Giáp Văn
Dương
Viet-Studies 13-7-2013
Thời gian gần đây, khi thảo luận về những nguy cơ
đối với nước ta trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, về lựa chọn mô hình phát
triển cho Việt Nam, về tình hình tranh chấp Biển Đông …, một số người thuộc
giới trí thức trong và ngoài nước, dù chưa chính thức, cũng đã ít nhiều đi đến
một nhận định chung: Cần thoát khỏi sự ảnh hưởng của Trung Quốc!
Tuy nhiên, nhận định này chưa bao giờ được viết ra một cách mạch lạc, có hệ thống, và dường như chỉ mới dừng ở mức trực giác. Vì thế, một bài luận nhằm phân tích rõ ràng về nhận định quan trọng này là cần thiết.
Tuy nhiên, nhận định này chưa bao giờ được viết ra một cách mạch lạc, có hệ thống, và dường như chỉ mới dừng ở mức trực giác. Vì thế, một bài luận nhằm phân tích rõ ràng về nhận định quan trọng này là cần thiết.
*
Tư tưởng thoát khỏi Trung Quốc thực ra không hề mới.
Lịch sử nước ta có thể được diễn giải tương đối đầy đủ dưới góc nhìn thoát
Trung. Phần lớn các cuộc khởi nghĩa, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong
suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta đều mang trong mình một thông điệp nóng
hổi: Thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Trung Quốc!
Sự kiện dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa và giành
lại được độc lập sau gần một nghìn năm Bắc thuộc là một sự kiện hy hữu trên thế
giới. Đó là kết quả của một quá trình thoát Trung bền bỉ kiên trì. Sau khi
giành được độc lập, quá trình này được tiếp nối không chỉ ở các cuộc kháng chiến
vệ quốc, mà còn ở các nỗ lực giữ gìn ngôn ngữ, văn hóa ở các triều đại sau
này.
Khi còn nhỏ, tôi đã từng ngạc nhiên khi đọc bài hịch
của vua Quang Trung khích lệ tướng sĩ trước khi ra trận: “Đánh cho để dài
tóc. Đánh cho để răng đen…”. Tôi đã tự hỏi, vì sao nhà Vua
không chọn những biểu tượng lớn lao hơn mà lại chọn những điều nhỏ nhặt như vậy
để động viên quân sĩ? Nhưng càng ngày tôi càng thấm thía: Đó là lòng kiên định
của tổ tiên nhằm thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nền văn hóa Trung Hoa, ngay từ những
việc nhỏ nhất.
Ý thức vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này là thường
trực. Tuy nhiều lúc bị chao đảo bởi sự tấn công mạnh mẽ đến từ phương Bắc,
nhưng mỗi khi cần đến thì ý thức vùng thoát này lại bùng lên dữ dội. Nỗ lực xây
dựng chữ viết riêng cho dân tộc như chữ Nôm của cha ông, và gần đây nhất là
việc toàn dân đồng loạt chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, là minh chứng rõ ràng
cho sự vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này.
Riêng với việc chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, có
thể nói, đây là một cuộc thoát Trung ngoạn mục. Thành quả của nó thật đáng nể:
Số người biết đọc biết viết tăng lên gấp bội, số lượng văn bản sử dụng chữ quốc
ngữ chỉ trong một thời gian ngắn đã tăng lên gấp nhiều lần so với số văn bản
chữ Nho của toàn bộ lịch sử nước ta trước đó. Cũng chính nhờ chữ quốc ngữ mà về
mặt hình thức, ngôn ngữ của chúng ta đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tiếng Hán.
Tỷ như đến giờ phút này, nước Việt ta vẫn dùng chữ Nho để viết và giao tiếp với
thế giới, thì đối với họ, ta có khác nào một quận huyện của Trung Quốc? Ta sẽ
gặp khó trong việc thuyết phục họ rằng, ta là một quốc gia độc lập, có ngôn ngữ
và văn hóa riêng.
Tên gọi của nước ta cũng không phải là một sự ngẫu
nhiên. Đằng sau mỗi cái tên đều là một lời nhắn nhủ hoặc một mong đợi sâu thẳm.
