng ta biết, hàng
ngàn năm trước, họ đã có trí vượt đại dương, làm chủ mặt biển, chinh phục những
miền đất lạ, nên sau này người Anh mới có câu: “Mặt trời không bao giờ lặn
trên đất đai của Anh Cát Lợi”. Cristopforo Colombo tìm ra Châu Mĩ, mở đường
cho các vương triều trên bán đảo Pi rê nê (I Beria) chinh phục Tây bán cầu. Ma
Gien Lan đi vòng quanh thế giới, Người Pháp vượt đại dương tìm đến Châu Phi,
đến bán đảo Đông Dương để lập nên xứ Đông Dương thuộc Pháp trong đó có An Nam
chúng ta. Điều đó, tổ tiên chúng ta chưa một lần nghĩ đến.
Nêu vấn đề như thế
hoàn toàn không phải là sự oán trách tiền nhân…mà là để thấy rõ cái tích cực
cũng như cái hạn chế của dân tộc mình và cũng để làm rõ phần trách nhiệm của
con người trong thời đại này, thể chế chính trị này, một thể chế luôn coi mình
là thiên tài, là đỉnh cao của trí tuệ, là nguyên nhân của mọi thành công (!?).
Lẽ ra ngay sau khi
dành được quyền độc tôn cai trị dân tộc, người cộng sản Việt Nam phải nhanh
chóng khắc phục những hạn chế có tính lịch sử của dân tộc mình, thì ngay từ 14
– 9 – 1958, ĐCS lại quá vô tư để Thủ Tướng Phạm Văn Đồng cho ra Công Hàm làm
mát ruột người phương Bắc đến thế, hồn nhiên trao cho họ một vũ khí lợi hại, để
họ nuôi tham vọng điên cuồng làm chủ Hoàng Sa - Trường Sa và biến Biển Đông của
Việt Nam thành ao nhà, thành bản đồ 9 đoạn và hôm nay thành “lưỡi bò” của họ.
Với cơ chế lãnh đạo tập thể, ai đã thảo ra những dòng chữ này? Những ai đã
thông qua, nhất trí với những dòng chữ góp phần đánh mất biển xanh và đắc tội
với tiền nhân như thế này:
Bấm :
“Thưa đồng chí
Tổng lý, Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng
9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải
phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào
trân trọng”.
Lại càng là vô lý
hơn, hôm nay người dân yêu nước không chỉ phải tranh đấu với những kẻ bá quyền
phương Bắc, họ lại phải tranh đấu không hề dễ chịu với chính những người cùng
huyết thống với mình. Thật đáng buồn… qua 14 cuộc biểu tình của Nhân Sĩ, Trí
Thức, Sinh Viên yêu nước vừa qua, giữa ĐCS và người biểu tình lại không có
tiếng nói chung, trừ một lần ông Nguyễn Tấn Dũng nói “Hoàng Sa - Trường Sa
là của Việt Nam”. Tình cảm yêu nước tự nhiên của người dân bị phủ nhận, bị
bôi nhọ không thương tiếc. Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Thế Thảo ngày 30 – 6 – 2012
vừa tự ghi điểm cho mình khi ông này coi người tham gia biểu tình yêu nước là
gây rối trật tự, là người xấu!... Nói năng tuỳ tiện như thế là ông Thảo vì Việt
Nam! vì Trung Quốc! hay là chỉ vì cái ghế rất cao giá của ông Thảo đây… thưa
ngài chủ tịch thành phố Hà Nội!
Cuối tháng 7 –
2011, qua loạt bài của tổ phóng viên Biển Đông của báo Đại Đoàn Kết mọi người
mới biết đến lời chống chế yếu ớt của ông Phạm Văn Đồng về công hàm 1958:
“Vì lúc đó là thời
chiến nên tôi phải nói như thế !?”. (PVĐ)
Không thể tâm phục
và khẩu phục khi phải nghe lời chống chế không xứng tầm chính khách như thế.
Hãy nghe tổ phóng viên Biển Đông biện minh cho ngài Phạm Văn Đồng, người ngồi
ghế Thủ Tướng lâu nhất lịch sử Việt Nam:
“Tất cả các hành
động ngoại giao của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng trong công hàm 1958 có thể hiểu là
không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng
Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Geneve năm 1954, khi mà
Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH”.
Sao lại mâu thuẫn
tréo ngoe như thế này? Biết tỏng họ là những kẻ đầy dã tâm, mà lại vẫn tạo điều
kiện cho họ thôn tính biển đảo của tổ tiên thì ra làm sao hở giời?
Hãy xem báo Kim Dương Võng của Trung
Quốc ngày 16 – 6 – 2007 viết gì về việc này:
“Các đảo ở Nam Hải
bao gồm quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) về lịch sử
chính là lãnh thổ của TQ. TQ không chỉ có chứng cứ đầy đủ về lịch sử và pháp
lý, mà cả cộng đồng quốc tế trong đó bao gồm cả VN cũng đã thừa nhận chủ quyền
của TQ. Ngày 15 – 6 – 1956, khi Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao VN Ung Văn Khiêm tiếp
kiến Đại biện lâm thời Lãnh sự quán TQ tại VN đã bầy tỏ: Theo các tư liệu về
VN, xét về mặt lịch sử, các quần đảo Tây Sa, Nam Sa nên thuộc về lãnh thổ TQ.
