David
Brown
Lê
Quốc Tuấn dịch Việt ngữ
Mon, 07/08/2013 - 19:47
Theo Mỹ cứu nước, theo Tàu cứu đảng. Câu
nói này được nghe nói ở khắp mọi nơi tại Việt Nam, cô đọng được tình thế tiến
thoái lưỡng nan về địa chính trị đang đối diện với Đảng Cộng sản cầm quyền của
đất nước này.
Bốn mươi năm sau khi người lính Mỹ cuối cùng rời
khỏi Việt Nam, một đảng từng giành được độc lập và thống nhất đất nước đã mất
đi nhiều tính hợp pháp của mình. Dù có tìm trông vào nhân đức của Hồ Chí Minh
và các đồng chí của ông đến bao nhiêu cũng không thể khôi phục được đà phát
triển bình thường của mình, vốn đã băng hoại từ gốc rễ bởi nạn tham nhũng có hệ
thống. Trách nhiệm lớn nhất của chế độ là sự thất bại không thể sửa chữa một
nền kinh tế sút kém. Nhưng đồng thời dư luận cũng khinh bỉ chế độ về khả năng
bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trước Trung Quốc.
Từ quan điểm của một người dân trên đường phố Hà Nội
hoặc Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đã rũ bỏ chiếc áo choàng của "sự trỗi dậy hòa bình"
và trở lại vai trò bắt nạt lịch sử của họ trong khu vực. Những khẳng định nực
cười của Bắc Kinh về vùng biển và tài nguyên khoáng sản của toàn bộ biển Nam
Trung Quốc chỉ là ví dụ nổi bật nhất của sự việc này. Kế hoạch xây dựng một
chuỗi các con đập trên sông Mê Kông trên ở tỉnh Vân Nam và hỗ trợ kế hoạch xây
dựng thêm 11 đập ở khu vực hạ lưu Lào của Trung Quốc đã đe dọa quét sạch nguồn
lũ hàng năm vốn giúp duy trì màu mỡ cho vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt
Nam.
Doanh nghiệp Trung Quốc cũng đang theo đuổi khoáng
sản và các nguồn tài nguyên gỗ của Lào, thách thức quyền bá chủ của Việt Nam ở
trên chính sân sau của mình. Ngay tại Việt Nam, sự gia tăng các đầu tư phát
triển, xây dựng và khai thác quặng mỏ của Trung Quốc, đáng chú ý là dự án
bauxite nhiều tỷ đô la của Chinalco ở Tây Nguyên, đã bị chỉ trích nặng nề. Hàng
hóa giá rẻ và thường là kém chất lượng của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt
Nam, nghiền nát các nhà sản xuất địa phương.
Người dân bình thường trên đường phố muốn chống trả
lại. Họ không hiểu được rằng lực lượng vũ trang của Việt Nam không sánh nổi với
Trung Quốc hay Việt Nam rất dễ tổn thương để bị trả đũa bằng kinh tế. Các nhà
phân tích phương Tây thường cho rằng tính "quyết đoán" của Trung Quốc
là từ sự gia tăng chủ nghĩa ái quốc phổ biến và các cơ quan an ninh quá hăng
say, nhưng đối với người dân Việt Nam bình thường rõ ràng sự gây hấn của Trung
Quốc là được chỉ đạo từ Bắc Kinh.
Điều ấy chẳng có gì mới lạ: chủ đề lớn của lịch sử
dân tộc mà tất cả mọi người từng học trong nhà trường, là cuộc kháng cự chống
ngoại xâm dai dẳng nhưng cuối cùng luôn thành công của người Việt Nam. Và hầu
hết những ngưởi lính tràn qua biên giới Việt Nam trong 2000 năm qua đều là
người Trung Quốc. Do vậy, chẳng có lý do gì lại sẽ là ai khác trong thời gian này.
Cuộc
hợp tác đầy gai góc
Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ chung một biên giới
1.350 km và nhiều hơn thế nữa. Cả hai nước đều là những quốc gia theo chủ nghĩa
Lênin với một nền văn hóa chính trị được hình thành bởi những ý tưởng tân Nho
giáo của một hệ thống công trạng dựa trên các mối quan hệ được chăm sóc tốt.
Đảng Cộng sản cầm quyền của họ đã thoát chết bằng
cách từ bỏ kinh tế chủ nghĩa Mác trong khi nuôi dưỡng một bộ máy an ninh nhà
nước rộng khắp. "Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" của
họ cho phép thị trường tự do sôi động được tồn tại cùng với hàng ngàn doanh
nghiệp nhà nước thống trị ngành công nghiệp nặng.
