Số
phận Ukraine sẽ quyết định uy quyền của Phương Tây trên thế giới
Cù
Tuấn dịch
Tóm tắt: Một cuộc xâm lược nhằm phục thù giờ
đã trở thành một cuộc chiến ý thức hệ
Văn phòng của Trụ sở tối cao Lực lượng Đồng
minh Châu Âu (SHAPE), trung tâm chỉ huy của NATO gần Mons ở Bỉ, hoàn toàn đối lập
với sự hùng vĩ. Thay vì đá granit và đá cẩm thạch, các hành lang có trần thấp
được lát bằng tấm thạch cao và trải thảm lát gạch. Tất nhiên, các tướng bốn sao
thích các văn phòng ở trên cao, nhưng SHAPE chỉ có ba tầng. Tòa nhà được xây dựng
vào cuối những năm 1960 này, được cho là chỉ tồn tại tạm thời.
Chưa bao giờ sự tồn tại mỏng manh của SHAPE lại
đi ngược lại ý thức sứ mệnh to lớn của NATO. Cuộc xâm lược Ukraine của Vladimir
Putin, vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, đã hồi sinh lại liên minh này. NATO đã có
mục tiêu mới đầu tiên kể từ năm 1967, năm mà các văn phòng của nó mở cửa. Trong
khi NATO ngày trước chỉ tập trung vào các phản ứng, NATO hiện nay đang được xây
dựng lại để có thể ngăn chặn Nga trong thời bình và đáp trả ngay lập tức bằng
vũ lực ngay khi nước này đe dọa xâm phạm lãnh thổ của các thành viên. Tướng Sir
Tim Radford, chỉ huy thứ hai của SHAPE cho biết: “Chúng tôi đang nhanh chóng
nâng cao khả năng sẵn sàng của quân đội, và khả năng đáp ứng tổng thể của quân
đội chúng tôi đang tăng theo cấp số nhân.”
Cuộc chiến đã làm thay đổi Ukraine nhiều hơn.
Ông Putin đã lên kế hoạch cho một cuộc tấn công chớp nhoáng nhằm lật đổ chính
phủ Ukraine, đỉnh điểm của chiến dịch xâm lược và gây bất ổn bắt đầu ở Crimea
và vùng Donbas vào năm 2014. Thay vào đó, trong đống đổ nát tan hoang của
Donbas và trong các hầm tránh bom trên khắp đất nước, chiến tranh đã rèn giũa
Ukraine trở thành một nền dân chủ thống nhất hơn, nghiêng về phương Tây hơn, và
kiên cường hơn. Trong khi đó, Nga đã được tổ chức lại xung quanh cuộc chiến và
sự thù địch ngày càng lớn của ông Putin đối với NATO, ngay cả khi các biện pháp
trừng phạt và cuộc di cư của những công dân Nga có trình độ học vấn cao nhất đã
hủy hoại triển vọng kinh tế dài hạn của nước này. Việc Nga rơi vào chủ nghĩa
quân phiệt chuyên quyền, cùng với sự mạnh lên của NATO và sự chuyển đổi của
Ukraine, đã biến cuộc chiến thành một cuộc thử nghiệm các hệ thống ý thức hệ đối
địch.
Tương lai của Ukraine vẫn còn như chỉ mành
treo chuông—và có khả năng vẫn không chắc chắn trong nhiều năm tới. Ông Putin
có thể chấp nhận ngừng bắn vào một thời điểm nào đó vì lý do cần thiết, nhưng
cuộc cải tổ xã hội Nga của ông hoàn toàn hướng tới việc gây chiến ở nước ngoài
và đàn áp ở trong nước. Do đó, bất kỳ kết thúc có thể tưởng tượng nào đối với
cuộc chiến sẽ đòi hỏi sự đảm bảo an ninh mạnh mẽ và chuyển giao vũ khí và viện
trợ tài chính lớn và lâu dài của phương Tây cho Ukraine. Điều này khiến Ukraine
gần như trở thành một Israel thứ hai, tuy vậy Ukraine lớn hơn Israel nhiều, và
một Israel nay đã xuất hiện ở biên giới phía đông của châu Âu. Một số nhà lãnh
đạo châu Âu cho rằng Ukraine cần có tư cách thành viên đầy đủ của NATO để được
hỗ trợ như vậy. Nếu việc tái thiết Ukraine thất bại, và nền kinh tế của nước
này sa sút, thì nền dân chủ Ukraine cũng sẽ thất bại. Các tướng lĩnh của NATO
cho rằng Nga có thể xây dựng lại bộ binh trong vòng 3 đến 5 năm. Đến khi đó,
các điều kiện đã đủ chín muồi để ông Putin hoặc người kế nhiệm ông có một bước
đi khác.