Ông cha ta đã chọn hai chữ Việt Nam để đặt làm tên nước. Việt Nam có nghĩa là
tiến về phương Nam. Điều này có nghĩa là gì? Chỉ có thể cắt nghĩa: Tiến về
phương Nam để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người phương Bắc. Đó là di lệnh của
tổ tiên cho các thế hệ con cháu người Việt Nam mình.
Như thế, tổ tiên chúng ta bằng kinh nghiệm và trực
giác, thông qua cách chọn tên nước, đã di lệnh cho con cháu: Muốn tồn tại
thì phải tiến về phương Nam, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người phương Bắc.
Lịch sử mở nước của chúng ta trong thời cận đại có thể được hiểu là gì
khác hơn việc thực hiện di lệnh của tổ tiên mình?
Nhưng điều không may cho chúng ta là nền văn hóa
Trung Hoa có sức ảnh hưởng quá lớn. Nó như một đại nam châm hút các dân tộc
xung quanh về phía mình. Nên dù luôn có ý thức vùng thoát khỏi ảnh hưởng của
người Trung Quốc, dù đã được cha ông di lệnh kỹ càng, thì lịch sử của Việt Nam
luôn là sự giằng xé giữa hai luồng vận động: Vùng thoát khỏi Trung Quốc
và chầu về Trung Quốc.
Sở dĩ có sự giằng xé này là vì, trong suốt thời phong kiến, do sự hạn chế của phương tiện giao thông, thế giới bên ngoài đối với nước ta dường như chỉ có một mình Trung Quốc. Khi người của ta chưa đủ đông, kinh tế của ta chưa đủ mạnh, văn hóa của ta chưa đủ trưởng thành, thì việc chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng ngày nay, thời thế đã đổi thay. Một em bé sinh
ra ở một vùng quê hẻo lánh cũng có đủ thông tin để biết rằng, thế giới không
chỉ có một mình Trung Quốc. Thế giới còn có nhiều nền văn hóa khác, mang nhiều
giá trị tiến bộ hơn, đáng học hỏi hơn nền văn hóa Trung Hoa, đến mức bản thân
người Trung Quốc cũng phải mau mau thay đổi để học hỏi những điều tiến bộ này.
Trên thực tế, những vùng nào của Trung Quốc gỡ bỏ được một phần văn hóa Trung
Hoa truyền thống để du nhập các giá trị văn hóa phương Tây như các Hồng Kông,
Đài Loan… thì đều phát triển vượt bậc so với những phần còn lại của Trung Quốc
lục địa.
Nhiều nước châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore cũng đã tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa thành
công và trở thành những con rồng con hổ châu Á mới. Họ không chỉ giữ được độc
lập, mà còn tiến nhanh thành một nước phát triển, được thế giới kính nể trọng
vọng.
Hãy lấy trường hợp Nhật Bản làm ví dụ: Bằng cách
thực hiện cuộc thoát Á nhập Âu từ nửa sau của thế kỷ 19, Nhật Bản đã tránh được
ách nô lệ thực dân và phát triển thành cường quốc chỉ sau một thời gian ngắn.
Thoát Á với Nhật Bản thời gian đó là gì, nếu không phải là thoát khỏi ảnh hưởng
của văn hóa Trung Hoa? Vì vậy có thể nói, chìa khóa để Nhật Bản phát triển
thành công là thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc.
Vậy thì tại sao chúng ta lại không làm như họ? Tại
sao ta lại không vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Trung Quốc để phát triển,
khi gương thành công đã bày ra trước mắt cả trăm năm, khi di lệnh của tổ tiên
vẫn còn bên tai văng vẳng?
Câu trả lời chỉ có thể là: Tư tưởng chầu về Trung
Quốc đã trở thành một quán tính tâm lý, một vô thức xã hội hay một phản xạ có
điều kiện. Tư tưởng này đã ăn sâu vào đời sống ở nhiều dạng nhiều mặt nên khó
lòng dứt bỏ được. Với người dân thì đó là sự tiếp nhận văn hóa Trung Hoa một
cách vô tư hào hứng qua phim ảnh, sách báo… đến mức trẻ em thuộc sử Tàu hơn sử
Ta, quen với đồ chơi Tàu hơn đồ chơi Ta. Thương nhân ta thì chỉ chăm chắm nhập
hàng Trung Quốc giá rẻ về bán cho dân, dù biết là hàng kém và có nhiều độc hại.
