Đỗ Quý
Toàn
10-7-2012
Giáo
sư Trịnh Xuân Thuận đã thuyết trình trong khóa tu tại Làng Mai về Khoa học và
Phật giáo vào đầu tháng Sáu năm 2012; và sau đó, với tư cách một nhà khoa học
ông đã đặt một số câu hỏi với Thiền sư Nhất Hạnh về cách nhìn của đạo Phật đối
với một số vấn đề căn bản trong khoa học hiện đại. Khóa tu tại Làng Mai, ở vùng
Tây Nam nước Pháp gần thành phố Bordeaux, diễn ra trong 21 ngày, kể từ ngày 1
tháng Sáu năm 2012, quy tụ hơn 900 thiền sinh đến từ gần 30 quốc gia khác nhau.
Ngôn ngữ chính được sử dụng là tiếng Anh, với tám nhóm thông dịch đồng thời
sang tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, tiếng Ý, tiếng Thái, tiếng Nhật; tiếng
Trung Hoa dịch cho nhiều người đến từ Singapore, Hồng Kong, Mã Lai, Đài Loan,
vân vân; nhóm đông nhất là những người nghe tiếng Việt và tiếng Pháp.
Trong
bài thuyết trình vào ngày Chủ nhật 3 tháng Sáu 2012 tại Xóm Hạ, Làng Mai, ông
Trịnh Xuân Thuận đã nêu lên một số lý thuyết trong môn vật lý học hiện tại để
so sánh với những quan điểm trong truyền thống Phật giáo. Là một nhà chuyên
khảo về vũ trụ học, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết Vật lý học đã nhận thấy
một số điểm tương đồng giữa Phật giáo và khoa học. Những điểm “hội tụ” (convergence)
mà ông nhìn ra là tính tương quan và tùy thuộc vào nhau của mọi hiện tượng vật
lý (interdependence); tính trống rỗng (vacuity, emptiness) của vạn pháp; và
tính vô thường (impermanence). Nhiều khám phá trong khoa học trong một thế kỷ
gần đây đã đưa tới những cách nhìn giống như quan điểm của đạo Phật từ nhiều
ngàn năm qua. Thí dụ, tính bất khả phân (non-seperability) của mọi vật; mối
liên quan không thể tránh giữa chủ thể quan sát và đối tượng được khảo sát
(tương tức, tương nhập); vân vân.
Trong
khi các bộ môn khoa học sử dụng lý trí với các phương pháp phân tích toán học
và thí nghiệm để gia tăng hiểu biết có tính chất khách quan và định lượng của
con người về vũ trụ chung quanh mình, thì Phật giáo là một truyền thống tu tập
với cách nhìn toàn diện theo đuổi mục tiêu trị liệu, đưa tới giác ngộ toàn diện
(enlightenment) chứ không nhằm hiểu biết thuần túy. Phật giáo không nhìn thế
giới theo lối lưỡng nguyên (tâm và vật) nhưng cũng không cố chấp vào cách nhìn
phi lưỡng nguyên. Từ nhận định về tính tương lập (interdependence) của mọi vật
và mọi người, Phật giáo đã dẫn tới đức từ bi như là một cách biểu hiện khác của
trí tuệ. Một ngày sau cuộc thuyết trình trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đặt
với Thiền sư Thích Nhất Hạnh một số thắc mắc của một nhà khoa học để tìm hiểu
cách giải đáp của Phật giáo. Thứ nhất là Phật giáo yêu cầu phải vượt qua những
chướng ngại do sự hiểu biết gây ra, một điều khác với khảo hướng của khoa học
là luôn luôn dựa trên những hiểu biết đã có để đi tìm các hiểu biết mới. Thứ
hai là quan điểm Phật giáo về trình độ ý thức (consciousness) của loài người so
sánh với các sinh vật khác, với vật chất vô sinh, cho tới các hạt nhân. Khoa
học, kể từ Einstein, đã nhìn ra thời gian chỉ là một kích thước mới của không
gian, điều này tư tưởng đạo Phật đã nhận định ra sao. Điểm sau cùng là theo
quan điểm Phật giáo, mọi vật đều là do biểu hiện của tâm thức, thì như vậy có
một thế giới hoàn toàn vật chất ở ngoài hay không? Thiền sư Nhất Hạnh đã trình
bày cách nhìn của Phật giáo trước các vấn đề trên, dựa trên sự phân biệt “sự
thật tương đối” (tục đế) và “sự thật tuyệt đối” (chân đế) trong truyền thống
Phật giáo. Các độc giả quan tâm có thể tìm trong website của Làng Mai
(langmai.org hoặc plumvillage.org).