Do đó, trong cả thời chiến và thời bình,
Ukraine sẽ thử thách quyết tâm, sự đoàn kết của phương Tây và thậm chí cả năng
lực công nghiệp của họ. Đặc biệt, cuộc xung đột này đặt ra ba câu hỏi cơ bản về
địa chính trị: Mỹ sẽ đóng vai trò gì đối với an ninh châu Âu, liệu các thành
viên châu Âu của NATO có thể đảm nhận trách nhiệm nhiều hơn về phòng thủ trong
khu vực hay không, và lòng trung thành của phần còn lại của thế giới sẽ như thế
nào trong bối cảnh cuộc chiến lớn nhất ở châu Âu kể từ năm 1945. Các câu trả lời
không chỉ quan trọng đối với số phận của Ukraine mà còn là thước đo lòng tự tin
và tầm vóc của phương Tây.
Phần lớn thế giới đã kết luận rằng sức mạnh của
Mỹ và các đồng minh đang suy yếu, vì họ đã thất bại ở Afghanistan và Iraq, do họ
phải trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự kế thừa của các chính
phủ bị cản trở bởi xung đột và chủ nghĩa dân túy. Nếu Ukraine chịu khuất phục
trước Nga, nhận thức về sự suy tàn của phương Tây sẽ ngày càng sâu sắc. Nhưng nếu
Ukraine phát triển mạnh mẽ, thành công này sẽ vang dội khắp thế giới. Vùng ảnh
hưởng này sẽ bao gồm cả Thái Bình Dương, nơi cuộc đấu tranh giữa Nga độc tài và
Ukraine do phương Tây hậu thuẫn nên được coi là phần mở đầu cho cuộc cạnh tranh
định đoạt thế kỷ giữa Trung Quốc và Mỹ.
1. Đại Tây
Dương thu nhỏ lại
Trong ba câu hỏi địa chính trị, cấp bách nhất
là vai trò của Mỹ ở châu Âu. Michael Clarke, cựu giám đốc Viện Dịch vụ Thống nhất
Hoàng gia (RUSI), một think-tank, cho biết: “An ninh châu Âu không chỉ thay đổi
một chút mà nó đã thay đổi về cơ bản. Năm 2019, tổng thống Pháp, Emmanuel
Macron, nói rằng NATO đang bị “chết não”, vì dưới thời Tổng thống Donald Trump
và Barack Obama, nước Mỹ đã bắt đầu quay lưng lại với châu Âu. Ukraine đã chứng
minh nhận định đó là sai.
Fabrice Pothier, cựu nhà hoạch định chính sách
của NATO và là giám đốc của Rasmussen Global, một công ty tư vấn, cho biết:
“Chiến tranh đã đưa Mỹ trở lại với tư cách là một cường quốc hàng đầu của châu
Âu." Dưới thời Tổng thống Joe Biden, Mỹ đã gửi vũ khí và viện trợ trị giá
48 tỷ đô la cho Ukraine. Kori Schake, một cựu quan chức hiện đang làm việc tại
Viện Doanh nghiệp Mỹ, một tổ chức tư vấn, nói rằng rõ ràng là nếu không có Mỹ,
Châu Âu sẽ không hợp tác cùng nhau cung cấp cho Ukraine các hỗ trợ cần thiết.