Ở mức quốc gia thì đó là sự ràng buộc đến mức vô lý về ý thức hệ vào người
Trung Quốc, dẫn đến thua thiệt và bất bình đẳng trong bang giao quốc tế.
Những việc này đều diễn ra một cách trơn tru tự
động, đến mức không mấy ai tự hỏi: Vì sao mọi chuyện lại quá dễ dàng như vậy?
Câu trả lời hẳn nhiên là tư tưởng chầu về Trung Quốc đã bén rễ sâu trong tiềm
thức của xã hội ta như một chất gây nghiện, tuy độc hại nhưng rất khó từ bỏ. Vì
nếu từ bỏ thì sẽ gây ra đau đớn và chống chếnh phần nào. Nhưng từ xưa đến nay,
có chất gây nghiện nào có lợi?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ còn một cách duy nhất là
quán chiếu để nhìn sâu hiểu kỹ tác hại của việc chầu về Trung Quốc, để thấy
được mối nguy lâu dài của nó đối với đất nước thì may ra mới có thể dứt bỏ
được.
Trước
hết là về văn hóa: Có so sánh ra bên ngoài mới thấy, bản sắc văn hóa
của ta quá đỗi mong manh. Lý do chính là văn hóa của ta đã bị áp đảo bởi văn
hóa Trung Hoa trong suốt nhiều thế kỷ, nay càng bị áp đảo mạnh hơn bởi tiến bộ
của phương tiện truyền thông. Nhiều người khi còn sống thì một chữ tượng hình
bẻ đôi không biết, nhưng khi chết thì lại được cúng tế bằng các bài văn khấn
chữ Nho. Chuông, khánh trong chùa dù mới đúc, cũng hết thảy được khắc bằng thứ
chữ của người Hán dù chẳng ai đọc được. Truyền thanh truyền hình, tuy sống bằng
tiền thuế của dân Việt Nam ta, lại ngày đêm truyền bá văn hóa Trung Hoa đến tận
hang cùng ngõ hẻm. Thời sự hơn nữa thì phim về tổ tông được quay bên Trung
Quốc, Vạn Lý Trường Thành được mang về Đà Lạt... Ôi thôi, biết bao nhiêu mà kể!
Xin hỏi: Một dân tộc được định hình chính bởi
cái gì? Có phải là bởi đất đai, tài nguyên của dân tộc đó hay không? Chắc hẳn
là không. Người ta phân biệt dân tộc này với dân tộc khác bởi chính văn hóa của
nó. Nay văn hóa của ta đang bị áp đảo mà dân ta lại vui vẻ cổ vũ chấp thuận,
thì khác nào tay ta đã yếu, mắt ta đã chậm mà ta lại tự mua dây về bịt mắt trói
tay mình?
Chính do sự áp đảo của văn hóa Trung Hoa nên những
thói hư tật xấu của họ đã tìm được đất sống và tác oai tác quái ở ta. Nạn
chuộng bằng cấp hư danh, tệ mua quan bán chức, thói tầm chương trích cú, ếch
ngồi đáy giếng, ngông nghênh coi thường chân lý, bệnh phụ mẫu quan phương,
chính trị thống soái …– những đặc trưng của văn hóa hủ nho Trung Quốc không hề
giảm đi trên đất Việt Nam ta mà ngược lại, như rồng gặp nước, múa may phát
triển tràn lan, biến hóa gây hại không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao vậy? Vì
không sáng tạo ra chỉ học đòi bắt chước, nên nhiều người mang lòng kính sợ,
nhất nhất tuân theo không dám đổi thay, nên chỉ nhăm nhắm chầu về, nghiêm cẩn
như học trò đối với ông thầy.