Khi ấy, Quyền Vụ Trưởng Vụ Châu Á Bộ ngoại giao VN Lê Lộc có mặt tại đó nói:
Xét về mặt lịch sử, các quần đảo Tây Sa, Nam Sa đã thuộc TQ ngay từ đời Tống. Ngày
4 – 9 - 1958, chính phủ TQ ra tuyên bố chiều rộng lãnh hải là 12 hải lí, ngày 6
– 9- 1958, báo Nhân Dân của VN đăng chi tiết lời tuyên bố này. Ngày 14 – 9 -
1958, Thủ Tướng VN Phạm Văn Đồng đã bầy tỏ với Thủ Tướng Chu Ân Lai là thừa
nhận và nhất trí với lời tuyên bố này. (Như vậy đã có 10 ngày để ĐCS Việt Nam cân nhắc trước khi ký
công hàm 1958 – NTL)
“Bản đồ thế giới”
do phòng bản đồ Bộ tổng tham mưu QĐND VN vẽ năm 1960 và Atlas Bản đồ thế giới
do Cục đo đạc và bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng VN in ấn, cũng chú thích các đảo ở
Nam Hải, bao gồm cả quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ TQ; sách giáo khoa địa lí
trong trường học phổ thông do nhà xuất bản giáo dục của VN năm 1974 đã viết ở
bài “Nước CHND Trung Hoa”: “Từ các đảo Tây Sa, Nam Sa đến đảo Hải Nam, đảo Đài
Loan…đã tạo thành một bức trường thành bảo vệ đại lục TQ.”
Ngày nay, một học
sinh phổ thông lực học trung bình về bộ môn Địa Lý cũng thừa hiểu thế nào là
Đường cơ sở, là khái niệm Nội thuỷ, là Lãnh hải, là Vùng đặc quyền kinh tế, là
Sườn lục địa, Thềm lục địa…, thừa biết nếu ta công nhận chủ quyền 12 hải lý kèm
theo là một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý mà tính cho cả một chuỗi đảo từ
Hải Nam xuống Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) của Việt Nam mà TQ tuyên bố
là của họ thì với công hàm 1958, ĐCS VN đã tặng cho người TQ cái “lưỡi bò” hôm
nay để họ liếm sạch Biển Đông của VN rồi còn đâu là Biển Xanh để Xuân Diệu
tương tư và mộng mị cùng các người đẹp:
“Anh xin làm sóng
biếc
Hôn mãi cát vàng
em…” (XD)
Bản đồ lưỡi bò của
Trung Quốc…Việt Nam mất >80 % Biển Đông
Còn đâu cuộc giao
hoan giữa biển và bờ để Thanh Tùng bồi hồi nhớ nhung một hình bóng cũ:
Biển thức đã bao
đêm, biển thấy trong mình có một trái tim
Ôi tình yêu, tình
yêu…lỗi tại tình yêu
Nếu em! Không biêt
gì về chuyện tình của biển
Nếu thật em không
biết gì!...tôi sẽ kể em nghe.” (Thanh Tùng)
Khi “ bút đã sa…”,
khi con chữ đã bay đi khắp các chân trời góc bể, ban lãnh đạo Việt Nam có nghĩ
đến những hậu hoạ khôn lường sẽ đến với cả dân tộc mình? Hình như những người
cộng sản Việt Nam lúc đó họ không nghĩ gì hết, ngoài những cố gắng để làm vui lòng
người Trung Quốc để có được nhiều súng đạn, mũ cối, dép râu, lương khô… để được
đánh thắng các đế quốc to, được làm tiền đồn của phe XHCN, để Con Lạc Cháu Hồng
miền Bắc uýnh thắng Con Lạc Cháu Hồng miền Nam và có nhiều bột mì, gạo mốc để
nuôi dân miền Bắc.
Nếu ngay sau hiệp
nghị Geneve 1954, nhân dân miền Bắc Việt Nam thực sự được sống trong một thể
chế dân chủ đích thực, một thể chế mà:
“Mọi chính kiến
đều được lắng nghe - Mọi quan điểm đều được tôn trọng…” (Nguyễn Gia Kiểng - Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên),
… thì người dân
Việt Nam sẽ không dễ dàng cho phép xuất hiện công hàm 1958. Nhưng buồn thay, đó
lại là giai đoạn mà tinh thần xã hội lại dễ dãi, thiểu năng đến như thế này:
“Bên ni biên giới là mình – Bên tê biên
giới cũng tình quê hương!” (Tố Hữu), là “Bác
Mao không ở đâu xa – Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao!” (Chế Lan Viên), là
“Tiếng đầu đời con gọi… Stalin !”
