Tác
giả: Đoàn Bảo Châu (ghi)
LTS:
Dự luật đơn vị Hành chính – Kinh tế Đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân
Phong, Phú Quốc (gọi tắt là Luật Đặc khu), hiện đang được mang ra bàn thảo
tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa 14 . Dự luật này cho phép người nước ngoài thuê
đất dài hạn, lên tới 99 năm, có khả năng sẽ được Quốc hội thông qua trong tuần
tới.
Đông
đảo người dân Việt Nam trong và ngoài nước, đủ mọi thành phần, hiện đang
lên tiếng phản đối dự luật này, bởi họ lo ngại an ninh quốc gia bị đe dọa, khi
những người thuê đất dài hạn kia là người Trung Quốc, hoặc người từ nước khác
làm trung gian, giúp người Trung Quốc thuê đất ở những khu vực hiểm yếu tới 99
năm.
Nhân
sự kiện này, nhà báo Đoàn Bảo Châu phỏng vấn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan,
bà Lan cho rằng: “Dự luật này rất nên dừng lại, Quốc hội đừng thông qua vội,
để hỏi ý kiến thêm của các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau, không phải chỉ
kinh tế, mà cả xã hội, các chuyên gia về an ninh, quốc phòng nhìn từ nhiều góc
độ, để xem xét lại…”. Tiếng Dân xin được gỡ băng video clip phỏng vấn này,
kính mời quý độc giả đọc tiếp.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan
KD:
Clip phỏng vấn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan làm rúng động dư luận mạng từ
hôm qua. Nhưng Blog cá nhân của mình không hiển thị được nên… đành chịu 🙂
.
Nay đọc được trên Tiếng Dân, xin đăng lại để bạn đọc chia sẻ quan điểm
một chuyên gia kinh tế tên tuổi- một trí thức có tầm và nhân cách, xung quanh
vấn đề này
____
PV:
Hiện nay trên mạng XH cũng như trên báo chí cũng đang bàn luận rất nhiều về
việc Quốc hội chuẩn bị thông qua luật về đặc khu, bà đánh giá như thế nào về dự
luật này?
Bà
Phạm Chi Lan:
Tôi nghĩ dự luật này rất nên dừng lại, Quốc hội đừng thông qua vội, để hỏi thêm
ý kiến của các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau, không phải chỉ kinh tế, mà
cả xã hội và chuyên gia về an ninh, quốc phòng nhìn từ nhiều góc độ để xem xét
lại.
Thứ
hai nữa là rất cần phải hỏi ý kiến của đông đảo người dân. Bởi vì trong những
ngày vừa qua, khi tôi đi các nơi, kể cả gặp những người rất bình thường, hoặc
là ngồi trên xe taxi, thì những người lái xe taxi cũng chia sẻ với tôi nỗi bức
xúc, lo lắng của họ trước [dự] luật này.
Hầu
hết mọi người đều cho rằng, đưa ra Luật Đặc khu này, nhất là với điều kiện 99
năm thì có thể biến 3 đặc khu của VN thành vùng lãnh thổ trên thực tế của nước
láng giềng Trung Quốc. Một đất nước mà có rất nhiều tham vọng về lãnh thổ, cũng
như có những nhu cầu về di dân của họ, đi khắp nơi để đỡ gánh nặng dân số trên
mảnh đất của họ.
Tham
vọng của TQ đối với VN thì không hề che giấu trong suốt nhiều năm rồi, tôi
không nói đến lịch sử nghìn năm ai cũng thuộc, bất cứ người dân VN nào ai cũng
thuộc. Ngay cả trong lịch sử hiện đại VN, thì tham vọng lãnh thổ của TQ kể từ
những dấu mốc như cuộc chiến tranh biên giới vào những năm ’79, rồi những cuộc
chiếm các đảo của VN như Gạc Ma, rồi tất cả các đảo khác của VN trong suốt thời
gian vừa qua. Gần đây nhất như chuyện TQ tăng cường vai trò của họ, quân sự hóa
các bãi đá mà họ biến thành đảo nhân tạo ở các vùng thuộc lãnh thổ VN ở Biển
Đông, cho thấy rất rõ tham vọng không hề che giấu đó.