Nay những thói hư tật xấu này đang tác oai tác quái
làm suy đồi văn hóa và đạo đức của ta quá thể. Bệnh hình thức hư danh, tật khoe
khoang thành tích, thói hành dân, nịnh trên lừa dưới, tệ chạy chức chạy quyền…
đã thành phổ biến , nên không còn cách nào khác là phải dứt bỏ để học những giá
trị tiến bộ của phương Tây như dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, thực học thực
nghiệp… thì mới có thể tiến kịp người.
Ta phải tự gỡ bỏ tấm khăn đang bịt mắt ta ra, phải
vứt bỏ sợi dây đang trói buộc mình thì bàn tay khối óc mới được giải phóng, hoa
thơm trái ngọt của sự sáng tạo mới được thành tựu. Còn như chỉ mê muội sùng
kính những thứ người ta đã phải bỏ đi, thì mãi lếch thếch lôi thôi cũng là điều
tất yếu!
Thứ
hai là về kinh tế: Việt Nam ta đang bị áp đảo trong thương mại đối với
người Trung Quốc. Nhập siêu từ họ lên đến 90% so với tổng nhập siêu của cả nước
ta. Trong khi đó, xuất khẩu từ ta sang họ chỉ chiếm một phần rất nhỏ, lại chủ
yếu là nguyên liệu thô và hàng nông sản, là những thứ mà giá trị chẳng được bao
nhiêu. Vậy có thể nói, về kinh tế, chúng ta đang phụ thuộc vào họ một cách nặng
nề. Nền kinh tế của ta đang ở mức chông chênh, có thể sụp đổ khi họ chủ tâm
đóng cửa.
Nhưng điều đáng lo hơn cả là những người có thẩm
quyền lại không thấy sự bất thường này. Những dự án lớn hầu hết đều rơi vào tay
nhà thầu Trung Quốc. Tỷ như, 90% các dự án tổng thầu gần đây đã rơi vào tay họ.
Chất lượng của những công trình này rất kém, vì một lẽ giản đơn: Trình độ về
công nghệ của họ còn thấp, việc tôn trọng môi trường và văn hóa bản địa họ
chẳng quan tâm. Hàng hóa xuất phát từ Trung Quốc luôn bị thế giới cảnh báo là
độc hại và kém chất lượng. Chính họ đã gây ra nhiều vấn nạn về văn hóa và môi
trường trong nước họ. Vậy thử hỏi, vẫn những con người đó sang nước ta thì làm
sao có thể làm tốt cho được?
Đáng tiếc thay, tư duy chộp giật, “sống chết mặc bay
tiền thày bỏ túi” của nhiều người có trách nhiệm đã dung túng tình trạng này,
gây hại lâu dài cho nền kinh tế. Việc này ta phải trách ta trước hết, vì nếu ta
không tiếp tay thì làm sao họ có thể tác oai tác quái. Tiếp tay cho họ hại
mình, thời buổi cạnh tranh, hỏi có khác nào mua dây để tự trói chân mình. Mà đã
mua dây để tự trói chân mình thì làm sao có thể đi nhanh đi xa cho được?
Chính vì thế, bên cạnh việc vùng thoát khỏi vòng
kiềm tỏa về văn hóa, chúng ta cần tìm cách thoát khỏi vòng kiềm tỏa về kinh tế.
Nhà nước cần có chính sách giảm thiểu nhập siêu từ Trung Quốc, khuyến khích
người trong nước sản xuất kinh doanh. Người Việt phải xây dựng được một nền
kinh tế độc lập so với người Trung Quốc, phải mở được những lối đi riêng, tạo
dựng được những mô hình phát triển khác hẳn so với họ. Phải phấn đấu trở thành
hội điểm đầu tư và thương mại toàn cầu. Việc này nói thì dễ mà làm thì rất khó.
Nhưng không vì thế mà không gắng sức, vì tương lai dân tộc phụ thuộc phần nhiều
vào chính chỗ này.
Thứ
ba là về chính trị: Nước ta đang có một sự ràng buộc kỳ quặc về ý thức
hệ đối với người phương Bắc. Họ làm gì thì sớm muộn ta cũng làm theo như bị
thôi miên. Rất nhiều khổ đau trong lịch sử của ta đã có nguồn gốc từ việc làm
theo như họ.