Viện trợ không chỉ là một dấu hiệu cho thấy sự
hào phóng của Mỹ, mà còn là sức mạnh của nó. Với chi phí khoảng 5% ngân sách quốc
phòng hàng năm của Mỹ, quân Ukraine đã phá vỡ huyền thoại về sức mạnh quân sự của
Nga, phá hủy hơn 1.000 xe tăng Nga trong vòng chưa đầy một năm. Bà Schake nói:
“Chúng tôi từng nghĩ Nga là nước có quân đội tốt thứ hai trên thế giới. “Và bây
giờ nó thậm chí không phải là quân đội tốt nhất trong các nước Liên Xô cũ.”
Câu hỏi đặt ra là Mỹ sẽ chọn gì khi chiến
tranh nóng đã kết thúc và Ukraine cần tái thiết trong giai đoạn hòa bình đầy
thuốc súng. Bà Schake hy vọng các quan chức Mỹ sẽ lập luận rằng, vì họ đã cung
cấp hầu hết sự hỗ trợ trong cuộc chiến, người châu Âu nên trả tiền cho việc tái
thiết và tái vũ trang Ukraine. Đồng thời, bà nói, Lầu Năm Góc có thể kết luận rằng
tình trạng suy giảm về bộ binh của Nga có nghĩa là Mỹ không còn cần một đội
quân thường trực lớn trên đất châu Âu.
Ẩn sau tính toán này là việc Mỹ cần phải tập
trung vào Trung Quốc. Một sự rút lui đột ngột sẽ không có lợi cho Mỹ: nếu những
đảm bảo an ninh của Mỹ không được coi là đáng tin cậy ở châu Âu, thì chúng sẽ
không được coi là đáng tin cậy ở châu Á. “Tập Cận Bình đang theo dõi chúng ta rất
chặt chẽ,” Thượng nghị sĩ Roger Wicker, thành viên cấp cao nhất của Đảng Cộng
hòa trong Ủy ban Quân vụ, cho biết vào tháng trước. “Ông ấy muốn xem liệu chúng
ta có tuân thủ cam kết của mình hay không khi ông ấy cân nhắc các cơ hội xâm lược
Đài Loan, nước láng giềng của Trung Quốc và cũng là người bạn của chúng ta. Các
đồng minh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của chúng tôi cũng đang theo dõi sát
sao—và thậm chí còn giúp đỡ Ukraine.”
Vì lý do đó, Andrew Michta thuộc Trung tâm
Nghiên cứu An ninh Châu Âu George C. Marshall ở Đức cho biết, Mỹ có khả năng nhấn
mạnh rằng “chia sẻ gánh nặng” sẽ trở thành “chuyển giao gánh nặng”. Điều đó có
nghĩa là Mỹ vẫn giúp bảo vệ châu Âu thông qua khả năng răn đe hạt nhân và các
khả năng công nghệ cao khác, nhưng để quân đội châu Âu cung cấp hầu hết các lực
lượng binh chủng thông thường. Điều này nâng cao yêu cầu đã lâu đời rằng các
thành viên châu Âu của NATO phải có trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ lục địa của
chính họ, vốn đã bị cả ông Obama và ông Trump thúc ép theo những cách khác
nhau.
Trước chiến tranh, Mỹ coi chia sẻ gánh nặng chủ
yếu là một cách để cắt giảm chi phí. Fiona Hill, một chuyên gia về Nga từng phục
vụ trong Hội đồng An ninh Quốc gia, cho biết ngày nay nó còn có logic chiến lược
rộng lớn hơn: “Những gì Nga đang nói là, OK, Mỹ vẫn là một lực lượng chiếm đóng
ở Châu Âu; Châu Âu không có an ninh; chúng tôi muốn trở thành lực lượng thống
trị giống như Đức trong Thế chiến thứ nhất hoặc Thế chiến thứ hai.” Bà Hill thấy
trước những suy nghĩ nghiêm túc về cách “trang bị thêm” cho an ninh châu Âu
xung quanh Ukraine mà không để Mỹ chi phối mọi thứ, bởi vì trách nhiệm nâng cao
của châu Âu chống lại quan điểm của Nga rằng NATO chỉ là một công cụ của Mỹ.