Trong
điều kiện như vậy, mà nền kinh tế VN cũng đang bị lệ thuộc ngày càng nặng nề
nhiều hơn vào TQ về nguồn cung cho rất nhiều vật tư đầu vào cũng như việc xuất
khẩu một loạt các sản phẩm của VN, thì cái mối nguy của việc 3 đặc khu, có thể
biến thành những vùng lãnh thổ của TQ ở VN là rất lớn. Chính vì vậy mà những
người dân bình thường của VN cũng đều bày tỏ sự lo lắng của họ.
Tôi phỏng vấn bà Phạm
Chi Lan, chuyên gia kinh tế về dự luật đặc khu. Bà Phạm Chi Lan là người tôi kính
trọng đã lâu bởi những ý kiến xác đáng và thẳng thắn về những vấn đề chung của
đất nước. Tôi ước gì Việt Nam có nhiều trí thức như bà.
Publiée
par Chau
Doan sur lundi 4 juin 2018
Đứng
về góc độ kinh tế, góc độ chuyên gia, chúng tôi cũng thấy trong thời đại của
cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa hiện nay, trong bối cảnh VN đã tham
gia FTA, Hiệp định Thương mại Tự do với các nước khác nhau trên thế giới, với
những cam kết rất cao về mở cửa thị trường ở VN về tạo thuận lợi cho nhà đầu tư
từ các nước đến làm ăn kinh doanh với VN, thì những mô hình như đặc khu kinh tế
thực sự không cần thiết nữa.
Thứ
hai nữa là, những đặc khu đó được đưa ra trong dự thảo luật cùng với các văn
bản, phụ lục kèm theo, đưa ra những lợi ích vô cùng to lớn cho các nhà đầu tư
vào đó, thì điều đó trái với những cam kết FTA của VN để tạo môi trường bình
đẳng cho các nhà đầu tư khác nhau trên mảnh đất VN. Và đặc biệt nó gây hiệu ứng
chèn lấn đối với doanh nghiệp VN, đối với công dân VN, về rất nhiều việc mà vốn
dĩ luật pháp chưa cho người VN làm trên đất nước mình, thì lại mở ra cho người
nước ngoài làm.
Kể
cả những điều kiện kinh doanh (ĐKKD) chẳng hạn, vốn dĩ điều kiện kinh doanh
được lập ra là nhằm bảo vệ lợi ích cho xã hội, cho người dân, hoặc là môi
trường, trong những lĩnh vực cần kiểm soát, thì bây giờ vào đặc khu, cũng mở ra
rất nhiều ĐKKD, dỡ bỏ đi để cho nhà đầu tư tự do làm, thì điều đó có thể gây
phương hại vô cùng to lớn cho xã hội, cho người dân, không chỉ ở trong đặc khu
đó. Tôi cho là, có quá nhiều vấn đề trong dự luật đặc khu này cần phải xem xét
lại.
Tôi
rất mong là Quốc hội lần này dừng lại, chưa thông qua luật này, để có thể lắng
nghe nhiều hơn ý kiến của người dân, của doanh nghiệp, của tất cả các đối tượng
khác trong xã hội, đặc biệt là các chuyên gia đang vô cùng bức xúc về vấn đề
này.
*
PV:
Thế nhưng mà bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim ngân có phát biểu rằng, Bộ
chính trị (BCT) đã thông qua, vậy thì QH cần phải bàn để đưa ra được luật, bà
nghĩ sao về phát biểu của bà Chủ tịch QH?
Bà
Phạm Chi Lan:
Tôi nghĩ khi BCT thông qua thì có thể BCT đến những chủ trương lớn, đến một
chiến lược và mong muốn tạo cơ hội cho VN phát triển. Tôi cũng thực lòng mong
muốn và tin rằng BCT muốn thiết kế ra cách để VN phá triển một cách đột phá,
chứ không phải như nhiều người nghĩ là một cách để làm cho VN bất lợi trước
nước láng giềng. Tôi thực lòng mong muốn là như vậy.
Nhưng
rất có thể là, khi thông qua chủ trương lớn đó, thì BCT không xem xét được đến
những nhân tố cụ thể, những điều cụ thể được đưa vào trong luật. Và nhất là đưa
vào trong các phụ lục kèm theo luật mà nó mở toang cánh cửa của VN quá rộng cho
các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như không được báo cáo hết hoặc tính toán hết
những tác động có thể có của dự luật này.