Giáo
sư Trịnh Xuân Thuận là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rất rộng khắp thế
giới về đề tài vũ trụ học. Ông cũng viết chung với Matthieu Ricard, một tăng sĩ
người Pháp tu theo truyền thống Tây Tạng, cuốn L’Infini dans la paume de la
main (Vũ trụ trong lòng bàn tay), về tương quan giữa khoa học và đạo
Phật. Matthieu Ricard vốn là một nhà nghiên cứu về thần kinh học tại Trung tâm
Quốc gia Nghiên cứu Khoa học nước Pháp (CNRS, Centre National de Recherches
Scientifiques) trước khi đi tu.
Hội
tụ giữa Khoa học và Đạo Phật
Tựa
đề cuốn sách trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết, là do câu thơ thứ ba
trong đoạn đầu bài thơ Auguries of Innocence của William Blake:
To
see a world in a grain of sand,
And
a heaven in a wild flower,
Hold
infinity in the palm of your hand,
And
eternity in an hour.
Khi
cuốn sách này được dịch sang tiếng Anh, ấn hành năm 2001, nhà xuất bản đã đề
nghị đổi tựa: Lượng tử và Hoa Sen, The Quantum and the Lotus cho
dễ phổ biến hơn.
Bài
thuyết trình của Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đối chiếu giữa quan điểm Phật giáo về
vũ trụ và nhân sinh với các hiểu biết khoa học để nêu ra những tương đồng giữa
hai bên; ông đặt tựa là, Science and Buddhism: A Meeting of the Mind
(Khoa học và Phật Giáo: Cuộc gặp gỡ tại Tâm).
Tương
Tức
Một
điểm được nêu lên đầu tiên là tính chất tương tức, tương lập (interdependence)
của “vạn pháp,” tức là sự liên quan chằng chịt giữa mọi hiện tượng vật lý và
tâm lý, theo lối nhìn của Phật giáo. Trong khoa học, Trịnh Xuân Thuận nhắc đến
một hiện tượng được nêu lên trong một bài do Boris Podolsky viết được in năm
1935 ký tên Einstein-Podolsky-Rosen (EPR), để thách thức Vật lý học Lượng tử
(Quantum Physics). Vấn đề được nêu lên liên hệ tới hiện tượng vật lý trong phạm
vi cực nhỏ bên trong các nguyên tử, gọi là những “hạt dính líu” (entangled
particles).
Nhiều
nguyên tử bị kích thích phát ra hai hạt photon đi về hai phía khác nhau. Những
photon này có đặc tính nếu một cái bị kích thích để xoay thì cái thứ hai cũng
xoay theo một chiều thẳng góc với cái thứ nhất, dù ở cách xa hàng ngàn dặm cũng
vậy. Một cách giải thích hiện tượng này theo Cơ học Lượng tử, coi như hai hạt
pho ton đã “thông tin” được với nhau, sẽ trái nghịch với Thuyết Tương đối của
Einstein vì không có thông tin nào có thể đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Do đó
Einstein kết luận Cơ học Lượng tử không giải thích được đầy đủ các hiện tượng
vật lý và đề nghị một lối giải thích khác. Các cuộc nghiên cứu và thí nghiệm
sau này cho thấy lối giải thích của EPR cũng không đứng vững; thí dụ, cuộc thí
nghiệm của Alain Aspect năm 1982 về những cặp photon cho thấy Einstein không
đúng. Hiệu ứng “Hạt Dính líu” đã được dùng trong kỹ thuật thông tin và trong
máy vi tính dựa trên hiện tượng này, khi kích thích một photon có thể gây phản
ứng của một photon khác dù cách nhau vạn dặm, giúp cho máy vi tính lượng tử
chạy nhanh hơn các máy vi tính bình thường.
Khám
phá “mọi hiện tượng dính líu với nhau” như trên tương đồng với quan niệm Phật
Giáo trong các kinh điển Đại Thừa, như kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả tính
tương tức, tương nhập của vạn pháp. Một đoạn trong Đệ Nhất Nghĩa Không Kinh
(The Discourse on the Emptiness in its Ultimate Meaning) được thuyết giảng
trong khóa tu tại Làng Mai lần này, viết: “thử hữu cố bỉ hữu; thử khởi cố bỉ
khởi, …” (có cái này nên mới có cái kia, cái này dấy lên nên cái kia dấy lên).
