Thứ ba 30 Tháng Bẩy 2013
Sau chuyến công du Hoa Kỳ rất được dư luận chờ đợi của
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, đặc biệt là sau cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ
Barack Obama ngày 25/07/2013, liệu Việt Nam có thu được lợi ích gì hay không ?
Đó là câu hỏi RFI Việt ngữ đã đặt ra cho nhà báo tự do, tiến sĩ kinh tế Phạm
Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghe
() :
Nhà báo Phạm Chí Dũng - TP Hồ Chí Minh
30/07/2013
RFI : Thân chào nhà báo Phạm Chí Dũng,
rất cảm ơn anh đã nhận trả lời phỏng vấn. Theo anh thì kết quả cuộc gặp gỡ giữa
ông Barack Obama và Trương Tấn Sang có đáng lạc quan như báo chí chính thức ở
Việt Nam mô tả?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Hầu như rõ ràng, bầu nhiệt huyết ẩn chứa nhiều động cơ mà Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang mang tới Nhà Trắng đã bị lạnh giá bởi thái độ lạnh lẽo không
che giấu của Tổng thống Obama. Mọi chuyện bắt đầu từ quá ít sắc màu ở sân bay
của xứ Cờ hoa. Sau đó, đến bữa ăn trưa với Ngoại trưởng Mỹ cùng những lời lẽ xã
giao thừa thãi quá khứ nhưng thiếu vắng tương lai. Và cuối cùng, thể diện một
nhà nước Việt Nam trên đường đến Mỹ đã thể hiện qua những phút trao đổi với báo
chí của hai nguyên thủ quốc gia, sau cuộc đối thoại chính thức trong phòng kín.
Bất chấp vẻ trịnh trọng cùng điệu bộ cứng nhắc cho gương
mặt một chính khách mang kiểu cách chuyên nghiệp mà giới quan sát rất dễ nhận
ra, sắc diện của ông Trương Tấn Sang vẫn như toát lên một thất vọng thầm kín.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đạt được hầu như trọn
vẹn các mục tiêu của ông trong cuộc hội kiến với người đồng cấp Obama. Chỉ có
điều, đạt được tất cả, mà trong thực chất không có bất cứ một mục tiêu nào được
cụ thể hóa cũng là một tâm trạng xuống cấp cho mối quan hệ giữa hai nước.
Tất cả vẫn chỉ là những lời hứa hẹn, không hơn không kém.
Một kịch bản lạc quan hoặc tương đối lạc quan mà Hà Nội mang đến Mỹ, với kỳ
vọng sẽ mở lối những thỏa thuận bằng hình thức văn bản - dù chỉ là văn bản thỏa
thuận khung - rốt cuộc đã chưa được hoàn chỉnh khâu đạo diễn. Ngoài bản tuyên
bố chung như một thủ tục không thể thiếu sau cuộc gặp của các nguyên thủ quốc
gia, đã không hề hé lộ một thỏa thuận chi tiết nào về TPP – điều mà Bộ Chính
trị Đảng Cộng sản Việt Nam mong ngóng nhất, và về hành động hỗ trợ được cụ thể
hóa của Hoa Kỳ đối với bầu không khí an ninh vẫn bị “người lạ” xâm hại tại khu
vực Biển Đông. Quá rõ, kết quả đó là quá ít ỏi so với hàng chục văn bản thỏa
thuận hợp tác mà ông Sang lập tức nhận được từ “người lạ” Tập Cận Bình ngay
trong một chuyến đi rất chóng vánh đến Bắc Kinh.
Một chuyên gia đã bình luận một cách hài hước rằng thực
ra giữa Mỹ và Việt Nam không cần đến một văn bản thỏa thuận nào nữa, bởi tất cả
đều đã được thuận thảo ở Bắc Kinh.
Cũng đáng thất vọng không kém đối với giới ngoại giao
Việt Nam là đã không hề có một từ ngữ “chiến lược” nào được trám vào cụm từ
“đối tác toàn diện”. Rốt cuộc, Hà Nội đã không bổ khuyết được con tem Cờ hoa
vào bộ sưu tập tham vọng đến mức vô lý của mình.
RFI : Theo anh thì tại sao phía Mỹ né
tránh từ “chiến lược”? Điều này có làm ảnh hưởng đến những hứa hẹn về hợp tác
quân sự có từ năm 2011?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Trong toàn bộ phát ngôn của mình trước báo chí, người Mỹ đã không một lần
nhắc đến từ “chiến lược” trong câu chuyện đối tác. Mà nếu không phải chiến
lược, thì chỉ còn lại những vấn đề thuộc về chiến thuật.