Điều đó đặt ra câu hỏi thứ hai: liệu châu Âu
có thể đương đầu với thách thức? Ông Pothier tin rằng chiến tranh đã buộc họ phải
suy nghĩ một cách chiến lược hơn. Chỉ trong một năm, một số hạn chế đã làm giảm
khả năng vận động ngoại giao của nước này, chẳng hạn như sự phụ thuộc của Đức
vào khí đốt của Nga, đến giờ phần lớn đã được dỡ bỏ. Ba ngày sau cuộc chiến, thủ
tướng, Olaf Scholz, đã tuyên bố một bước ngoặt trong triển vọng toàn cầu của Đức,
với việc cam kết chi 100 tỷ euro (107 tỷ USD) để chuẩn bị cho Bundeswehr trở
nên quyết đoán hơn—mặc dù vẫn chưa biết khoản chi đó sẽ hiệu quả đến mức nào.
Hậu quả của việc Phần Lan và Thụy Điển gia nhập
NATO sẽ mang tính tức thời hơn và có lẽ còn quan trọng hơn. Nếu Thổ Nhĩ Kỳ đồng
ý việc trở thành thành viên của họ - và điều đó nên xảy ra - thì hai quốc gia
này sẽ mang đến rất nhiều nhân sự, thiết bị và chuyên môn chiến đấu mới. Ví dụ,
Phần Lan có thể tập hợp 280.000 quân trong vòng vài tuần, lớn hơn gấp đôi quy
mô của quân thường trực và quân dự bị của Anh.
Về mặt địa lý, Phần Lan và Thụy Điển cũng sẽ
giúp đảm bảo an toàn cho các quốc gia vùng Baltic, vốn khó tiếp tế qua dải lãnh
thổ hẹp của Ba Lan nằm giữa Belarus và vùng đất Kaliningrad của Nga. Mặc dù họ
mở rộng đáng kể biên giới của NATO với Nga, nhưng “quân đội Bắc Âu và
Scandinavia có thể tập hợp các nguồn lực,” bà Hill nói, “trở thành một tuyến
phòng thủ khá đáng gờm.” Ngoài ra, nếu ông Putin hoặc người kế nhiệm tấn công một
thành viên của NATO, ông ấy sẽ phải lo bảo vệ một đường biên giới dài hơn.
Tom Keatinge, một nhà phân tích của RUSI cho
biết, các thành viên châu Âu lục địa của NATO cũng đã thể hiện sự nghiêm túc mới
trong việc áp dụng các biện pháp trừng phạt. Trong quá khứ, các biện pháp trừng
phạt của họ thường mang tính tượng trưng. Mặc dù các nhà lãnh đạo phương Tây đã
khoa trương khi giả vờ rằng các biện pháp trừng phạt sẽ nhanh chóng khiến Nga
phải quỳ gối, nhưng các quốc gia EU đã coi chúng đủ nghiêm túc để cập nhật luật
pháp của họ nhiều lần nhằm thực thi chúng. Điều đó quan trọng bởi vì theo dõi
các biện pháp trừng phạt là một việc vất vả. Ông Keatinge nói: “Chúng là một dạng
dịch cúm gà mà bạn hy vọng cuối cùng nó sẽ giết chết cả đàn gà. Giờ hình dạng mục
tiêu đã thay đổi và do đó bạn cần phải ngắm lại cho đúng.”
Xem xét vị trí của châu Âu trước cuộc xâm lược
của Nga, tất cả những điều này đánh dấu sự tiến bộ. Một quan điểm đang nổi lên
rằng trọng tâm của NATO đang chuyển từ Pháp và Đức sang phía đông và phía bắc.