Theo
Phật giáo thì mỗi vật đều do các “nhân duyên” khác nó tạo thành, tất cả mọi
vật, mọi hiện tượng là nhân duyên lẫn của nhau (mutual causation). Hệ luận của
quan niệm này là tính tương lập của “vạn pháp,” không có cái gì tự làm nguyên
nhân duy nhất của chính nó. Một hệ luận khác là thực tại (reality) trong vũ trụ
có tính toàn thể không thể phân chia được. Vật lý học hiện đại cũng tiến tới
một quan điểm tương tự. Như ông Trịnh Xuân Thuận nói một cách văn vẻ: Vũ trụ
Vật lý học hiện đại (Astrophysics) cho thấy là tất cả chúng ta chỉ là những hạt
bụi của các vì sao; chúng ta có cùng một lịch sử trong vũ trụ giống như các
loài hoa cỏ, các sinh vật khác. Trong thời gian và không gian, tất cả chúng ta
tương lập với nhau. Thông điệp chính yếu của khoa học, đặc biệt của cơ học
lượng tử, là có một thực tại sâu xa hơn những gì mà giác quan của chúng ta nhận
thấy, một thực tại ẩn tàng.
Khoa
học đã gặp Phật giáo trong lối nhìn này; nhưng sử dụng các khảo hướng khác
nhau. Khoa học dùng “ngôn ngữ” toán học và dùng thí nghiệm thực tế để kiểm
chứng. Phật giáo dùng trực giác và kinh nghiệm tâm linh. Nếu không có khoa học
thì Phật giáo vẫn tồn tại; mà nếu không có Phật giáo thì khoa học vẫn được phát
triển. Người ta không cần phải ràng buộc cả hai lại bằng bất cứ giá nào. Điều
chúng ta muốn hiểu là thấy được tính tương đồng nhất quán của hai bên. Cả hai
đều nói về một đối tượng là thực tại, và mỗi bên đều có tính chất nhất quán
(coherent) trong phạm vi của mình; thế nào cũng có thể so sánh để thấy những
điểm hội tụ giữa khoa học và Phật giáo.
Giáo
sư Trịnh Xuân Thuận cũng phân biệt: Mục đích của Phật giáo có tính chất trị
liệu (therapeutic): Làm sao để sống tốt đẹp hơn, mục tiêu sau cùng là giác ngộ.
Trong khi đó khoa học nhằm tìm hiểu thế giới, khám phá các định luật chi phối
cả vũ trụ, những luật coi là bất biến trong vũ trụ, khiến người ta thấy vũ trụ
có một thứ trật tự, một hòa điệu và vẻ đẹp trong vũ trụ; chứ không phải chỉ là
một mớ hỗn độn (chaos). Trịnh Xuân Thuận là tác giả các cuốn sách mang tên Giai
điệu huyền bí (La Mélodie Secrète), Hỗn mang và Hòa điệu (Le Chaos et
l’Harmonie).
Einstein,
cũng như nhiều nhà khoa học khác, trong đó có những người khám phá cơ học lượng
tử, đều nói rằng Phật giáo là một tôn giáo có khả năng phù hợp với khoa học
nhất. Thí dụ, trong khoa học người ta biết là ánh sáng vừa là hạt, vừa là sóng.
Làm sao một thứ có thể là hai dạng hoàn toàn khác nhau như vậy? Trong truyền
thống tư tưởng Tây phương, lối nhìn này không thể nào hiểu được. Nhưng Phật
giáo có thể chấp nhận lối nhìn đó; bởi vì theo Phật Giáo thì mọi vật đều không
có tự tánh, cho nên có thể là cái này mà cũng là cái khác hẳn.
Tính
Không
Vật
lý học hiện đại cũng chia sẻ với Phật giáo trong cách nhìn thấy tính chất trỗng
rỗng của vạn vật, gọi là Tính Không. Vật chất do các nguyên tử tạo thành, mà
trong các nguyên tử có thể nói là trống rỗng, với những hạt vận chuyển. Thuyết
Cơ học Lượng tử cho biết: Những hạt này, căn bản của mọi vật chất, có hai đặc
tính; một là hạt và hai là sóng. Trước khi đem các dụng cụ để quan sát, mỗi hạt
chỉ có thể được mô tả bằng một xác suất. Điều duy nhất mà chúng ta có thể biết
và nói về một hạt là nó có một xác suất sẽ hiện ra ở một chỗ này hay chỗ khác.