Có lẽ đó cũng là lý do vì sao trước cuộc gặp Obama -
Sang, một quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là ông Danny Russel, người vừa chính
thức nhậm chức Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách Đông Á – Thái Bình Dương, đã cho
rằng Việt Nam có một vị trí “gần sát trung tâm của chiến lược tái cân bằng” qua
châu Á.
Rất có thể, Hà Nội đã bỏ lỡ một cơ hội đáng giá từ sáu
năm trước. Nếu trong cuộc gặp Triết - Bush vào năm 2007, Việt Nam đã có cơ hội
để trở thành một “trung tâm” trong chính sách châu Á của Mỹ, dù rằng Washington
chưa quyết định “xoay trục” vào thời điểm đó, có lẽ mọi chuyện đã không ngổn
ngang như bây giờ.
Giờ đây, trong mục “quốc phòng và an ninh” của bản tuyên
bố chung Việt - Mỹ, người ta chỉ đọc thấy nội dung “Hai nhà lãnh đạo bày tỏ
sự hài lòng đối với Bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương ký
năm 2011 và tái khẳng định cam kết triển khai đầy đủ Bản ghi nhớ”. Vậy, câu
hỏi cần đặt ra là nếu như từ năm 2011 đến nay mà ngay cả một bản ghi nhớ còn
không thể triển khai được thành một hoạt động chi tiết nào đấy, thì còn nói gì
cho những việc tiếp theo?
Hiểu theo ẩn ý của người Mỹ, Việt Nam vào lúc này chỉ còn
là một diễn viên phụ trên sân khấu mà không còn ở vị trí tâm điểm nữa.
Có vẻ như không khác mấy tinh thần của bản ghi nhớ về hợp
tác quân sự vào năm 2011, bản tuyên bố chung Việt - Mỹ lần này chỉ đề cập một
cách chung nhất đến việc “hợp tác hàng hải”, thay vì nhiệm vụ song phương về
bảo vệ chủ quyền biển đảo cho Việt Nam.
RFI: Còn về Hiệp định đối tác thương mại
xuyên Thái Bình Dương (TPP) ?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Đây là một vấn đề lớn. Đến nay, Việt Nam đã qua đến 18 vòng đàm phán TPP,
nhưng xem ra mọi chuyện vẫn chưa đi đến đâu. Trước cuộc gặp Sang - Obama, một
số tờ báo Đảng đã tỏ ra rất hy vọng con thuyền kinh tế Việt Nam đang chuẩn bị
“thẳng tiến ra biển lớn” bằng vào tư thế gần như đương nhiên được chấp thuận
tham gia vào TPP, ứng với “những ưu thế của Việt Nam”. Thế nhưng, điều
mà giới chức Đảng và Chính phủ ở Việt Nam dường như không lường trước là mặc dù
cho rằng cuộc gặp Obama - Sang là “cơ hội lịch sử”, song đại sứ Hoa Kỳ
tại Việt Nam là David Shear cũng không quên nhắc lại một hàm số tỉ lệ nghịch
khi đề cập đến chủ đề nhân quyền ở Việt Nam: “Hoa Kỳ có ưu thế để nêu ra vấn
đề đó”.
Kết quả là, không mấy ngạc nhiên là viễn cảnh Việt Nam
tham dự vào bàn tiệc TPP đã chỉ được Tổng thống Obama hứa hẹn “sẽ thông qua
sớm nhất vào cuối năm 2013”. Không có bất kỳ một hứa hẹn nào và cũng không
có bất kỳ một biên bản hay văn bản thỏa thuận nào. Điều đó cũng có nghĩa là như
nhận định của ông Ernest Z. Bower, cố vấn cao cấp và cũng là giám đốc Chương
trình Đông Nam Á của Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế Hoa Kỳ, lộ
trình thủ tục TPP dành cho Việt Nam còn phải phụ thuộc vào Quốc hội Hoa Kỳ - cơ
quan có vai trò thông qua vấn đề này vào năm 2014. Và nếu mọi chuyện thuận lợi,
con thuyền kinh tế Việt Nam chỉ thật sự “tiến ra biển lớn” sau hai năm
nữa.
RFI: Anh nhận xét như thế nào về thái
độ của phía Mỹ khi đón tiếp ông Trương Tấn Sang?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Hơn ai hết, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có lẽ đã thấm cảm tính “chiến
thuật” ngay từ buổi đón tiếp ông được thực hiện ở sân bay Andrew ở thủ đô
Washington.