Quốc phòng châu Âu đang ngày càng được xác định lại ở Ba Lan và các nước Bắc
Âu, cũng như ở Ukraine. Nước Anh thời hậu Brexit cũng đã cho thấy rằng trong
lĩnh vực quốc phòng và an ninh, nước này vẫn có thể đi tiên phong ở châu Âu. Nhờ
sức mạnh mới này, ông Pothier nói, châu Âu, vốn luôn là một gã khổng lồ về kinh
tế, đang chuyển từ một chú lùn chính trị thành một sự hiện diện rõ rệt hơn
trong các vấn đề thế giới.
Tuy nhiên, bất chấp sự tiến bộ đó, các thành
viên châu Âu của NATO vẫn không thể đảm đương vai trò của Mỹ. Sir Lawrence
Freedman, giáo sư nghiên cứu chiến tranh tại Đại học King's College London, cho
biết: “Bất cứ điều gì châu Âu làm, nó đều làm theo từng phần nhỏ. Tầm nhìn vĩ đại
về an ninh châu Âu mới không thuyết phục được nó. Bởi vì có quá nhiều quan điểm
khác nhau.” Không chỉ quyền lực đang dịch chuyển về phía đông, mà giấc mơ về
“quyền độc lập chiến lược của châu Âu” tách khỏi Mỹ của ông Macron dường như vẫn
còn xa vời hơn bao giờ hết.
Một điều đáng lo ngại là châu Âu sẽ không đủ
đoàn kết để tái thiết Ukraine. Số tiền phải chi sẽ lên tới hàng trăm tỷ đô la
vào thời điểm ngân sách chính phủ trên khắp châu Âu đang bị siết chặt. Tiền
không phải là yếu tố duy nhất. EU cũng có vai trò thúc đẩy văn hóa thể chế
phương Tây ở Ukraine, bao gồm một môi trường pháp lý tốt và ngăn chặn tham
nhũng. Viễn cảnh Ukraine gia nhập EU có thể là một động lực mạnh mẽ để cải
cách, nhưng chỉ khi tư cách thành viên dường như thực sự có thể đạt được, chứ
không phải là một giấc mơ tan dần, như thường thấy ở các nước khác.
Một nỗi lo khác là các nhà sản xuất vũ khí
phương Tây không có khả năng trang bị vũ khí cho Ukraine để giành chiến thắng,
chứ đừng nói đến việc xây dựng kho vũ khí của mình trong thời kỳ hòa bình và bổ
sung kho vũ khí của chính NATO. Ukraine đang bắn đi 5.000-6.000 quả đạn mỗi
ngày, gần bằng lượng mua hàng năm của một quốc gia NATO nhỏ trước khi Nga xâm
lược. Các ngành công nghiệp quốc phòng của phương Tây đã lụi tàn kể từ khi Liên
Xô sụp đổ.
Nếu châu Âu tỏ ra thiếu sót như trên – và, ngay
bây giờ, điều đó dường như có thể xảy ra một cách đáng buồn – thì Ukraine có thể
sẽ phải trả giá. Công việc lấp đầy các khoảng trống cũng như việc hô hào châu
Âu giúp đỡ một lần nữa sẽ do Mỹ dẫn đầu. Việc này có thể do một tổng thống Mỹ
khác thực hiện. Ông Clarke nói: “Khi mọi thứ ổn định, chúng ta có một điểm thất
bại duy nhất trong liên minh phương Tây rất ấn tượng này. Và điểm thất bại duy
nhất này là khả năng sẵn sàng tiếp tục của Mỹ.”
Câu hỏi địa chính trị lớn cuối cùng do cuộc
chiến đặt ra là: liệu phương Tây có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến dư
luận quốc tế hay không. Chỉ một phần ba dân số thế giới sống ở các quốc gia vừa
lên án Nga xâm lược vừa áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với nước này, theo
Economist Intelligence Unit, tổ chức chị em của tờ báo Economist. Hầu hết họ đều
là đồng minh thân cận của Mỹ. Phần còn lại có xu hướng coi cuộc chiến là cuộc cạnh
tranh giữa những kẻ chuyên quyền và những kẻ đạo đức giả.