Vì
vậy cho nên, có thể BCT có chủ trương nhưng mà cũng vẫn không thấu đáo được,
thì tôi vẫn mong là xưa nay chúng ta vẫn nói đến “ý đảng, lòng dân”, thì lần
này ý đảng nên nghe thêm lòng dân, để có thể thực sự hòa hợp được với nhau. Và
vì vậy, cho nên bà Chủ tịch QH nói vậy tôi cũng vẫn mong là QH với tư cách là
đại diện của dân, làm sao kết hợp đưa được ý kiến của dân vào luật, chứ không
chỉ một chiều theo chủ trương lớn đã được đưa ra. Vì tôi thực sự e rằng, chủ
trương lớn đó thường không đi được vào các chi tiết, mà nhiều khi cái chết là ở
các chi tiết, chứ không phải ở bản thân các văn bản pháp luật.
Tôi
cũng xin chia sẻ kinh nghiệm cá nhân tôi tham gia rất nhiều vào việc đóng góp
vào các dự thảo luật lâu nay, cũng như các dự thảo chính sách của nhà nước VN,
thì tôi luôn luôn e sợ nhất là việc các nhóm lợi ích cài cắm những lợi ích
riêng của mình. Nhiều khi chỉ vào một vài từ trong văn bản pháp luật, thì nó có
thể làm lệch lạc hoàn toàn ý tưởng của luật đó đi.
Ví
dụ, khi luật muốn tạo điều kiện tự do kinh doanh hoặc cạnh tranh bình đẳng giữa
các doanh nghiệp với nhau, nhưng chỉ cần cài cắm vào đó vài điều thôi, như việc
cụ thể này do chính phủ ban hành các quy định. Như vậy thôi, cũng có thể làm
cho những ý tưởng của luật vốn dĩ là tốt, thì có thể bị méo mó, bị lệch lạc
hết, trong quá trình ban hành văn bản tiếp theo, nhất là trong quá trình thực
hiện sau này.
Nhìn
vào Dự luật đặc khu này, tôi cũng có thể thấy rất nhiều điều cài cắm lợi ích
theo kiểu đó.
*
PV:
Với tư cách là một phóng viên không chuyên về kinh tế, mong muốn bà góp thêm ý
kiến về việc những đặc khu được mở ra vào những năm 70, 80 ở thế kỷ trước, như
Thẩm Quyến chẳng hạn, tại sao họ thành công được bởi vì lúc đó nền kinh tế của
họ là nền kinh tế kế hoạch, và họ mở ra đặc khu để có những chính sách ưu đãi
về luật, về thuế… do vậy mới phát triển được. Bây giờ với thời đại công nghệ
4.0 và thế giới phẳng thì việc mở ra những đặc khu liệu rằng hiệu quả kinh tế
nó được như người ta kỳ vọng hay không? Bởi vì mình không thể chạy theo thế
giới, một điều mà người ta đã làm 30-40 năm rồi, trong khi mình đặt niềm tin
vào một cái rất mơ hồ, sẽ mang nhiều rủi ro. Bà có đồng ý với ý kiến đó không?
Bà
Phạm Chi Lan:
Tôi đồng ý với ý kiến đó. Thực ra rõ ràng khi ở TQ, ông Đặng Tiểu Bình chủ
trương phát triển Thẩm Quyến là trong bối cảnh nền kinh tế TQ đang rất muốn có
cải cách kinh tế mạnh mẽ hơn. Từ những người có tư tưởng cải cách mạnh mẽ như
Đặng Tiểu Bình, nhưng không thể áp dụng rộng rãi trên toàn quốc được, cho nên
ông ta phải tìm một chỗ để thí điểm mô hình đó. Từ đó chứng minh lợi ích của
việc cải cách của những chính sách mới thông thoáng, mở cửa hơn, thay vì chính
sách tập trung vào trong tay nhà nước như trước đó, để từ đó nhân rộng ra.
Tác
dụng của Thẩm Quyến không phải chỉ làm cho vùng Thẩm Quyến phát triển, mà quan
trọng nhất là những thể chế đó sau đó được áp dụng trên toàn TQ và làm cho TQ
mạnh lên về mặt kinh tế.