Cả Bắc Kinh và Hà Nội đang bị dày vò bởi những lời
chỉ trích thường trực của giới bất đồng chính kiến trên internet. Các yếu tố
văn hóa và chính trị cùng chia sẻ chung này củng cố một mạng lưới tham vấn giữa
hai đảng và nhà nước nhằm mục đích duy trì sự hợp tác giữa hai chế độ.
Tuy nhiên, mối quan hệ hai nước thường là gai góc.
Trung Quốc với sức nặng địa chính trị và kinh tế lớn hơn nhiều đồng nghĩa
với mối quan hệ bất cân xứng với Việt Nam về cơ bản. Mỗi khi người Trung Quốc
nhắc đến Việt Nam, họ thường coi đất nước này như là một tỉnh nhỏ ngang bướng
từng vuột khỏi sự kiểm soát của mình.
Ngược lại, 90 triệu dân của Việt Nam luôn luôn không
thoải mái trong nhận thức về người hàng xóm phía bắc của họ, những người
có dân số đông gấp 15 lần hơn và có nền kinh tế lớn 50 lần hơn. Tuy
nhiên, khi lãnh thổ bị đe dọa, người dân Vìệt Nam chưa hề cúi đầu trước Bắc
Kinh. Trừ Hồ Chí Minh, các anh hùng vĩ đại nhất của đất nước này đã từng buộc
hết đế chế này qua đến chế khác của Trung Quốc xâm lược phải rút lui. Gần đây
nhất là năm 1979, khoảng 20.000 binh sĩ Trung Quốc đã bỏ mạng khi Đặng Tiểu
Bình tìm cách "dạy cho Việt Nam một bài học" vì lật đổ chủ nghĩa Mao
bảo trợ của Bắc Kinh ở Campuchia và xây dựng một liên minh với Liên Xô.
Đến giữa những năm 1990, Trung Quốc và Việt Nam đã
lủi trốn vào trong một mối quan hệ tương đối an toàn dễ chịu. Cả hai nước đều
đã bận rộn với những cải cách kinh tế nội bộ. Liên Xô đã tan rã và Trung Quốc
quảng cáo cuộc "trỗi dậy hòa bình" của mình với Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), mà hiện nay bao gồm Việt Nam.
Thương mại song phương được mở rộng, đã có thảo luận
về nâng cấp "hành lang thương mại" từ các khu vực hiểm trở ở phía tây
nam Trung Quốc đến các cửa cảng Việt Nam, và các cuộc đàm phán phân định biên
giới đất liền đã tiến triển tốt. Thậm chí những tuyên bố đối nghịch về quyền sở
hữu của các rạn san hô, đá và bãi cát ngầm của Biển Đông, nếu chưa có được cách
giải quyết cũng đã được thu xếp tốt.
Tuy nhiên, đến năm 2009, tất cả đã thay đổi. Dù
nguyên nhân từ sự cố tình hoặc rủi ro chẳng may về ngoại giao, Trung Quốc không
bằng lòng xếp lại những yêu sách chồng chéo nữa. Trong tháng Năm năm đó, Trung
Quốc đã đưa ra một bản đồ bất chính tại Liên Hiệp Quốc tuyên bố "chủ quyền
không thể tranh cãi" trên 80 phần trăm của Biển Đông.
Căng thẳng gia tăng mạnh ngay sau đó, lôi kéo cả
những quốc gia không ở trong không khu vực - gồm cả Hoa Kỳ - và thách thức mối
đến gắn kết của ASEAN. Việt Nam và Philippines đã chịu đựng gánh nặng từ các nỗ
lực, vận động tạo ra "sự kiện" - dù không phù hợp với luật pháp quốc
tế nhưng lại rất khó bác bỏ của Trung Quốc. Niềm đam mê chủ nghĩa dân tộc đang
sục sôi trong tất cả ba quốc gia, đe dọa cuộc xung đột vũ trang trên biển.
Chính sách trì hoãn với Trung Quốc của Hà Nội bị phá huỷ tan nát.
Nhiều tầng lớp ưu tú ngoài đảng của Việt Nam, cũng
như bản thân một số trong đảng, tin rằng giải pháp là phải tìm kiếm một liên
minh kinh tế và quân sự trên thực tế với Mỹ. Tuy nhiên, các thành viên cao cấp
của đảng vẫn còn rất hoài nghi về ý định của Mỹ, xem mình như bị khóa chặt
trong một cuộc xung đột hiện hữu với chủ nghĩa tự do phương Tây, chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa đế quốc. Họ đã chỉ nhượng bộ để cải cách nhằm thiết lập năng
lực cạnh tranh về kinh tế toàn cầu của quốc gia và để khiến Hoa Kỳ phải tham dự
vào như một đối trọng với Trung Quốc.