Shivshankar Menon, trước đây là nhà ngoại giao
hàng đầu của Ấn Độ, đã nói thay cho nhiều người. Ông thừa nhận rằng cuộc chiến
đã gây ra những tổn thất kinh tế toàn cầu và khiến hệ thống quốc tế gặp khó
khăn hơn trong việc giải quyết các vấn đề như phát triển và biến đổi khí hậu.
Nhưng ông bác bỏ ý kiến cho rằng các nước đang phát triển nên đứng về phía
Ukraine.
Ông Menon nói: “Đó không phải là một bước ngoặt
địa chính trị đối với phần còn lại của thế giới. “Chúng ta đang ở tại một thời
điểm mà ranh giới địa chính trị chính vẫn là giữa Trung Quốc và Mỹ và cuộc chiến
này sẽ không thay đổi được điều đó.” Ông coi cuộc chiến là một cuộc đấu tranh
vì an ninh châu Âu. Bất cứ bên nào thắng, hoặc nếu không bên nào thắng, châu Âu
sẽ bất ổn và trở nên phải bận tâm nhiều hơn. Ông Menon nhận thấy châu Âu vẫn là
một thế lực trong nền kinh tế toàn cầu, nhưng không trở thành một thế lực về địa
chính trị.
Tuy nhiên, theo ít nhất ba cách, cuộc chiến đã
làm xáo trộn trật tự quốc tế. Đầu tiên là ở Châu Phi, Kavkaz và Trung Á, nơi
các nhà ngoại giao của Nga đang nỗ lực hết sức để củng cố ảnh hưởng của mình. Mặc
dù Nga đang giữ được vị thế của mình ở châu Phi, nhưng họ đang mất dần vị thế ở
những nơi khác.
Khi Azerbaijan, được Thổ Nhĩ Kỳ hậu thuẫn,
phát động một cuộc chiến hạn chế chống lại Armenia vào tháng 9, Nga đã không thể
ngăn chặn thất bại của quốc gia đồng minh. Tổng thống Kazakhstan, Kassym-Jomart
Tokayev, đã mang ơn những người lính dù Nga đã giúp trấn áp một cuộc nổi dậy
ngay trước cuộc chiến ở Ukraine. Tuy nhiên, ông Tokayev không hề cảm thấy hối
tiếc khi được ông Tập ve vãn, khi ông Tập đã đến gặp ông ngay trước một hội nghị
thượng đỉnh khu vực, nơi ông Putin bị cả Trung Quốc và Ấn Độ chỉ trích.
Điều khó chịu thứ hai đối với chính trị toàn cầu
là lời đe dọa sử dụng bom hạt nhân của ông Putin. Mặc dù ông đã thất bại trong
việc ngăn chặn phương Tây cung cấp vũ khí tiên tiến cho Ukraine, nhưng ông đã
làm chậm quá trình vận chuyển vũ khí này. Ông Putin đã thành công một nửa, ông
Pothier nói. “Ông ấy thực sự đã gieo rắc nỗi sợ hãi trong dân chúng và thậm chí
cho cả các nhà lãnh đạo của chúng tôi.”
Ngay cả sự xói mòn có giới hạn của điều cấm kỵ
đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân cũng là một vấn đề đối với tất cả các quốc
gia. Nếu ông Putin được coi là đã giành được lợi thế từ những lời đe dọa hạt
nhân, thì đó sẽ là động cơ khuyến khích những quốc gia xâm lược khác sở hữu bom
hạt nhân và đe dọa sử dụng nó. Trong bối cảnh Nga và Mỹ đang gặp khó khăn trong
việc thống nhất về kiểm soát vũ khí hạt nhân, nguy cơ phổ biến vũ khí này trở
nên ngày càng lớn. Tống tiền hạt nhân là một mối lo ngại đặc biệt đối với Ấn Độ.
Nước này có ưu thế về vũ khí thông thường so với đối thủ Pakistan, và Pakistan
đã đầu tư rất nhiều vào vũ khí hạt nhân tầm ngắn để bù đắp lại chênh lệch.