Đối
với VN bây giờ cũng vậy, trải qua ngần ấy năm cải cách rồi, như tôi đã nói, VN
còn đang tham gia các FTA, với những cam kết rất mạnh mẽ về mở cửa thị trường.
Có thể nói, các FTA thế hệ mới như TPTPP hoặc EVFTA mà VN đang tham gia là
những FTA được coi là của thế hệ mới, trong đó có những cam kết rất mạnh mẽ về
đổi mới thể chế ở VN nữa. Tôi cho rằng, với việc như vậy, VN nên tập trung vào
thực hiện những cam kết của mình đã có với các nước và nên xem xét lại trong
thời gian vừa qua, trong quá trình cải cách của mình, còn những gì nữa cần phải
thực hiện tiếp để cho nền kinh tế có thể phát triển mạnh mẽ hơn trên cả nước.
Và
nếu có thí điểm, thì thí điểm là những chính sách khó, là những biện pháp khó
cho những FTA thế hệ mới mà VN chưa dám làm ngay trên quy mô cả nước, thì có
thể làm trong phạm vi hẹp.
Ví
dụ như việc người ta đưa ra những yêu cầu về bảo hộ sở hữu trí tuệ để cho công
nghệ cao có thể phát triển, thì có thể trong các khu công nghệ cao rất cần áp
dụng một chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ thật mạnh, để làm cho các nhà đầu tư mạnh
dạn chuyển giao công nghệ cho VN. Đấy là cách thí điểm thể chế.
Mọi
thí điểm thể chế là để sau đó nhân rộng ra cho tất cả, chứ không phải gom lại
mỗi đặc khu như thế này, nó biến thành một quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn,
trong đó có những thể chế riêng biệt mà không áp dụng được cho cả nước. Tôi nghĩ
cái đó không phải. Hơn nữa VN cũng chưa cần phải học nhiều ở các nước khác, mà
học ngay bài học của chính mình. Ở VN lớn nhỏ đã có chừng gần 500 các khu kinh
tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao… đã được hình thành trong
những năm vừa qua, hay như các khu kinh tế ven biển…
Nhưng
trong thời gian vừa qua, kể cả một số chính sách đặc biệt được tạo ra cũng vẫn
chưa đủ để làm các đặc khu này phát triển lên. Do vậy, VN cần phải có một
nghiên cứu, đánh giá thấu đáo, tại sao các chính sách này lại chưa làm được cho
những khu mà VN đã từng chủ trương tạo cho nó những cơ chế đặc biệt để phát
triển, mà lại chưa phát triển được. Trên cơ sở đó thì rút kinh nghiệm, thấy thể
chế nào cần bồi đắp cho nó thì tập trung bồi đắp, để cho những khu mà VN đã hoạch
định rồi có thể phát triển lên và từ đấy nhân rộng ra cả nước.
Tôi
nghĩ đấy là cách đơn giản hơn nhiều. Tôi chỉ muốn nói đến ví dụ khu công nghệ
cao (CNC) Hòa Lạc, vào tháng 3/2018 ông Phùng Quốc Hiển, Phó Chủ tịch QH đã đến
thăm khu công nghệ cao Hòa Lạc ở ngay Hà Nội, thì sau 20 năm, khu CNC Hòa Lạc
vẫn chưa phát triển được như VN mong muốn. Số nhà đầu tư nước ngoài mang công
nghệ cao vào đó vẫn còn rất hạn hẹp. Tại sao lại như vậy?
Khi
ông Phùng Quốc Hiển cùng đoàn ĐBQH đến thẩm tra mới hiểu ở đó, mặc dù chính phủ
đã ban hành rất nhiều những chính sách tốt cho khu CNC này, nhưng không áp dụng
được trên thực tế, bởi nó vướng 13 luật pháp khác chưa sửa, để làm cho những
chính sách này được thự thi. Và vì vướng ở 23 luật này, mà khu CNC Hòa Lạc
không có điều kiện để phát triển được.
Thế
thì tôi nghĩ, đem luôn kinh nghiệm mà ông Phùng Quốc Hiển đã thấy này, tập
trung sửa những quy định trong 13 luật pháp đang cản trở khu CNC Hòa Lạc, áp
dụng vào nó để xem CNC Hòa Lạc có bật được lên hay không. Đấy là một cái
cách để thí điểm thể chế, đâu cần tìm những kinh nghiệm khác ở đâu xa nữa cho
VN?