Khi chúng ta dùng khí cụ để đo lường, sẽ thấy mỗi hạt có một vị trí và một tốc
độ, nhưng bị giới hạn bởi Nguyên lý Bất định của Heisenberg: Không thể thấy cả
hai đặc tính đó cùng một lúc một cách chắc chắn. Trong phạm vi nghiên cứu nhỏ
bên trong các nguyên tử, hành động của người quan sát sẽ ảnh hưởng ngay đến vật
được quan sát.
Khoa
học hiện đại còn chưa biết thật sự vật chất trong vũ trụ này nó thế nào, chúng
ta chỉ biết được khoảng 4% về vũ trụ, còn 96% không biết. Những gì chúng ta
nhìn thấy trên các giải ngân hà sáng trong bầu trời chỉ là nửa phần trăm của vũ
trụ. Tất cả còn là một “giai điệu huyền bí. Các nhà vật lý học đã nói đến giả
thuyết có một “năng lượng tối” gây ra sự thành hình của vũ trụ, trong đó một
phần là một chất có trọng lực rất mạnh nhưng không phát ra một “ánh sáng” nào
có thể trông thấy được, mà người ta gọi là “vật chất tối”. Chúng ta chưa biết
gì về vật chất đen cũng như năng lượng đen (hay tối) cả; chỉ biết là nếu không
có nó thì khó giải thích sự phát sinh và tồn tại của vũ trụ.
Các
nhà khoa học chưa biết đâu là biên giới nơi vũ trụ lớn gặp vũ trụ vi tiểu trong
đó các hạt và sóng lượng tử do nguyên lý bất định ngự trị, mà ra đến vũ trụ vĩ
đại thì nguyên lý đó không còn hiệu lực. Mỗi ngày các nhà nghiên cứu vẫn tiếp
tục đẩy biên giới của thế giới lượng tử ra xa hơn, mở ra những chân trời mới.
Tất
cả vật chất như trong chính cơ thể chúng ta đều bắt đầu được tạo nên từ khi các
vì sao phát sinh trong vũ trụ. Từ gần 4 tỷ năm trước, những hạt bụi tinh cầu đó
đã biến chuyển tạo ra những nguyên tố đầu tiên của sự sống, rồi tiến hóa dần
đến loài người. Tổ tiên của tất cả chúng ta và các sinh vật khác là các vì sao;
lịch sử vũ trụ cũng chính là tiểu sử của chúng ta. Tất cả bắt đầu trước đây 14
tỷ năm, đưa tới sự xuất hiện của loài người. Tìm hiểu vũ trụ chính là đi tìm
lại gia phả của chúng ta; quán sát các thiên hà cũng là nhìn vào chính bản thân
mình.
Chúng
ta có thể quan sát được hàng trăm tỷ thiên hà như giải Ngân Hà, mỗi thiên hà
chứa hàng trăm tỷ các vì sao giống như mặt trời. Nếu mỗi vì sao đó có chừng
mươi hành tinh giống như trái đất; thì chúng ta thấy ngay là không thể nghĩ
rằng trái đất nơi ta sống là hành tinh duy nhất có sự sống. Chắc phải có cuộc
sống với trí thông minh ở ngoài trái đất, họ cũng đang quán sát vũ trụ như
chúng ta. Einstein, một thần tượng của tôi – Trịnh Xuân Thuận – phải lấy làm
ngạc nhiên tại sao con người lại có khả năng tìm hiểu cả vũ trụ; ông coi đó là
“một điều khó hiểu nhất!”