Một lời bình trên mạng đã chua chát: Cần phải làm cho
người Mỹ bẽ mặt nếu Obama đến Việt Nam. Khi đó, Việt Nam sẽ đón tiếp Tổng thống
Mỹ ở sân bay Nội Bài theo nghi thức dùng đại sứ, nhưng không phải đại sứ Việt
Nam tại Hoa Kỳ mà là đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc.
Không đại bác, không thảm đỏ, không đội danh dự… Những
nghi lễ quá đỗi thông thường mà hai viên chức thuộc cấp đại sứ như David Shear
và Marshall – vốn chưa từng được xem ngang hàm với bất kỳ một Thứ trưởng Ngoại
giao nào - tạo ra, là quá xa vời với thực tế mà lãnh tụ đảng đối lập Miến Điện
Aung San Suu Kyi được phía Mỹ đón tiếp trước chuyến đi Washington của ông Sang
không quá lâu.
Sự chênh biệt lộ liễu như thế lại càng như được gia cố
bởi thái độ quá “hồn nhiên” của Tổng thống Obama trong buổi hai nguyên thủ phát
ngôn với báo chí sau cuộc họp chính thức. Rất ít khi nhìn thẳng vào người đối
thoại và có vẻ còn quan tâm đến người phiên dịch yếu đẳng cấp của mình nhiều
hơn, tâm tưởng của Tổng thống Mỹ như lắng vào một chốn xa xôi nào đó.
Tảng băng Washington cũng bởi thế đang tỏa hơi lạnh giá
của nó vào những cố gắng đầy dụng ý của Hà Nội. Bất chấp nhiều “kiến nghị” của
chính giới Việt Nam từ nhiều năm qua, cuộc gặp Obama - Sang vừa qua đã không có
một thỏa thuận nào về việc Hoa Kỳ bỏ cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt
Nam.
RFI: Nhưng vẫn còn một kết quả mang
tính động viên là Tổng thống Omama hứa sẽ đến thăm Việt Nam. Anh có bình luận
gì về hứa hẹn này so với chuyến thăm Miến Điện của ông Obama vào năm ngoái?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Lời hứa hẹn có tính an ủi duy nhất đến từ Obama chỉ là “sẽ cố gắng” với
một chuyến thăm đáp lễ Việt Nam vào thời gian cuối nhiệm kỳ thứ hai của vị tổng
thống này. Mà nhiệm kỳ của Obama sẽ kết thúc vào đầu năm 2017, tức còn đến gần
4 năm nữa cho “cố gắng” của ông. Nhưng liệu người Việt Nam có đủ kiên nhẫn để
chờ được đến thời điểm đó?
Thời gian 4 năm có thể là quá lâu đối với các chính khách
mang tâm trạng đầy nôn nóng của Việt Nam, nhưng có thể sẽ là đơn giản hơn nếu
nhìn vào một bài học tiền lệ ở Miến Điện – đất nước chỉ bị ngăn cách với Việt
Nam bởi chưa đầy một trăm cây số đường biên giới với Trung Quốc. Chỉ sau hai năm
tiến hành cải cách chính trị và phóng thích tù nhân lương tâm, Miến Điện đã lần
đầu tiên đón tiếp ông Barack Obama tại đất nước nghèo khó vì nạn quân phiệt
thâm niên này. Tiếp theo đó là câu chuyện Câu lạc bộ Paris, Nhật Bản, Na Uy và
Quỹ Tiền tệ Quốc tế xóa nợ đến 6 tỉ USD cho quốc gia này. Và sau đó nữa, làn
sóng đầu tư của nhiều quốc gia trên thế giới dồn dập ập vào Miến Điện, đưa đất
nước này trở thành một tâm điểm thật sự quyến rũ.
Với bài học quá gần gũi từ Miến Điện, tất cả đang nằm
trong tay Hà Nội, nếu họ muốn thế.
RFI: Liệu Hà Nội có thực tâm muốn tạo
ra sự quyến rũ cho mình bằng một động thái thay đổi nào đó, chẳng hạn như nhân
quyền?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Ngay trước cuộc gặp Obama - Sang, chủ đề nhân quyền và dân chủ cho Việt
Nam đã được hối thúc một cách mạnh mẽ bởi nhiều tổ chức và nghị sĩ ở Mỹ. Nhưng
sau cuộc gặp trên, chủ đề này đã được mô tả “vẫn cách biệt, nhưng sẽ thu hẹp”.