Điều
cuối cùng tôi muốn nói là, trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 như thế
này, thì không có những ngành nghề, những lĩnh vực gì nó kéo dài quá đâu. Nếu
VN cứ mong muốn là dùng những chính sách ưu đãi thật nhiều, kéo dài thật lâu về
thuế, về tiền thuê đất, về thời hạn sử dụng đất… thì những cái đó cũng vô
nghĩa. Trong thời đại hiện nay, nó không có tác dụng thực sự với những người
đầu tư sử dụng công nghệ mà tuổi thọ hay vòng đời của các sản phẩm nó ngắn lại
rất đáng kể và nó phải thay đổi liên tục để cạnh tranh, trong khi đó nó lại chỉ
tạo cơ hội cho những người đầu cơ, đặc biệt là đầu cơ trục lợi trên đất đai.
*
PV:
Bà Chủ tịch Quốc hội có nói rằng, những đặc khu kinh tế, nếu bỏ vào 1 đồng thì
sẽ thu về 10 đồng hoặc 100 đồng. Với tư cách là một người dân, tôi nghe như
vậy, tôi cảm thấy rất là mơ hồ. Bởi vì khi phát thảo ra đặc khu kinh tế thì
phải có một ý tưởng rõ ràng, có thể dự đoán rằng, trong 10 năm, 20 năm, 30 năm
nữa, thì đặc khu kinh tế đó, có thể mang về lợi ích kinh tế gì cho đất nước.
Nhưng mà tôi sợ rằng, phát biểu của bà Kim Ngân hoàn toàn vô căn cứ và mang
tính cảm tính. Bà có đồng ý với quan điểm này không?
Bà
Phạm Chi Lan:
Tôi nghĩ có thể bà Kim Ngân đã được ai đó, chuyên gia nào đó tư vấn và gợi mở
cho bà ấy con số đó. Cá nhân tôi thật sự không tin con số đó. Có thể là có dòng
vốn đầu tư vào, khi mà nói bỏ ra 1 đồng, có người bỏ ra 100 đồng thì tôi nghĩ
là dòng vốn của nhà nhà đầu tư nào đó mang vào, có thể là như vậy. Nhưng trên
thực tế, ít nhất là 2 trong 3 đặc khu này là Vân Đồn và Phú Quốc, thì chưa cần
có chính sách đặc khu gì, người ta đã mua đất, đã xây dựng, đã làm rất nhiều
thứ rồi.
Đất
đai ở Phú Quốc gần như đã hết, cho các khu resort, cho các khu nghỉ dưỡng, cho
các dịch vụ du lịch khác nhau, mà chưa cần có chính sách ưu đãi gì. Tôi nghĩ,
khi người ta thấy có cơ hội kinh doanh, là các nhà đầu tư có thể nhảy vào. Thì
trong trường hợp này, chúng ta không cần bỏ 1 đồng ưu đãi về thuế, về đất, đã có
thể có nhiều đồng của các nhà đầu tư vào rồi. Cho nên tôi nghĩ là, cứ nhìn vào
Phú Quốc như vậy rồi lại nghĩ khi trở thành đặc khu thì nhiều hơn. Tôi cho là
không phải như vậy đâu. Vả lại số tiền người ta bỏ vào bao nhiêu, không quan
trọng bằng lợi ích thực sự là VN có được bao nhiêu.
Lâu
nay có thể nói là trong chính sách đầu tư nước ngoài, VN thu hút được nhiều dự
án đầu tư nước ngoài, nhưng lợi ích giành lại cho đất nước VN, nói thật, khiêm
tốn lắm. VN bị tình trạng như ngôn ngữ của tổ chức IFC (International Finance
Corporation) của ngân hàng thế giới, người ta vẫn gọi là ở VN vẫn hay theo cuộc
đua xuống đáy, theo cái cách gọi là “lấy của người nghèo cho người giàu”, khi
chúng ta miễn thuế nhiều quá cho các nhà đầu tư lớn. Trên thực tế, VN tình
trạng chuyển giá, tình trạng né thuế ở VN, báo cáo lỗ hoài trong nhiều năm,
nhưng vẫn xin mở rộng dự án đầu tư là có thật trong nhiều năm nay ở VN mà đến
bây giờ vẫn chưa khắc phục được. Cho nên, nói về lợi ích có thể mang lại cho VN
thì phải cần rất thận trọng.