Các đảng viên thế lực làm ngơ đòi hỏi cho phép Việt
Nam tự do dân chủ hơn của Mỹ vì sợ rằng mục tiêu thực sự của Washington là để
triệt hạ chế độ Cộng sản. Đối với tất cả các xích mích gần đây, họ không tin
rằng nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ phản bội một Đảng Cộng sản cầm quyền giống như
của chính họ.
Vẫn
chực muốn ăn không
Sự thật, ngày nay Trung Quốc không quan tâm gì nhiều
về việc giúp đỡ người bạn Cộng Sản của mình bám lấy quyền lực hơn là việc khai
thác tài nguyên trong khu vực và mở rộng các vòi hút kinh tế. Với một một hầu
bao đầy tín dụng xuất khẩu và hội đủ điều kiện vay vốn ưu đãi từ các ngân hàng
nhà nước, các công ty Trung Quốc đã trở thành đối thủ lớn trong phát triển cơ
sở hạ tầng tại Việt Nam, đặc biệt là trong xây dựng các nhà máy nhiệt điện.
Nhìn chung, các công ty Trung Quốc không o ép các
nhà thầu Việt Nam nhưng là dành lấy công việc làm ăn từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa
Kỳ hoặc đối thủ cạnh tranh châu Âu bằng cách nhập cuộc đấu thầu giá rẻ. Nhưng
các nhà phê bình cáo buộc doanh nghiệp Trung Quốc sử dụng người đồng hương của
họ và sản xuất hàng chất lượng thấp, thường xuyên lỡ thời hạn và chi phí quá
mức. An ninh Việt Nam còn tiếp tục khẳng định sự phụ thuộc vào nhà thầu Trung
Quốc trong các lĩnh vực chiến lược như năng lượng sẽ làm suy yếu an ninh quốc
gia.
Một bất đồng khác là thâm hụt thương mại gia tăng
của Việt Nam với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của nó, mà nhà kinh tế
Trần Văn Thọ gọi là một "cơn sóng thần công nghiệp." Thương mại của
Việt Nam với chín nước ASEAN khác và với Nhật Bản là tương đối cân bằng và có
một thặng dư rất lớn với Liên minh châu Âu và Mỹ. Nhưng với Trung Quốc mức thâm
hụt 16,4 tỷ USD trong năm 2012 đã giúp Trung Quốc có thặng dư thương mại song
phương đến 40 phần trăm.
Phần lớn hàng xuất khẩu của Trung Quốc là các sản
phẩm lắp ráp trong nhà máy chế biến xuất khẩu của Việt Nam: vải vóc, dây kéo,
nút, dây điện, bảng mạch và vật dụng các loại. Nhưng Trung Quốc cũng cung cấp
những mặt hàng đắt hơn - các máy móc trang bị cho các nhà máy của Việt Nam và
xây dựng cơ sở hạ tầng.
Một mặt hàng thứ ba và rất rõ ràng là hàng tiêu dùng
giá rẻ để cạnh tranh với nội địa. Báo chí Việt Nam thường xuyên đăng tải những
câu chuyện về việc Trung Quốc thải hàng nguy hiểm hoặc chất lượng kém, và động
thái khiêu khích của Bắc Kinh ở Biển Đông dẫn đến hậu quả có tính phản xạ là
kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc.
Nếu không thế, theo dự đoán của các nhà kinh tế, lẽ
ra hiện nay Việt Nam đã phải ăn bữa trưa của tỉnh Quảng Đông. Với chi phí lao
động thấp hơn nhiều, Việt Nam là điểm đến hợp lý cho các nhà máy từ các trung
tâm xuất khẩu, giải quyết di cư của người Trung Quốc đến vùng có chi phí rẻ
hơn. Các mặt hàng may mặc đa dạng và các ngành công nghiệp giày dép từ lâu đã
chiếm khoảng 20 phần trăm xuất khẩu của Việt Nam, vốn bắt đầu từ những năm 1990
khi hàng may mặc và giày dép xuất khẩu của Trung Quốc bị giới hạn dưới hạn
ngạch của EU và của Mỹ.
Dù lao động vẫn còn thấp, tiền lương thực tế đã chỉ
tăng ở mức 10 phần trăm một năm trong 2006-11 chủ yếu là Việt Nam đã thất bại
trong việc thu hút các nhà sản xuất ra khỏi các căn cứ của họ ở Trung Quốc. Khi chi phí lao động tiếp tục tăng lên ở cả Trung Quốc và Việt Nam,
các nhà máy sản xuất đang di chuyển sang Campuchia, Bangladesh và thậm chí cả
Myanmar.