Vậy thực chất của vấn đề tranh cãi này là như thế nào?
Dù cho tới nay những tin tức từ phòng họp kín giữa Obama
và Trương Tấn Sang vẫn chưa lọt ra ngoài, và cũng chưa có thông tin nào xác
nhận thái độ dứt khoát của Tổng thống Mỹ đối với việc đặt lên bàn đàm phán điều
kiện nhân quyền ở Việt Nam, nhưng hoạt động hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ ở khu vực
Biển Đông của Việt Nam cũng chưa thấy tăm hơi nào được cụ thể hóa.
Hiểu cách khác, so với thời điểm mở ra Hiệp định thương
mại Việt - Mỹ vào năm 2001 và năm 2006 khi khai thông cơ chế WTO, vào lúc này
người Mỹ đã không còn chấp nhận trả giá cao cho một sự đánh đổi nữa. Không phải
vì lợi ích chiếm lĩnh vị trí quân sự ở Biển Đông trong chiến lược xoay trục
sang Đông Nam Á của mình và triển vọng tiết giảm kinh phí quân sự mà Hoa Kỳ dễ
dàng chấp thuận một sự đổi chác “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai” với
Việt Nam như khẩu hiệu đã hô hào quá nhiều trong dĩ vãng.
Dĩ vãng ấy - lẽ ra cần được Hà Nội bày tỏ lòng chân thành
của mình từ năm 2007, trong chuyến đi Washington của người tiền nhiệm Nguyễn
Minh Triết. Nhưng thật đáng tiếc, Hà Nội đã bỏ mất một cơ hội để biến lời cam
kết thành hành động cụ thể. Những hứa hẹn của họ về vấn đề nhân quyền đã không
còn nằm trong ước vọng và kỳ vọng của giới phản biện dân chủ muốn có đổi mới ở
quốc gia này.
Thay vào đó và kể từ ngày được tham gia vào danh mục WTO
cũng như được loại khỏi danh sách CPC về các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về
nhân quyền và tôn giáo, Việt Nam lại bị phương Tây đánh giá như quốc gia đứng
thứ hai trên thế giới, sau Trung Quốc, có số tù nhân chính trị bị giam cầm đông
nhất. Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế đã thống kê là vào năm 2013, con số này
đã lên đến ít nhất 40 người, bằng cả hai năm 2011 và 2012 cộng lại.
Đường biểu diễn nhân quyền như thế chắc hẳn là lời giải
thích xác đáng cho thái độ băng giá của Washington trong cuộc gặp Obama – Sang
vừa qua.
RFI: Hồi tháng Hai, khi đại sứ Liên
hiệp châu Âu ở Việt Nam gặp riêng một số quan chức Việt về vấn đề nhân quyền,
Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn đã nói: “Chúng tôi hiểu, nhưng hãy
cho chúng tôi thời gian”. Liệu ông Sang cũng có cùng cách nghĩ như thế?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Trong một số trường hợp, ông Sang có thể là người có ứng biến mau lẹ và
có thể thích nghi với ngữ cảnh mới.
Nhiệt kế Hà Nội đang nóng lên một cách bất thường kể từ Hội nghị trung ương 6 vào tháng 10/2012, nhưng lại đang hạ thấp đột ngột sau khi diễn ra Hội nghị trung ương 7 và đặc biệt sau chuyến đi Bắc Kinh của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Nhiệt kế Hà Nội đang nóng lên một cách bất thường kể từ Hội nghị trung ương 6 vào tháng 10/2012, nhưng lại đang hạ thấp đột ngột sau khi diễn ra Hội nghị trung ương 7 và đặc biệt sau chuyến đi Bắc Kinh của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Trong cuộc gặp ở Washington vừa qua, hóa ra cử chỉ có ý
nghĩa nhất lại thuộc về Trương Tấn Sang khi ông trao cho phía Mỹ bản sao của
ông Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry Truman, vào năm 1946 - thời của tình cảm
bất vụ lợi nhất giữa hai nước và Mỹ còn chưa can thiệp vào Việt Nam.
Chiếu theo nội dung này và căn cứ vào ngữ cảnh được tái
hiện của nó trong phòng Bầu dục, người ta có thể suy ra: thay thế cho “người
Pháp” trong bức thư cách đây gần bảy chục năm là nhân vật “người Trung Quốc” ở
thì hiện tại.
Thế nhưng giới phân tích chính trị có vẻ ngạc nhiên về cử
chỉ này. Liệu điều này tượng trưng cho lòng chân thành, nương cậy vào Mỹ,
thuyết phục tình cảm của người Mỹ? Hay đó chỉ là một động tác ngoại giao thuần
túy và vô nghĩa?