Vô
Thường
Một
quan niệm căn bản trong truyền thống Phật giáo là tính Vô Thường (impermanence)
của vạn pháp, mọi sự vật, mọi hiện tượng. Trước đây, khoa học Tây phương đã bị
ràng buộc trong nhiều thế kỷ với khái niệm từ thời cổ Hy Lạp về tính bất biến
của các hiện tượng thiên văn; vì Aristote nói rằng cái gì thuộc về loài người
thì thay đổi, phù du; còn thế giới các thần linh, như các vì sao trên bầu trời
thì vĩnh cửu và không bao giờ thay đổi, bởi vì các vị thần linh đều hoàn hảo
tuyệt đối. Vì vậy, vào ngày 4 tháng Bảy năm 1054, ban đêm trên bầu trời xuất
hiện một thiên thể hoàn toàn mới sáng rực, nó sáng như Kim Tinh, Vénus, ngay cả
ban ngày mắt thường cũng nhìn thấy, và kéo dài hàng mấy tuần lễ liền; nhưng các
nhà thiên văn tài giỏi ở Âu Châu thời đó không hề ghi nhận họ thấy “ngôi sao”
mới này trong niên biểu thiên văn học đương thời. Bởi vì theo quan niệm của họ
thì bầu trời của các vị thần linh là bất biến. Thiên thể trên, có nguồn gốc là
phần còn lại của một vụ nổ sao mà ngày nay chúng ta gọi là “Tinh vân Cua”.
Trong thời gian đó thì ở Trung Hoa người ta đã ghi nhận sự xuất hiện của “ngôi
sao” này, và họ đặt tên là “Sao Khách”. Di tích khảo cổ cho thấy người Maya ở
Mỹ châu cũng ghi nhận hiện tượng thiên văn này. Các nhà khoa học Âu Châu thời
Trung cổ tin tưởng ở lý thuyết vũ trụ bất biến của Aristote hơn là tin vào
chính mắt của họ. Mãi đến thời Copernic, năm 1543, mới thuyết phục được các nhà
khoa học là vũ trụ có tính vô thường.
Vũ
trụ luôn biến chuyển, không bao giờ ngưng. Các vì sao cũng sinh ra, tàn lụi,
rồi chết đi như tất cả chúng ta, nhưng cuộc đời của một vì sao dài tính bằng
hàng tỷ năm chứ không ngắn như đời chúng ta. Phật giáo theo quan điểm vô
thường. Như chúng ta nghĩ đang “ngồi yên” trong thiền đường này thì thực ra
chúng ta đang vận chuyển theo trái đất chung quanh mặt trời với vận tốc 30 km
một giây đồng hồ; mà mặt trời cũng đang vận chuyển 220 km một giây quanh trung
tâm của Ngân Hà; và chính thiên hà này cũng đang tự quay với tốc độ 90 km mỗi
giây ở nơi chúng ta đang sống. Tất cả đều vận chuyển, tất cả đều thay đổi, đó
cũng là quan niệm vô thường trong Phật giáo.
Tôn
giáo của tương lai
Ông
Trịnh Xuân Thuận nhận xét, khoa học chỉ là một cửa sổ để chúng ta nhìn thế
giới. Muốn hiểu biết thực tại chúng ta phải nhìn qua nhiều cửa khác. Phật giáo
phân biệt hai loại sự thật, tục đế là những sự thật tương đối, chân đế là sự
thật tuyệt đối. Khoa học vẫn cố tìm đến sự thật tuyệt đối nhưng chưa tới được.
Mỗi lần nhà khoa học giải đáp được một câu hỏi thì hàng ngàn câu hỏi khác hiện
lên. Nếu dùng kinh nghiệm tâm linh đạt tới “giác ngộ,” chúng ta có hy vọng nhìn
thấy sự thật. Nếu không, vẫn là một “giai điệu huyền bí.” Ông nghĩ rằng khoa
học không thôi không thể mô tả đầy đủ sự thật; khoa học không quá tự cao như
vậy. Kinh nghiệm tâm linh là con đường khác bổ túc cho khoa học. Dù theo hai hệ
thống lý luận khác nhau, Phật Giáo và Khoa học Vũ trụ đã gặp gỡ trên nhiều
điểm. Những nguyên lý Phật Giáo như tính tương lập (interdépendance) của mọi sự
vật, tất cả đều liên hệ với nhau và có duyên nhân quả với nhau (mutual
causality), về tính không (vacuity) và tính vô thường (impermanence) của vạn
pháp, đều tương đồng với kết luận của các nhà nghiên cứu khoa học vũ trụ.