Đấy chẳng phải là tất cả các tin xấu. Khi nền kinh
tế toàn cầu phục hồi chậm, một lần nữa, khu vực đầu tư nước ngoài của Việt Nam
lại đang tăng lên. Thay vì di chuyển nhà máy khỏi Trung Quốc, một số nhà thầu
đa quốc gia đã đa dạng hóa cơ sở sản xuất của họ bằng cách mở thêm các nhà máy
tại Việt Nam. Bằng chứng cho thấy một xu hướng rõ rệt các khoản đầu tư chất lượng
cao hơn, vốn hưởng lợi từ việc được giảm thuế đáng kể.
Các công ty thành lập hoặc mở rộng nhà máy lắp ráp
bao gồm những thương hiệu như Canon, Samsung, Intel và IBM, Hitachi, Panasonic
và Nokia. Tuy nhiên, gần như tất cả các yếu tố đầu vào để sản xuất hàng xuất
khẩu của Việt Nam phải được nhập khẩu, một số từ Trung Quốc. Còn lại tất cả
những gì được thêm vào ở Việt Nam, thông thường, là lao động - lại là thứ mà
Trung Quốc có thể làm một cái gì đó hiệu quả hơn và trên một quy mô lớn hơn
nhiều.
Sai
lầm chiến lược toàn diện
Năm 2008 đóng lại một giai đoạn ấm áp hơn trong mối
quan hệ, lãnh đạo đảng Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và người đồng cấp Việt Nam, Nông
Đức Mạnh, tuyên bố một mối quan hệ song phương "hợp tác chiến lược toàn
diện." Và nếu Trung Quốc thực sự quan tâm đến việc nuôi dưỡng một mối quan
hệ đặc biệt với Việt Nam - để qua đó tăng cường cơ bắp ngoại giao của mình ở
Đông Nam Á - thì Bắc Kinh đang ở trong một vị trí có thể giúp hình thành được
như thế.
Mặc dù nhà cầm quyền Việt Nam thừa nhận không lo lắng
về sự mất cân bằng thương mại song phương, thực tế vẫn là một quan hệ chính trị
mãn tính. Trung Quốc nhập khẩu nhiều cao su, than, dầu, gỗ và sản phẩm nông
nghiệp, nhưng không quan tâm đến hàng hóa công nghiệp của Việt Nam. Trung Quốc
thực chẳng tốn kém bao nhiêu trong các động thái thân hữu giúp thúc đẩy nhập
khẩu công nghiệp trong khi sẽ là những tin rất tốt cho phía Hà Nội.
Nói cho cùng, một đề nghị chân thành nhằm phát triển
chung tài nguyên khoáng sản và cùng quản lý nguồn cá trong khu vực tranh chấp ở
Biển Đông có thể là một sự thay đổi cuộc chơi - cả cho mối quan hệ với Việt Nam
và với các nước ASEAN.
Tuy nhiên, thực tế là mối quan hệ giữa Bắc Kinh và
Hà Nội đã trở thành bất ổn và nguy hiểm kể từ cuộc thỏa thuận vào năm 2008. Áp
lực của Trung Quốc về các vấn đề chính trị và chiến lược đã dồn cứng các
nhà lãnh đạo của Việt Nam, được cho là đe dọa đến sự sống còn của họ. Bắc
Kinh đã củng cố vị thế của mình trong chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc bằng cách
phô trương sức mạnh của mình ở Biển Đông, trong khi nỗ lực chống lại hành động
khiêu khích của Trung Quốc nhưng không hiệu quả của Hà Nội liên tục xói mòn vị
thế của mình giữa những người ái quốc ở trong nước.
Trừ khi xảy ra xung đột vũ trang, rất khó để tưởng
tượng hơn về những gì Trung Quốc có thể làm để đẩy nhanh sự sụp đổ một chế độ
"thị trường xã hội chủ nghĩa" khác trên thế giới, lẽ ra là người bạn,
đồng minh ý thức hệ của mình. Trong tất cả các khả năng, điều này sẽ mang đến
các nhà lãnh đạo mới tìm kiếm gây thiện cảm với Mỹ - một kết quả hoàn toàn tự
chuốc lấy thất bại cho phía Bắc kinh.
Đáng lo ngại hơn là một cuộc xung đột vũ trang vẫn
còn khả năng xảy ra. Trung Quốc có hỏa lực lớn hơn Việt Nam, nhưng Hà Nội đang
gia tăng các khả năng quốc phòng trên biển và trên không. Nếu bị dồn vào chân
tường, lịch sử cho thấy rằng người Việt Nam sẽ đánh lại. Một tính toán sai lầm
của cả hai bên sẽ có thể dẫn đến một cuộc đụng độ. Va chạm này sẽ khốc liệt và
đẫm máu với những hậu quả không thể đoán trước. Trung Quốc có thể tiếp tục chơi
trò bắt nạt - nhưng họ đang chơi với lửa.
Nguồn:
Asia
Sentinel
No comments:
Post a Comment