Dân ta khác, phong hóa của ta khác, đất đai vị thế
của ta khác, vậy hà cớ gì ta phải dập khuôn theo? Đành rằng, trước đây ta chỉ
biết đến Trung Hoa nên triều chính phải rập khuôn bắt chước, tuy đáng trách
những có thể cảm thông. Nhưng nay thế thời đã đổi, thế giới đã mở rộng muôn
phương, mà sao ta vẫn nhăm nhắm hướng về phương Bắc? Bao phen cửa nát nhà tan,
bị đè đầu cưỡi cổ, mà sao vẫn chưa hết tỉnh hết mê? Lẽ nào, luồng tư tưởng chầu
về Trung Quốc, tưởng chừng sẽ nhạt đi khi thế giới được mở rộng ra, lại một lần
nữa giở trò mánh khóe kéo chìm ta xuống đáy?
Vì sao vậy? Vì đâu vậy? Vì sự u mê đã đến mức thâm
căn cố đế, hay vì đặc quyền đặc lợi của một nhóm người? Di lệnh của tổ tiên và
những bài học lịch sử vì sao không còn tác dụng? Dù câu trả lời là thế nào đi
chăng nữa thì trên thực tế, sự ràng buộc kỳ quặc về ý thức hệ này đã gây ra
nhiều thua thiệt cho ta trong quốc tế bang giao, làm mất đi nhiều cơ hội làm ăn
của ta với thế giới bên ngoài. Người ngã xuống vì biên cương hải đảo ta cũng
chẳng dám vinh danh… Hỡi ôi!
Thời thế đã đổi thay. Thế giới ngày nay không chỉ có
một mình Trung Quốc. Đoàn thuyền ra khơi phần đông đều đi theo một hướng, vậy
lẽ gì ta phải tách nhóm đi riêng với kẻ vẫn bắt nạt mình? Sợi dây trói tay trói
chân gỡ ra còn chưa được, vậy cớ gì ta lại mua dây để tròng đầu tròng cổ ta
thêm?
Và
cuối cùng là chủ quyền bị đe dọa: Khi chân tay ta
bị trói, đầu cổ ta cũng chẳng được tự do, mắt ta cũng bị buộc nhìn về một
hướng, thì thân thể ta làm sao mà vẹn toàn tự chủ? Sự trỗi dậy của người Trung
Quốc tất yếu dẫn đến việc họ mở rộng biên giới quốc gia. Tranh chấp với xung
quanh là điều khó tránh khỏi. Điều này họ đã công khai thừa nhận. Biển Đông đã
nổi sóng. Giờ việc ta cần làm là hãy nhanh nhanh tự cởi trói cho mình, làm cho
ta hùng mạnh thêm lên thì mới có thể giữ được vẹn toàn cương thổ.
Khi lực ta còn yếu thì mắt ta phải nhìn xa trông
rộng, phải tìm cách kết thân với những kẻ có thế có quyền, có cùng lợi ích cùng
mối lo âu để đồng tâm đối phó. Muốn vậy ta phải thiện chí thành tâm, đặt lợi
ích quốc gia lên trên những tính toan nhỏ nhặt. Tình thế đã trở nên nguy ngập.
Nước Việt ta đang đứng trước một lựa chọn lịch sử: Thoát Trung để phát triển
hay cam tâm làm nô lệ một lần nữa?
Là người Việt, không ai muốn trở thành nô lệ ở bất
cứ dạng nào. Điều này có nghĩa, lựa chọn duy nhất là vùng thoát khỏi vòng kiềm
tỏa của người Trung Quốc để phát triển.
Vậy thì, hãy làm một cuộc thoát Trung toàn diện để
hội nhập cùng thế giới và kiến tạo một kỷ nguyên phát triển mới!
Hãy tỉnh cơn mê, dứt cơn mộng mị! Hãy từ bỏ chất gây
nghiện chầu về Trung Quốc! Hãy cởi bỏ tấm khăn bịt mắt! Hãy vứt sợi dây đang
trói tay, trói chân, tròng cổ, tròng đầu!
Hãy
trở về với di lệnh của tổ tiên: Thoát Trung hay là chết!
---------------------------------
No comments:
Post a Comment