Cuối cùng, cuộc chiến đang đẩy Nga vào vòng
tay của Trung Quốc. Trong thời kỳ Liên Xô, Trung Quốc coi Nga là một mối đe dọa.
Giờ đây, khi biên giới phía bắc rộng lớn đã yên bình, ông Tập có thể chuyển các
nguồn lực quân sự sang nơi khác. Trung Quốc cũng được hưởng lợi từ đồng minh
Nga có cùng chí hướng tại Liên Hợp Quốc, nơi Trung Quốc có thể tọa sơn quan hổ
đấu trong khi Nga hành động như một kẻ bắt nạt hung hãn. Và cuối cùng,
Alexander Gabuev của Tổ chức Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, một tổ chức tư vấn,
lưu ý rằng Nga có nguồn hàng hóa có giá trị, và chúng đang ngày càng được cung
cấp theo các điều kiện của Trung Quốc.
Ông Gabuev nói: “Tôi có thể đoán rằng vũ khí
hiện đại của Nga cũng được cung cấp cho Trung Quốc theo cách đó." Ông lưu
ý, Trung Quốc vẫn dựa vào Nga để có một số thành phần quân sự quan trọng, điều
này làm cho tình hữu nghị trở thành trung tâm trong bất kỳ kế hoạch nào mà
Trung Quốc có thể có để xâm chiếm Đài Loan.
2. Biểu
dương lực lượng
Trong SHAPE tháng này, họ đang lên kế hoạch
cho cuộc tập trận lớn nhất từ trước đến nay của NATO, được gọi là Người bảo vệ ổn định. Được lên kế hoạch
vào đầu năm 2024, nó sẽ có sự tham gia của hàng chục nghìn quân dưới sự chỉ huy
của liên minh. Trong quá khứ, NATO thường ít hơn tổng số các bộ phận của nó.
Bài tập sẽ là một bài kiểm tra học thuyết mới, được gọi là Ngăn chặn và Phòng
thủ, và là kết quả của bốn năm làm việc. Ý tưởng của nó là thâm nhập sâu vào
các quân đội quốc gia để thể hiện sức mạnh trong tất cả các lĩnh vực, từ các trận
chiến trên bộ đến chiến tranh mạng.
Cuộc tập trận cũng nhằm chứng minh cho ông
Putin thấy rằng một cuộc tấn công vào một thành viên của liên minh sẽ là một thảm
họa. Các tướng lĩnh của NATO muốn ngăn chặn một tính toán sai lầm mà họ tin rằng
ông ấy đã thực hiện khi xâm lược Ukraine.
Chưa hết, quy mô của tính toán sai lầm đó vẫn
chưa được xác định. Thành công của Nga trên chiến trường vào mùa xuân, hoặc thậm
chí là đóng băng cuộc xung đột ở dạng hiện tại, kết hợp với chương trình hỗ trợ
và tái vũ trang Ukraine nửa vời hoặc thiếu hiệu quả, sẽ khẳng định quan điểm của
ông rằng phương Tây đang suy tàn.
Ngay cả những quốc gia cho rằng cuộc xâm lược
của ông Putin là đáng trách vẫn có thể kết luận rằng sức mạnh của phương Tây
đang suy yếu nếu họ không cứu được Ukraine. Nhưng nếu được cung cấp vũ khí, tiền
bạc và hỗ trợ chính trị, Ukraine vẫn có thể chiếm ưu thế. Nhờ lòng dũng cảm và
sức mạnh của việc đi trước làm gương, người dân Ukraine đã giành được cơ hội
đó. Không thể có khoản đầu tư nào tốt hơn cho việc đầu tư vào an ninh phương
Tây.
Hình : https://www.facebook.com/photo?fbid=6177593125612649&set=a.124320747606614
--------------------------
Bài
báo gốc
https://www.economist.com/.../ukraines-fate-will...
ECONOMIST.COM
Ukraine’s fate will determine the West’s
authority in the world
Ukraine’s fate will determine the West’s authority in the world
No comments:
Post a Comment