(TH).
Công hàm 1958… với
nước cờ hớ đó, ĐCS Việt Nam đã tặng cho người Trung Quốc một thế cờ quá hiểm để
họ hợp thức hoá về mặt pháp lý việc họ cưỡng chiếm Hoàng Sa năm 1974. Đến 1988,
họ cũng làm thế với một phần Trường Sa và nay, họ không giấu giếm tham vọng độc
chiếm hơn 80% Biển Đông, đặt người dân Việt Nam vào tình thế dù có 3260 Km bờ
biển, nhưng… chỉ vì đã chót quá tin vào những giáo điều đâu đâu mà nay các dân
tộc văn minh đã thẳng tay vứt vào sọt rác, chỉ vì nhẹ dạ trước tình anh em vô
sản quốc tế… cùng các biến tướng rất bệnh hoạn của nó, dạng “16 chữ này – 4 chữ
nọ” nên đã tự chuốc lấy nguy cơ đánh mất Biển Xanh!
Nếu hôm nay mọi người cùng theo nhau mà cúi mặt! Cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sẽ trở thành một cộng đồng không có biển. Chúng ta từng luôn tự hào về 4000 năm
lịch sử, coi Rồng – Tiên là nguồn cội của mình… với biết bao địa danh gắn liền
với Rồng (Những: Thăng Long! Hạ Long! Bái Tử Long! Bạch Long Vĩ! Cửu Long!
Vĩnh Long! Long An! Bình Long! Phước Long! Long Trì!…) mà nay lại không còn
Biển…thế ra là “Rồng sa bãi cát…”, là “Rồng Đất…”. Điều này làm đau lòng bất cứ
ai mà trong huyết quản của người đó vẫn còn tinh khôi những giọt máu của Lạc
Long Quân giống Rồng và mẹ Âu Cơ giống Tiên. Những ai vẫn tin vào đời sống tâm
linh, tin vào cơ trời, vận nước luôn phù trợ cho dân tộc này… dù đã từng cả
ngàn năm bị Bắc thuộc mà người phương Bắc vẫn không đồng hoá nổi nòi giống này…
nay vì sao mà nguy cơ mất Biển lại lù lù xuất hiện? Việt Nam vừa thông qua Luật
Biển, họ lập tức giáng trả bằng ra đời “Thành Phố Tam Sa!”, bằng “Đấu
thầu 9 điểm ngay trong vùng biển VN!”, “Là 4 tầu chiến của họ lùa 1 tầu CS biển
VN”, “Là 30 tầu cá TQ ngang nhiên vào đánh cá trong vùng biển Trường Sa!”…
Nỗi đau là quá
lớn, là không chịu nổi, là bảo nhau phải xuống đường thôi. Người tự trọng,
người yêu nước nào cũng làm thế, dân tộc nào trên thế giới này cũng phản ứng
như thế. Thể chế nào, đảng phái nào, cá nhân nào vì lợi ích của cá nhân, của
phe nhóm mà cấm nỗi đau này, xuyên tạc nỗi đau này…thì đó là những kẻ đã vong
bản, lịch sử sẽ đời đời nguyền rủa họ.
Lịch sử phát triển
chung của nhân loại chỉ ra rằng, ngộ nhận và sai lầm không chỉ dành cho riêng
một chủng tộc nào, một chính phủ nào. Chính phủ Úc đã từng dám xin lỗi thổ dân
của lục điạ này, chính phủ Nhật Bản cũng đã dám xin lỗi người Nhật Bản, người
Triều Tiên, người Trung Quốc… vì những lỗi lầm của họ trong chiến tranh 2… thì
người cộng sản Việt Nam có gì đâu mà cố tỏ ra mình là một ngoại lệ! Trong rất
nhiều điều mà người cộng sản Việt Nam sẽ phải xin lỗi nhân dân Việt Nam… chắc
chắn phải có lời xin lỗi về công hàm 1958 mà bài viết này đã nói tới.
Những chuyện này,
xét cho cùng cũng là chuyện đã rồi, những người đắc tội với tiền nhân năm đó,
nay cũng đã cát bụi hết rồi. Những người hôm nay đang đắc tội với ông bà tiên
tổ rồi cũng chẳng thoát khỏi con đường bụi cát. Ở bên kia thế giới không biết
lương tâm họ có chút cắn rứt, dằn vặt nào không… khi lớp lớp thế hệ người Việt
Nam tiếp nối đã, đang và sẽ còn phải trả giá qúa đắt, quá đau cho nước cờ sai
lầm này của họ./.
Hà Đông một ngày
tháng 7 – 2012.
Nhà Báo Nguyễn
Thượng Long
- Nơi ở: Văn La –
Phú La – Hà Đông – Hà nội.
- ĐT 01652323836.
- Email:
nguyenthuonglong571@gmail.com
Đón đọc: “Còn
đâu bờ cát trắng” - (NTL)
No comments:
Post a Comment