Họ
có thể mang lại được tốc độ tăng trưởng GDP, về hình thức thì cao, xuất khẩu
cao, nhưng mà tăng trưởng cao, về những nguyên tố này thì cái chính, cốt lõi
nhất đối với người VN vẫn phải xem là, vậy thì nền kinh tế VN, người dân VN
được hưởng lợi ích gì từ tất cả những cái này, hay là lợi ích chủ yếu vẫn chảy
vào túi của các nhà đầu tư nhiều hơn.
*
PV:
Vừa rồi có đoàn phóng viên đi thăm Thẩm Quyến về, đồng loạt họ lên bài, ca ngợi
mô hình đặc khu, cộng thêm nỗi lo lắng của người dân và thật ra thì ai cũng
biết rằng khi mà mở đặc khu kinh tế thì người TQ sẽ nhảy vào, gần như điều này
là chắc chắn. Nhưng mà ngược lại, như tôi quan sát và dự đoán, luật về đặc khu
sẽ được thông qua. Và như vậy, nó sẽ mang lại hiểm họa vô cùng to lớn cho đất
nước. Bà có đồng ý với nhận định của tôi không?
Bà
Phạm Chi Lan:
Tôi nghĩ, cách đi tham quan nhiều khi không giúp được nhiều cho người ta mở mắt
thật sự, bởi vì tham quan nếu mà muốn hiểu đầy đủ về mô hình đặc khu thì cần
xem cả những thành công và những cái thất bại của đất nước khác nữa. Những tổng
kết của Ngân hàng Thế giới và các nơi đưa ra thì vẫn thường đánh giá là 50/50.
Có khoảng 50% thành công, cũng có khoảng 50% thất bại nặng nề. Và khi thất bại
thì cái giá phải trả của nền kinh tế và của người dân là rất lớn. Điều thứ hai
là mối lo về vai trò của Trung Quốc thì không chỉ ở VN, nhưng gần đây ở các
nước như Sri Lanca chẳng hạn, tiếp nhận đầu tư từ TQ vào một cảng biển, cuối
cùng không có tiền trả cho TQ và phải bán toàn bộ quyền sử dụng, khai thác cảng
biển đó cho TQ, là bài học đau đớn mà nhiều nơi đã nhận thấy.
Châu
Phi chẳng hạn, cũng tiếp nhận rất nhiều dự án đầu tư của TQ, để trở thành con
nợ của TQ, đó là điều mà ai cũng lo sợ. Tôi nghĩ là đối với VN, là nước kề cận
TQ mà như tôi đã nói từ đầu về tham vọng của TQ đối với VN không phải che giấu,
thì đương nhiên nó gây nên mối lo lắng trong bất kỳ người dân VN nào có tinh
thần dân tộc hoặc biết lo lắng đến vận mệnh của đất nước, đến tương lai của con
em, mối lo là TQ có thể là những nhà đầu tư chính trong các đặc khu này. Cũng
có thể là ban đầu họ chưa vào nhiều đâu, bởi vì họ có thể mang danh là nhà đầu
tư VN, mang danh là nhà đầu tư đâu đó, trong thế giới hiện nay, với việc chuyển
tịch rất nhanh của dòng vốn đầu tư của những người chủ, từ ông chủ A sang ông
chủ B rất dễ dàng nhanh chóng, với những hình thức như mua lại, sáp nhập, rồi
mua bán với nhau. Và quyền tự do đặc khu dành cho các nhà đầu tư về mua bán
doanh nghiệp đó, rất có thể chỉ là một số năm ít ỏi thôi. Chưa chắc đã cần chờ
đến 50 năm, 70 năm hay 99 năm đâu, thì các đặc khu này có thể rơi vào tay người
TQ ở mức độ rất cao, đến mức họ khống chế hoàn toàn. Đấy là điều thật sự tôi lo
lắng.
*
PV: Cảm ơn bà rất là
nhiều, xin chúc bà nhiều sức khỏe.
No comments:
Post a Comment