Tất cả vẫn đang tùy thuộc vào một thành tâm chính trị nào
đó từ phía Hà Nội. Nếu nhiệt kế của Hà Nội vẫn bất thường như những năm trước
và đặc biệt bất thường trong hai năm qua, không có gì bảo đảm là bản tuyên bố
chung Việt – Mỹ sẽ trở thành cứu cánh cho những nỗ lực của tập thể Bộ Chính trị
và của cả những cá nhân trong đó. Việt Nam sẽ bị mắc kẹt ngay trong thế “cân
bằng chính trị” mà họ đã cố gắng giương ra.
RFI: Phải chăng nền chính trị Việt Nam
đang ở ngã ba đường?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Rất có thể đang và sẽ là ngã ba đường. Không giải quyết được vô số khó
khăn về kinh tế, chính thể cầm quyền ở Việt Nam có nhiều khả năng phải đối mặt
với một cuộc khủng hoảng xã hội toàn diện, rất sâu sắc và đầy biến động khó
lường – điều chưa từng có từ thời điểm năm 1975. Cuộc khủng hoảng đó còn có thể
dẫn tới hệ quả một sự thay đổi về chính trị mà chính Đảng cầm quyền không mong
muốn, trong không bao lâu nữa.
Không làm tan chảy được tảng băng Washington trong bối
cảnh mối đe dọa từ phương Bắc trở nên quá nguy hiểm đối với vận mệnh dân tộc,
chính Đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ phải thúc thủ ở ngã ba đường đối ngoại,
trong khi nội trị hoàn toàn không yên ấm.
Giờ đây, Washington đang trông đợi vào những gì mà Hà Nội
sẽ làm vào những tháng ngày tới.
RFI: Như vậy theo anh Hà Nội có thể làm
gì cho những tháng tới đây?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: “Làm gì?” luôn là một câu hỏi dằng dai và
cũng là là tựa đề một tác phẩm của lãnh tụ vô sản Vladimir Ilitch Lenin vào thời
trước Cách mạng tháng Mười Nga. Cần và phải bắt buộc làm gì để có thể làm tan
chảy tảng băng Washington như vẫn còn nguyên vẹn hình thể?
Và phải bắt đầu từ đâu? Cải cách kinh tế hay cải cách
chính trị? Nếu không có cả hai thứ cải cách này thì phải chăng “thoát Trung” là
một lối thoát khả dĩ?
Hoặc nếu cải cách chính trị không nằm trong từ điển của
chế độ thì liệu TPP cùng nhân quyền có được đưa vào cuốn từ điển đó?
Tất cả đều như móc xích với nhau, và móc xích với sự tồn
vong của Hà Nội.
Cuộc hội kiến ở Washington thật ra không đáng để quá thất
vọng. Người Mỹ đã hé mở cánh cửa, vấn đề là người Việt Nam có đủ tự trọng và
bản lĩnh để bước qua cánh cửa đó hay không.
Bản lĩnh của chính khách Việt lại phụ thuộc phần lớn vào
việc ai sẽ là người dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Theo thói quen của người Việt, tập thể quyết định và cũng là tập thể chịu trách nhiệm, nhưng mọi chuyện cũng vì thế có thể bê trễ hơn nhiều. Còn nếu khác đi, một cá nhân nào đó có thể trở thành nhân tố đột biến để lợi dụng quỹ thời gian còn rất hạn hẹp chăng?
Theo thói quen của người Việt, tập thể quyết định và cũng là tập thể chịu trách nhiệm, nhưng mọi chuyện cũng vì thế có thể bê trễ hơn nhiều. Còn nếu khác đi, một cá nhân nào đó có thể trở thành nhân tố đột biến để lợi dụng quỹ thời gian còn rất hạn hẹp chăng?
Mọi chuyện đang nằm gọn trong tay chính khách Việt, mà
vấn đề của chính khách Việt trong thời gian tới dường như lại tùy thuộc vào
chuyện “ai còn ai mất”.
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng về cuộc trao đổi hôm nay.
làm đẹp tại spa anh thư
ReplyDeletedạy điêu khắc chân mày
spa anh thu
hoc dieu khac chan may
khoa hoc dieu khac chan may
điêu khắc chân mày phong thủy
dieu khac phun xam
lam dep tai anh thu
day dieu khac chan may
khóa học điêu khắc chân mày
viện thẩm mỹ anh thư ở đâu