Tính
tương lập của mọi vật trong vũ trụ giúp chúng ta suy nghĩ để thấy hạnh phúc của
mỗi người tùy thuộc vào mọi người khác và cả vạn vật chung quanh. Từ đó, chúng
ta phát khởi lòng từ bi và ý thức phải bảo vệ các sinh vật cũng như những vật vô
sinh trong môi trường sống. Mỗi người không thể hạnh phúc nếu người chung quanh
không hạnh phúc. Đó là điều mà các tôn giáo đều dạy chúng ta.
Cuối
bài thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đọc cho thính chúng nghe một câu
của Albert Einstein nói về tôn giáo thường được trích dẫn, “Tôn giáo của tương
lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Phải là một tôn giáo dựa trên thực chứng (based
on experience) và từ bỏ tính cách giáo điều (refuses dogmatic). Nếu có một tôn
giáo đáp ứng được nhu cầu khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo (If there
is any religion that would cope with modern scientific needs it would be
Buddhism).
Giới
thiệu
Trước
buổi thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã được một vị tăng sĩ tại Làng Mai
giới thiệu với đại chúng. Ông sinh năm 1948 tại Hà Nội, đậu Tú tài năm 1966,
rồi học một năm tại l’Ecole Polytechnique de Lausanne, Thụy Sĩ. Sau đó ông đã
theo học các đại học có tiếng tại Hoa Kỳ, California Institute of Technology
(Caltech), và Đại học Princeton, nơi đã trao bằng Ph.D. cho ông vào năm 1974,
về môn Vật lý học Vũ trụ (astrophysics), dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Lyman
Spitzer, người sáng chế viễn vọng kính Hubble. Từ năm 1996 ông là giáo sư Vật
lý Vũ trụ tại Đại họcUniversityofVirginiatạiCharlottesville. Ông cũng là giáo
sư Đại học Paris 7, làm việc tại Thiên văn đài Meudon, tại IAP (Institut
d’astrophysique de Paris) và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học (CNRS) của nước
Pháp. Ông đã viết trên 230 bài tường trình khảo cứu trên đề tài chuyên khảo là
sự hình thành và tiến hóa của các thiên hà (galaxies); về sự tạo lập vũ trụ
theo lý thuyết “Vụ Nổ Lớn” (Big Bang). Một đóng góp của ông được giới khoa học
thảo luận với lòng thán phục là việc ông khám phá thiên hà “trẻ nhất” trong vũ
trụ, mang ký hiệu I Zwicky 18. Ông là một trong số người sáng lập Hội Quốc tế
Khoa học và Tôn giáo (International Society for Science and Religion).
Là một người viết rất nhiều sách phổ thông về Vật lý học Vũ trụ;
tại Đại học Virginiaông Trịnh Xuân Thuận cũng dạy một lớp mang tên là “Vật lý
học Vũ trụ cho các Thi sĩ”. Ông đã xuất bản các tác phẩm phổ biến khoa học
cho đại chúng, viết bằng tiếng Pháp với một lối văn nhuần nhã, điêu luyện,
đầy thi vị, chính xác và trong sáng dễ hiểu. Các tác phẩm của ông đã được
dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được các tổ chức văn hóa quốc tế vinh
danh. Năm 2007 ông xuất bản cuốn Les voies de la lumière, được trao
Giải Moron của cựu Tổng thống Jacques Chirac. Năm 2009, tại Hội nghị Khoa học
Ấn Độ (Indian Science Congress) kỳ thứ 99 tại Bhubaneswar, ông được UNESCO
trao tặng Giải Kalinga Năm 2012, ông được Học viện Pháp quốc (Institut de
France) trao Giải Hoàn Cầu (Prix Mondial) Cino Del Duca. Đây là một giải
hưởng văn chương rất uy tín, khi chúng ta biết trong số những người được trao
giải gần đây có các nhà văn Mario Vargas Llosa (2008), Milan Kundera (2009)
và Patrick Modiano (2010).
|
Giáo
sư Trịnh Xuân Thuận đã xuất bản các sách bằng tiếng Pháp sau đây: La Mélodie
secrète (Fayard, 1988); Un astrophysicien (Beauchesne-Fayard, 1992), tự thuật; Le
Destin de l’Univers – Le Big Bang et après (Découvertes Gallimard, 1992); Le
Chaos et l’Harmonie (Fayard, 1998); L’Infini dans la paume de la main
(Nil/Fayard 2000, cùng với Matthieu Ricard); Origines, (Fayard, 2003); Les
voies de la lumière (Fayard, 2007).
Đ.Q.
T.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment