Trong
giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay, đảng cộng sản tiếp tục gây nên nhiều tội ác
cho dân tộc Việt Nam chúng tôi. Cụ thể là sau năm 1975 khi cưỡng chiếm bất hợp
pháp nước VNCH thì đảng cộng sản Việt Nam đã gây nên việc:
- Cướp tài sản của nhân dân Miền Nam thông qua chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản.
-
Đẩy hàng trăm ngàn người phải ra biển gây nên nạn thuyền nhân nổi tiếng và đau
thương cho dân tộc Việt Nam.
-
Đàn áp tôn giáo, cướp đất đai của nhân dân.
I. Trả thù man rợ quân dân, cán chính VNCH:
Kính
thưa quý vị!
Ngay sau khi cướp được VNCH thì việc đầu tiên là nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành chính sách nhà tù hà khắc để tiêu diệt những người làm việc cho chính quyền VNCH hoặc thân nhân của họ. Đây là một trong những tội ác không thể bỏ qua vì nó là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Tòa Án Hình Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).
Trên
thực tế, những ai là quân dân, cán chính Việt Nam cộng hòa sau khi bị bị cộng
sản đưa vào tù đều thấy điều này. Ngoài ra, gia đình họ bị cộng sản bức hại đi
lên vùng kinh tế mới, con em bị ghi lý lịch xấu, nhà của bị tịch thu là những
nỗi thống khổ của những quân dân cán chính VNCH.
1.
Cả nước Việt Nam là một trại tù khổng lồ:
Ngày
1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ
sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị”, theo
đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Điều 6
của hiệp ước này nói rõ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ
dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết lòng viện trợ cho
Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam
sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Đà Nẵng làm đầu cầu quân
sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng
Thái Bình Dương. Trong cuộcgăp với Brezhnev, ngoài báo cáo tình hình quan hệ
với Trung cộng, CamPuchia thì Lê Duẩn đã báo cáo: “Cơ bản tình hình trong
nước chúng tôi đã ổn định do tôi và các đồng chí trong bộ chính trị không để
cho ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng mô hình nhà tù như
thời đồng chí Xtalin. Chúng tôi chỉ lo lắng làCampuchia đang leo thang khủng
bố…” (Trích: "Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên Xô trang 422”).
Vậy
không ai khác mà chính Lê Duẩn cùng cộng sản Việt Nam đã đẩy quân dân cán chính
VNCH vào lao tù khắc nghiệt.Và thực tế diễn ra thế nào, xin quý vị theo dõi
những luận chứng dưới đây.
Thứ
nhất, ngày
Thứ Hai, 23/7/2007, Website của The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto
đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ
biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận
rằng: “Ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân
cán chính VNCH vào tù vô thời hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong
ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam kể cả
những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa
Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người
đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi
người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm.”
Đây
là một tội ác hình sự mang tính lịch sử của đảng cộng sản cộng sản và những
người đứng đầu đảng cộng sản. Nó xứng đáng được gửi tới quý vị như là một tội
ác tiêu biểu của cộng sản Việt Nam.
Cũng
theo cuộc điều tra nói trên cho biết: “Cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có
một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể
trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao
động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay,
hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi,
không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi
các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích
người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm
nay mà thủ phạm là Lê Duẩn…”.
Thứ
hai, trong
tập tài liệu ghi bí số TN/QP-14 được lưu chiểu ngày 14/02/1977 tại cục lưu trữ
Bộ Quốc Phòng Cộng sản ghi rõ như sau tại trang số 6: "Tổng số tù nhân
tham gia học tập cải tạo để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài Gòn đầu
hàng là 1.321.506 người. Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và
già yếu trả về với gia đình, bộ quốc phòng giao lại cho bộ nội vụ quản lý là
1.236.569 người".
Qua
tài liệu nói trên của nhà nước cộng sản nói lên điều gì? Đó là họ đã coi những
quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa là những “Tù nhân”. Trên thực tế, họ không
phải là tù nhân vì theo như cộng sản tuyên truyền họ chỉ đi học tập chủ trương
đường lối của “cách mạng”. Nhưng chính tài liệu của cộng sản đã coi họ là tù
nhân.
Ngoài
ra con số người mà đảng cộng sản cho biết chính là con số nói lên thực tế về
trại tù khổng lồ mà cộng sản cùng Lê Duẩn bày ra nhằm trả thù quân dân cán
chính VNCH.
Thứ
ba, theo
tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo
thực sự đều là tùchính trị như sau: “Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân
gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là hạ
sỹ quan và binh sĩ. Binh sĩ VNCH bị bắt đi cải tạo sau ngày 30 tháng 4,
1975.AFP/Getty Images – Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù
cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam. – Đại tá có
600, bị tù 366. – Trung tá có 2.500, bị tù 1.700. – Thiếu tá có 6.500, bị tù
5.500. – Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân
cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền. Đây là con số ghi nhận
được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không có tài liệu của các trại giam
phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù cải tạo bị chết
trong khi giam cầm”.
Như
vậy, mặc dù do thất lạc khi rút bỏ Miền Nam, cộng với những thống kê những
người chết do cộng sản đạo đày trong tù thì những con số mà Viện Bảo tàng cũng
cho thấy cộng sản đã biến cả nước Việt Nam thành một địa ngục tù ngục trong
chính sách trả thù man rợ của mình đối với những ai liên quan đến VNCH.
Thứ
tư, để
thừa nhận thêm về chính sách bỏ tù quân dân cán chính VNCH, cũng cần phải nhắc
lại đảng cộng sản Việt Nam chủ trương theo chủ nghĩa cộng sản độc tài của Liên
Xô và Trung Cộng. Hồ Chí Minh khi đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam chủ
trương làm tay sai cho quốc tế thứ 3 (Xin xem thêm “Những sự thật không thể
chối bỏ" phần 4,10,11,12) và làm con tốt thí trong tay sai Liên Xô. Những
tư tưởng của Lê Nin đã được Hồ Chí Minh truyền thụ cho đàn em của mình trong
việc trả thù những ai bất đồng chính kiến, trong trường hợp này là quân dân
quán chính VNCH. Vì vậy nhìn lại Việt Nam sau năm 1975 như một trại tù khổng lồ
của cộng sản không có gì là điều lạ lùng. Hãy đọc cuốn “Lê Nin và Xã hội chủ
nghĩa” xuất bản tại Liên Xô dày 820 trang, tại trang 233 có viết:
"Chiếm
được một tỉnh, giải phóng được một nước thì dễ nhưng giữ yên được đất nước, địa
phương ấy mới là khó. Muốn vậy sau khi chiếm được lãnh thổ, trước hết phải tập
trung giam giữ lâu dài bọn phản động, thành phần làm việc cho chế độ cũ, chỉ
khi nào ổn định được xã hội, nắm vững tình hình an ninh nội chính mới thả chúng
về”.
Và
cũng là sư phụ của Hồ Chí Minh cũng như Lê Duẩn sau này không quên nói thêm: "Bọn
này gồm những tên đầu đường xó chợ, đói khát rách rưới, Vô sản lưu manh rất
nguy hiểm, chúng là kẻ thù số một của chuyên chính vô sản vì dễ bị bọn phản
động mua chuộc, chúng cần bị giam giữ, loại trừ” (Trích cuốn “Lê Nin tuyển
tập và Bản tuyên ngôn đảng cộng sản” có nói về Vô sản lưu manh).
Qua
đây quý vị có thể thấy, việc cộng sản Việt Nam học tập tư tưởng của Lê Nin nhằm
trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa cũng là điều hết sức thường
tình đối với bản chất của cộng sản.
2.
Trả thù man rợ:
Từ
sau năm 1975 đến nay, nhà nước cộng sản Việt Nam, đã thi hành chính sách bắt
những người là quân dân cán chính đi cải tại các trại tập trung. Thực chất là
đi tù. Khi ra khỏi trại thành kẻ tứ cố vô thân. Rồi chính sách cải tạo công
thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng phải vượt biên... Rồi trấn áp, bắt
bớ người vượt biên. Một số địa phương ven biển còn lợi dụng “bắt vượt biên” để
trấn vàng, trấn của… Những thương phế binh VNCH thì bị đẩy ra lề đường.
Để
nói lên thực tế này, ngay một tờ báo cộng sản đã phải thừa nhận sự thật này.
Xin trích dẫn đến bạn đọc đoạn viết trên Tuần Vietnamnet: "Anh tên Ngô
Công Vò, quê xã Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế, đi lính cho chế độ Sài
Gòn năm 1970… So với nhiều anh em lính chế độ cũ, tôi còn may mắn hơn nhiều.
Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em thương binh phía Bắc còn có chế độ, chứ
chúng tôi chẳng có gì, làm việc quần quật mà chẳng đủ nuôi vợ con. Công việc
của gia đình anh Vò chủ yếu làm ruộng, và ai thuê gì làm nấy. Công việc khá
thường xuyên của anh là lấy đất thải san ủi nền nhà, và cả tháo gỡ những quả
bom mìn còn sót lại trong vùng đem bán. Công việc vất vả, mạo hiểm đủ để tùng
tiệm cuộc sống”. (Links của bài báo: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-04-27-hoa-hop-dan-toc-va-su-hoi-sinh-tu-noi-dau).
Còn
đối với những người bị giam trong tù thì ra sao? Xin điểm lại một số chứng cứ
để thấy cộng sản đã đối xử với quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa như thế
nào.
Trên
thực tế,quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa được thông báo: “Công chức
trung ương từ Chánh sở, địa phương từ trưởng ty, phó quận cho tới Tổng thống;
sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở lên; các thành phần đảng phái, nhân viên tình
báo ra trình diện học tập tại trường Gia Long…, mang theo quần áo, lương thực..
đủ dùng trong một tháng”.
Khoảng
hơn một năm sau ngày nhập trại, bộ nội vụ bèn gom tù lại, ra Chính sách 12
điểm, tất cả học viên thành tù hết, án phạt ba năm… do Công an quản lý, đối xử
hà khắc, bắt lao động cực nhọc, giai đoạn này cho ăn đói, mỗi bữa chỉ có vài củ
khoai và một hai bát bo bo… rồi nhiều người bị đẩy ra những trại tù ở miền Bắc
như: Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời, Thanh Hóa, Hà Nam Ninh…
Những
người bị giam ở trong nam thì còn đỡ khổ vì có gia đình thăm nuôi vả lại miền
nam khá hơn miền Bắc, những người bị đưa ra Bắc vô cùng thê thảm, đói khát,
lạnh lẽo, bệnh tật, làm việc quá sức.. nhiều người chết bỏ xác miền Bắc hoặc
hóa ra thân tàn ma dại. Sĩ quan cấp thiếu úy, những người quá trình nhẹ hoặc có
thân nhân là cán bộ bảo lãnh phần nhiều được về trong vòng ba năm, cấp trung úy
hoặc ty sở trưởng, những người có liên hệ an ninh tình báo thường là được về
sau 5 hay 6 năm... Trong thời gian đó, cộng sản hành hạ quân dân cán chính VNCH
hết sức tàn tệ:
Thứ
nhất, sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm
máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng cộng sản đã nghĩ ra một
giải pháp thâm độc và tránh được sự lên án của Quốc tế đó là giam cầm và hành
hạ quân dân cán chính VNCH. Quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã được khuyến dụ
trình diện để “học tập” ngắn hạn. Gọi là “tìm hiểu đường lối, chính sách của
nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền mới
hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ
đất nước.
Nhưng
thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều
người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít.
Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về
đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy.
Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình.
“Rồi
mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn
phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xảy ra, đã khắc xâu vào tâm
khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!”, (Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 152.).
Người
tù bất khuất Tạ Tỵ đã mô tả cảnh đói khát trong nhà tù cộng sản hết sức kinh
khủng vì có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù.
Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.
“Đã
hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8
tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi
cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi
chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm
nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ
chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế
chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột”, (Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378-
379.).
Thứ
hai, cũng cần nhắc qua cuốn Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh để thấy sự tàn tệ của
nhà tù cộng sản đối với quân dân cán chính VNCH như thế nào. Hình ảnh cánh binh
cộng sản bắt phạt tù nhân “ngụy” được mô tả như sau: “Nói đến sùi bọt mép mà
thấy nét mặt của mười thằng “ngụy” vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá
hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau
chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến đùng
một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản
giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc
Sinh, trang 116).
Tác
giả Hà Thúc Sinh cũng không quên mô tả tình trạng thiếu thuốc men và y tế của
cộng sản đối xử với quân dân cán chính VNCH: “Mặt đứa nào đứa nấy trông như
những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm vì bị phù do thiếu chất, cứ như
những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo
gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng
trầm kha...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, tr. 251.).
Thứ
ba,
cũng có rất nhiều tác giả khác đã từng ngồi tù cộng sản bằng mỹ từ “học tập cải
tạo” đã viết lên những khốn khổ trong tù cộng sản mà trong khuôn khổ bài này
tôi không thể kể xiết. Xin điểm lại một số điểm chính để bạn đọc thấy rõ bản
chất tàn bạo của cộng sản.
Ông
Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH. Tốt
nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khóa 51-53 trường Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân
luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại học Luật khoa Sài Gòn (1963), thẩm phán Tòa
Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm Tòa Án Đặc Biệt (1966-1968), Cố vấn ngoại giao
tại Paris(1968-1974), Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975), Sau năm
1975, ông bị đưa đi tù cải tạo (1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland,
Hoa Kỳ từ năm 1990. Ông từng là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa
Thịnh Đốn, nguyên Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, nguyên
Chủ Tịch Cộng Đồng VN vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông còn viết nhiều bài
khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng rãi có viết:
“Tại
trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng
Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi
rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi
ngày phải đi ba chuyến mà chỉ được ăn có 4 chén cơm với vài cọng rau muống luộc
thì sức nào chiụ nổi. Nếu đội nào không đi xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng
đẵn luồng vác về cho cán bộ làm nhà. Những người lao động ở trại cưa, trại mộc
cũng không sung sướng gì hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn, cưa sẻ
liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng
khoai ngô mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà nhân công thì thưa thớt. Ấy là chưa
kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy xương sườn và chốc lở sương vai. Sức
người có hạn còn nhu cầu của trại thì mỗi ngày một tăng thêm. Bên cạnh những
cái chết vì tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây
luồng đâm thủng bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện những cái chết vì đói, vì
thiểu lực. Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, vì chết
đói, đã chật cả một phần đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư và trước mắt
mọi người cái chết đã trở thành quen thuộc, không gây sợ hãi và cũng không gây
xúc động. Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát”.
Tác giả Nguyễn Chí Thiệp trong cuốn "trại kiên giam nổi tiếng của mình thì viết: “Tiêu chuẩn người phạm kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu. Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ. Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó”. (Nguyễn Chí Thiện - Trại Tù Kiên Giam, trang 35).
Hoặc:
“Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt
giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở
hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình
căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải
dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới
chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp
thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng
húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh”, (Trại Tù Kiên Giam - Nguyễn Chí
Thiện, tr 473).
Thứ
tư, trên thực tế còn rất nhiều bằng chứng từ chính những người bị cộng sản trả
thù man rợ. Nhưng còn phe cộng sản nói gì về điều này? Xin giới thiệu cuốn sách
“365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại
Việt Nam đã được giải mật năm 2008 (Đã giới thiệu ở “Những sự thật cần phải
biết” phần 5) cho biết tại trang 75 như sau: “Những hình phạt của đảng cộng
sản Việt Nam giành cho tù nhân chế độ Sài Gòn đã cho thấy những người anh em
của chúng ta đã không quên phương pháp mà Xtalin áp dụng...”.
Cuốn
sách này còn nói thêm tại trang 82: “Trong một điều kiện khó khăn và kỷ luật
hà khắc, chính quyền mới tại nước Việt Nam thống nhất đã thanh lọc rất tốt tư
tưởng của những người đi theo Mỹ…”.
Như
vậy, ở đây ta có thể thấy, cuốn sách đã chỉ rõ cộng sản Việt Nam học tập phương
pháp tàn bạo của kẻ giết người hàng loạt đó Xtalin. Và cuốn sách nhắc đến cum
từ “Kỷ luật hà khắc” cho thấy bản chất bạo tàn của cộng sản trong đó có cộng
sản Việt Nam áp dụng đối với quân dân cán chính VNCH.
Thứ
năm,
Hãy đọc thêm một trang hồi ký của blogger có tên Đề Lô Cao Cấp – một cựu quân
nhân VNCH đi cải tạo để thấy sự hành hạ của cộng sản đối với quân dân cán chính
VNCH như thế nào: “Chúng đã tỏ ra tàn-ác cực-cùng khi chúng bắt-buộc chúng
tôi lao-động nặng-nhọc, nhưng chúng lại cho chúng tôi ăn không đủ no!
Thông-thường một người Việt-Nam ăn 3 hoặc 4 chén cơm trong một bữa ăn; nhưng
người cộng-sản chỉ cho chúng tôi ăn một chén, đôi khi chỉ còn có 3/4 chén
bo-bo, hoặc bắp cho mỗi bữa ăn. Nếu ai bị biệt-giam thì còn thê-thảm hơn nữa!!!
(Tôi nhớ khi bị biệt-giam; vì bữa ăn quá ít, nếu ăn nhanh sẽ bị mau hết, nên
tôi đếm từng hột bắp bung một và nhai hột bắp ấy cho thật nhuyễn rồi mới nuốt
để cho bữa ăn được kéo dài thêm ra. Hôm ấy tôi đã đếm được số bắp bung trong
phần ăn của tôi là 72 hột). Chúng tôi không được ăn thịt hoặc cá mà chỉ có nước
muối để ăn với bo-bo mà thôi. Riêng cá-nhân tôi hầu như không được ăn cơm khi
còn bị nhốt ở trong trại cải-tạo; vì mỗi năm chúng tôi chỉ được ăn cơm vào
những ngày sau đây: 3 ngày Tết Nguyên-Đán, ngày Tết Tây, ngày 1-5, ngày 2-9
hàng năm, còn tất cả những ngày còn lại thì ăn khoai mì khô, khoai lang khô,
bắp bung, bo-bo v..v...Tất cả chúng tôi đều bị đói triền-miên. Chúng tôi
chịu-đựng cái đói từng giây một, chứ đừng nói từng phút một!! Chúng tôi không
bao giờ biết no là gì khi ở trong trại tù. Ở trong tù tôi thường ước mơ được ăn
một chén cơm trắng với nước mắm mà không được!!!”.
(Bạn
đọc có thể đọc thêm tại đây: http://dlcc0.tripod.com/hanhha.htm).
Một
tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH
ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu
quân dân, cán chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi "học tập
cải tạo,"thực chất là đưa đi tù để trả thù. Cộng sản ước tính rằng tại
Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, và mỗi gia đình có 5 người, như vậy là có 6,500,000 người có
nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền
thì phải đi "cải tạo" và những thành phần còn lại trong gia đình thì
phải đi những "khu kinh tế mới;" cũng là một cách đưa đi đầy ải tại
những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch man rợ và thâm độc đã
được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của cộng sản.
Trong
các trại tù, người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng
khoai, trồng rau… để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hóa, sản
phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên
Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù
mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để
sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người
tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị
trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ
khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động thay vì
mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và
là một Tội Ác chống Loài Người.
II. Cướp bóc và đẩy hàng triệu thuyền nhân ra biển:
Kính
thưa quý vị!
Ngay sau khi cướp được Miền Nam Việt Nam, cùng với chinh sách cải tạo man rợ, chính quyền cộng sản còn tiến hành việc Cướp tài sản của nhân dân Miền Nam thông qua chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản. Đẩy hàng trăm ngàn người phải ra biển gây nên nạn thuyền nhân nổi tiếng và đau thương cho dân tộc Việt Nam.
1. Cướp
đoạt tài sản:
Để
cướp đoạt tài sản và tiền của thì đảng cộng sản đã tiến hành chính sách đánh tư
bản, đổi tiền và tịch thu tài sản của nhân dân dưới mỹ từ “đánh gian thương”,
“tiểu tư sản”. Hậu quả đó là hàng triệu người bị cướp nhà giao cho cán bộ, bị
mất cơ nghiệp và bị đẩy đi kinh tế mới. Kết quả X-2 và X-3, với “công lao to
lớn” của Đỗ Mười, Mai Chí Thọ... thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần
1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe
hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu
chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải. Xin quý
vị theo dõi những chứng cứ dưới đây để thấy được sự thật này.
Thứ
nhất,
Trong cuốn sách “Bên thắng cuộc” của tác giả Huy Đức có đề cập đên chiến dịch
cướp bóc này. Tác giả Huy Đức đã viết ở Chương iii – Đánh tư sản như sau: “Sau
khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình,
còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi
chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh
đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền
Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai
lần bị “đánh”.
“Chiến
dịch X-2”
Vào
lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp
báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam
Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ
tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải
vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung
cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê…”117.
Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên
đánh đợt đầu đã bị bắt.
Rồi
cũng chính Huy Đức – một cựu nhà báo cộng sản cho biết thêm: “Tối 10-9-1975,
“tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng
tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra
những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho”
kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu
hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu
cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để
buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư
sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.”.
Ngoài
bắt bớ ra, nhà cầm quyền cộng sản còn tiến hành chính sách đổi tiền để vơ vét
tiền vào túi dưới hình thức:cướp trắng. Tác giả Huy Đức mô tả sự kiện đổi tiển
như sau:” Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị
cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng
kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122.
Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng
tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.
Đổi
tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung ương
Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn chặn
giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt
bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123.
Với nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”,
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền
hạn chế.
Mỗi
hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ”- 500
đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng Việt
Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi người
15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi 100.000
đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng; khách vãng
lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai
về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền
hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ
tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.”.
Song
song với đánh tư sản và đổi tiền, chính quyền cộng sản còn áp dụng biện pháp
“Cải tạo công thương nghiệp tư doanh” mà tác giả Huy Đức Miêu tả như sau:” Nếu
như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất miền
Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai năm
rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là
“Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển
khai với “bàn tay sắt”.”.
(Quý vị có thể tìm hiểu trong cuốn “Bên thắng cuộc” của Huy Đức hoặc xem tại links sau đây:
http://chauxuannguyen.org/2012/12/15/ben-thang-cuoc-phan-i-mien-nam-chuong-iii-danh-tu-san-huy-duc/).
Thứ
hai,
Trong lịch sử thì sự kiện vơ vét tiền của nhân dân sau năm 1975 ở Việt Nam
không phải là lần đầu tiên. Lần đầu tiên phải là cuộc cải cách ruộng đất vì
theo Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn “Lịch sử
kinh tế Việt Nam” (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào
thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, hơn 70%,
tức là bị oan). Lần thứ hai này, đánh “tư sản mại bản”, tịch thu tài sản hàng
triệu người, đuổi người dân đi “kinh tế mới”, vào “hợp tác xã”. Nền kinh tế bị
thiệt hại kinh hoàng, TRỰC TIẾP gây ra nạn THUYỀN NHÂN chưa từng có trong lịch
sử nhân loại, từ 100 ngàn đến 300 ngàn người bỏ mạng ngoài biển khơi.
Trên
báo tuổi trẻ online của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có bài viết về một
người từng tham gia chiến dịch cướp bóc của quần chúng nhân dân Miền Nam. Bài
viết có đoạn trích như sau: “Sau tháng 4-1975, nhà báo Đinh Phong cùng
nhóm phóng viên truyền hình túc trực ngày đêm theo những tổ công tác làm công
việc “kê biên tài sản” của những nhà tư sản Sài Gòn ở chợ Bến Thành, chợ Tạ Thu
Thâu... Đó là một thời điểm khó quên nhưng ai cũng muốn quên. Ông Đinh Phong
(ủy viên Ủy ban MTTQ VN TP.HCM, nguyên phó giám đốc Đài truyền hình TP.HCM) hồi
tưởng về những ngày ông và nhiều đồng nghiệp được ban tuyên huấn giao những nhiệm
vụ đặc biệt nhưng bí mật đến phút cuối cùng. Ngay cả cái tên của những chiến
dịch này cũng được mã hóa thành X1, X2... Những tổ công tác mật được gấp rút
thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình kinh doanh, những
gia đình giàu có phải “cải tạo tư sản”. Nguyên tắc hàng đầu của chiến dịch này
là bí mật. Những nhà tư sản chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở
và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định “kê biên tài sản”.”.
Quý
vị có thể theo dõi ở links sau: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/132736/ke-bien-tai-san.html#ad-image-0
Thứ
ba, Cũng
nói về con số thống kê “thành tích” cướp bóc của nhân dân Miền Nam, Trong cuốn
sách “Thông tin lịch sử của TP.HCM” của ủy ban nhân dân TPHCM có cho biết: “Cho
đến ngày giải phóng 1975, Sài Gòn đã có một cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật
lớn nhất miền Nam, nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp cả miền
Nam. Nơi đây tập trung hơn 38.000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn
nhỏ, trong đó có 766 công ty và 8.548 cơ sở công nghiệp tư nhân. Để công hữu
hóa tư liệu sản xuất và đưa công nhân lao động làm chủ nhà máy, xí nghiệp, sau
năm 1975 chính quyền cách mạng đã tiến hành vận động hai đợt cải tạo công
thương nghiệp. Kết quả là đã quốc hữu hóa tài sản của 171 tư sản mại bản, 59 tư
sản thương nghiệp cỡ lớn…”.
Trên
thực tế ở Việt Nam thì việc “quốc hữu hóa” chính là việc nhà cầm quyền cộng sản
cướp của dân rồi đem làm tài sản riêng cho đảng viên và các quan chức lãnh đạo
thụ hưởng.
Quý
vị cũng có thể xem tại links: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/132736/ke-bien-tai-san.html#ad-image-0
Thứ
tư, Chính
Mai Chí Thọ trong 1 bài phỏng vấn đăng trên tờ báo điện tử cộng sản Vietbao.vn
đã thừa nhận những hành động cướp bóc của mình một cách công khai:” Trầm ngâm
một lát, bác Tám Cao (Mai Chí Thọ) đúc kết: “Sau chiến thắng 30/4/1975 với
chủ trương “Tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”, ngay sau khi giải
phóng, TW đã giao nhiệm vụ cho TP. HCM phải bắt tay ngay vào chiến dịch mang bí
số X1 và X2 với nội dung “Cải tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa” vẫn được quen gọi
là “Đánh tư sản mại bản”. Chiến dịch X1, thì tạm được bởi chúng ta thực hiện
cải tạo những tư sản có liên quan tới đế quốc, dù trong số họ không ít người
chỉ thuần túy “làm kinh tế”.”.
Rồi
cũng chính Mai Chí Thọ thừa nhận: “Nhưng đến nửa chừng rà soát lại gần
2.000 “đối tượng X2”, thì chỉ đúng có… 3 đối tượng! Chủ trương duy ý chí này đã
làm sa sút ghê gớm, biến dạng diện mạo cũng như nội lực của thành phố, xóa đi
hết những ưu thế, cơ sở vật chất sẵn có của “Hòn ngọc Viễn Đông”…
Không
khí cải tạo ồ ạt, tịch thu, tịch biên tài sản của các đối tượng “X1, X2”, đem
về đổ dồn, chất đống đầy các kho không chứa xuể, phải tấp táp đâu đó, sau một
thời gian ngắn, những tài sản này phần thì biến mất, số còn lại hư hỏng trở
thành một đống đổ nát khổng lồ…
Từ
một thành phố hưởng thụ, một Trung tâm công nghiệp lớn nhất, vậy mà chỉ sau mấy
năm khi “Chiến dịch X1, X2” đi qua, toàn bộ nền sản xuất công nghiệp của thành
phố bị tê liệt tới mức cạn cùng: Nguyên vật liệu không còn, viện trợ từ các
phía bị cắt đứt, cơ sở vật chất xuống cấp nhanh chóng, máy móc phương tiện “đắp
chiếu” ngủ triền miên hết năm này sang năm khác. Nền kinh tế của thành phố như
thoi thóp, lạm phát gia tăng chóng mặt từ 15,3% đến 31% vào năm 1979; từ 20%
năm 1980 đến 40% năm 1981, cộng với thiên tai, mất mùa, tăng viện cho cuộc
chiến phía Tây Nam, số người thất nghiệp ngày càng gia tăng. Rồi dịch bệnh tràn
lan, phương tiện, thuốc men thiếu thốn đủ thứ khiến cho đời sống người dân ngày
càng lâm vào cảnh cùng cực. Có nhiều người không chịu đựng nổi phải vượt biên.”
Qua
những gì chính Mai Chí Thọ lúc đó là giám đốc công an Sài Gòn thừa nhận đã cho
thấy hậu quả khủng khiếp mà cộng sản gây ra cho nhân dân Việt Nam. Đây là tội
ác không thể tha thứ.
Quý
vị có thể tìm hiểu tại links sau: http://vietbao.vn/Phong-su/Gap-nhung-nhan-chung-cua-Cuoc-xe-rao-lich-su/70052307/262/
2. Nạn
thuyền nhân:
Kính
thưa quý vị!
Chính
vì cướp sạch kinh tế, nhà cửa và đầy đọa quân dân cán chính VNCH mà đảng cộng
sản Việt Nam đã đây người dân Miền Nam tới nạn "thuyền nhân" để
kiếm tìm sự sống mới. Trên thực tê không chỉ có X1 và X3 đánh kinh tế, nhà cầm
quyền cộng sản còn dùng X2 để đánh văn nghệ sỹ không theo cộng sản. Chính vì
thế toàn Miền Nam là một trại tù khổng lồ, người dân đã phải chấp nhận đánh đổi
mạng sống trên những con thuyền lênh đênh ngoài khơi để trốn chạy cộng sản. Quý
vị có thể tìm hiểu về chiến dịch X2 qua bài viết của một người trong cuộc như
sau: “Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà
cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1 trước
đó "đánh" tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người
Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ Hoàng
Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em vua tầu thủy Phạm Quang
Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm
đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh,
đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu
bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Hòa. Khoảng mười tháng
sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân
dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có
thể đưa tới tử hình. Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại
Gia Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là
mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai.”.- Trích bài viết: “NHỮNG
NGÀY THÁNG TÙ ĐẦY KHÔNG THỂ QUÊN” của tác giả Thanh Thương Hoàng.
Thậm
chí khi tác giả này đã ra tù và có chính sách HO thì cũng bị nhà cầm quyền cộng
sản gây khó dê:” Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, hai lần, tôi “ôm”
hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu
quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà Nước không có chính sách cho anh
xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với
bọn anh chỉ một cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm
trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con
đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp -
một thứ công dân hạng bét - ngay trên quê hương đất nước mình.”.
(Links
bài viết: http://khungtroisaomai.com/forums/viewtopic.php?f=9&t=7699).
Nạn
thuyền nhân đã bắt đầu sau khi nhà cầm quyền cộng sản trả thù quân dân cán
chính VNCH và cướp đi nguồn sống của nhân dân Miền Nam. Xin quý vị có thê đọc
những tài liệu sau đây để thấy rõ điều đó.
Thứ
nhất, Trên
VOA Việt Ngữ đã có bài viết thống kê về con số thuyền nhân và những người không
may mắn như sau: “Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 - và trong cả hai
thập niên kế tiếp - hàng triệu người Việt đã vượt biển, vượt biên tìm tự do.
Ngày nay, người ta thường chú ý đến tập thể cựu thuyền nhân, 'bộ nhân' đã sống
sót và định cư thành công ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Úc. Cũng trong hai thập
niên đen tối ấy, trên 300 ngàn thuyền nhân Việt Nam đã tử nạn trong rừng sâu,
trên biển cả và tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Rải rác khắp nơi tại các trại
tị nạn cũ - từ Thái Lan, Malaysia đến Indonesia và Philippines, hàng ngàn ngôi
mộ thuyền nhân đã bị bỏ quên - cho đến khi tổ chức Văn khố Thuyền nhân Việt Nam
phát động chương trình thăm viếng và trùng tu mộ phần cho những đồng bào xấu
số.”.
Đây
là những con số biết nói cho thây cộng sản là loài thú dữ đã gây nên cảnh tang
thương cho dân tộc Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi kính mong quý vị xem xét và
làm rõ tội ác tày trời này của cộng sản Việt Nam.
Bài
báo trên có thể xem tại: http://www.voatiengviet.com/content/ky-niem-ngay-30-thang-4-thuyen-nhan-viet-nam-tu-nan/1651015.html
Thứ
hai,
Trong một tập tài liệu ấn hành vào năm 2000, mang tựa đề “The State of the
World’s Refugees 2000, 50 years of Humanitarian Action,” viết về tình trạng
tị nạn thế giới, để đánh dấu 50 năm hoạt động nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà
Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, đã nói về lòng can trường
của hàng triệu người tị nạn và lánh nạn trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ
niềm hy vọng, và đã vượt qua biết bao thử thách và chông gai để đi tìm con
đường sống. Bà Ogata đã tuyên dương những người này là “Những người sống sót vĩ
đại của Thế Kỷ 20”. Cuốn sách cho biết: “Ngay từ cuối năm 1975, những
đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào
những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5,000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại
Hồng Kông cũng đã có 4,000 tị nạn, Tân Gia Ba 1,800 người, và có khoảng 1,250
người cũng đã đến Phi Luật Tân. Vào tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại
trừ bộ máy quản chế miền Nam của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực
hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập
trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn sóng di
tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng. Và đến cuối năm 1977, đã có trên 15,000
người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam Á. Cho đến năm 1978,
khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó
là việc xua quân xâm chiếm Cam Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới
với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa
số người ra đi thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư
tại các tỉnh phía Nam Trung Quốc.
Vào
cuối năm 1978, đã có 62,000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước Đông-Nam
Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54,000 thuyền nhân Việt Nam đến tị
nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị nạn này đã khiến cho các nước
trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam
Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt
thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm không cho lên bờ. Cũng kể từ đó, con số
thuyền nhân tử vong trên biển cả cũng đã gia tăng.
Sau
những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số thuyền nhân
cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem cho thế giới bên
ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia nhau những hạt cơm
rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia nhau từng giọt nước quý hơn vàng
được vắt ra từ miếng vải thấm mưa, để đánh lừa những cơn đói khát triền miên.
Hay là những chuyện thương tâm về người chết đã cứu được người sống với thịt
máu của chính mình. Hoặc nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp
phải đương đầu với hải tặc. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người
đối với con người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh
nộ của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao
nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi người có
cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh trên đại dương.
Cuối
cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lê thiên bi sử của
thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị
nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương
trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển.
Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được
một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tầu cứu vớt thuyền nhân
ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979
L’Ile de Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm
1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong
khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.”.
Thứ
ba,
Theo cuốn video tài liệu của Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển về con tầu J. Charcot,
sau 20 ngày tìm vớt ngoài khơi Việt Nam: “tầu đã vớt được 520 người,
thành phần tuổi tác như sau:Từ 14 đến 30 tuổi có 269 người, tức 51.73%. Học trò
có 224 em, gồm 136 nam, 88 nữ, chiếm 43.08%. Người trên 50 tuổi chỉ có 11
người, chiếm 2.11%. Người có nghề nghiệp là 218 người, chiếm 41.92% gồm 154 đàn
ông và chỉ có 64 đàn bà... Với thành phần trẻ chiếm đa số và nhất là giới học
trò đã làm cho Thế giới rúng động ở mức độ khinh hoàng về cuộc ra đi của người
Việt. Hàng trăm ký giả, các nhà xã hội và tôn giáo thiện nguyện đổ xô về Đông
Nam Á quan sát thảm nạn thuyền nhân khi những chiếc tầu chở hàng ngàn thuyền
nhân đổ bộ lên đảo hoang Pulau Bidong, Galang..”
Quý
vị có thể tìm hiểu thêm tại links sau: http://saigontimesusa.com/bai/thuyennhan/thuyennhan1132.shtml
Thứ
tư,
Trên trang chính của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam có đăng tả lại một trong
những thàm kịch của thuyền nhân Việt Nam chạy trốn cộng sản đã mô tả: “Sáng
1-12-1978, bão lớn kéo đến. Chẳng bao lâu sau tầu chìm. 170 người thiệt mạng.
150 người sống sót.123 thi hài được chon chồng chất 4 lớp lên nhau trong nghĩa
trang Cherang Ruku.46 thi hài khác được mai tang 3 ngày sau đó tại nghĩa trang
Balai Bachok, cách Cherang Ruku 30km về hướng Bắc”.
Quý
vị có thể xem tại links sau: http://www.vnbp.org/vbpgraves/gayquyHouston/cr/CR.htm
Thứ
năm,
Cho đến ngày hôm nay, sau hơn 80 năm cai trị Việt nam thì đảng cộng sản vẫn còn
những người ra biển tìm tự do. Xin quý vị chú ý đến bài báo trên RFA sau
đây: “Hiện nay vẫn còn có những người Việt Nam phải bỏ nước ra đi bằng
thuyền như phong trào thuyền nhân vượt biển cách đây gần 40 năm sau thời điểm
1975. Hãng thông tấn AP hôm nay loan tin tính đến lúc này trong năm nay có 460
người Việt Nam tìm đến được bến bờ nước Úc. Đây là con số bằng cả năm năm qua
gộp lại. Tàu chở thuyền nhân Việt Nam mới nhất đến được đảo Christmas Island
của Úc là vào hồi tháng trước. Chiếc tàu có số hiệu đăng ký tại tỉnh Kiên Giang.
Đây là tỉnh có khoảng cách đến đảo Chirstmas Island hơn 2300 kilomet… Một
thuyền nhân có tên Trương Chí Liêm 23 tuổi khi AP liên lạc được qua điện thoại
từ Trung Tâm Giam giữ Người Nhập cư Villawood, nằm ở ngoại vi Sydney, cho biết
là anh ta thà chết ở trại chứ không để bị cưỡng bức về lại Việt Nam. Người này
rời Việt Nam cách đây 5 năm và bị bắt giam ở Indonesia 18 tháng khi đang trên
đường tìm đến Úc.”.
(Links
bài viết: http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/40yer-fle-vn-tke-sea-05092013094355.html).
Thứ
sáu, còn rất nhiều bằng chứng về thuyền nhân Việt Nam, chúng tôi xin gửi đến
quý vị những đường links đến các video mô tả một trong những sự kiện bi thương
của dân tộc Việt nam chúng tôi mà đảng cộng sản chính là những kẻ thủ ác.
Kính
thưa quý vị!
Trong
lịch sử dân tộc Việt Nam chúng tôi, cộng sản cũng gây nên nhiều tội ác và cho
đến ngày hôm nay những tội ác đó vẫn còn tồn tại và hàng ngày diễn ra. Chúng
tôi xin gửi đến quý vị những tội ác cộng sản cho đến ngày nay vẫn hàng ngày
hàng giờ diễn ra trên khắp mọi miền tổ quốc Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi muốn
công lý phải được thực hiện và ánh sáng hòa bình dân chủ sẽ đến với quê hương
Việt Nam. Tội ác của cộng sản hiện nay còn rất nhiều, nhưng trong khuôn khổ bản
cáo trạng này tôi xin gửi đến quý vị các tội ác sau đây của cộng sản Việt Nam
đó là: Đàn áp tôn giáo, cướp đất đai của nhân dân.
III. Đàn áp tôn giáo và cướp đất đai:
1.
Đàn áp tôn giáo:
Kính
thưa quý vị!
Tự
do tôn giáo là một quyền cơ bản của con người. Chính hiến chương LHQ cũng công
nhận điều này và yêu cầu các nước thành viên cam kết phải thực hiện. Nhưng từ
khi có đảng cộng sản thì tôn giáo chưa bao giờ được đối xử đúng mực mà luôn
chịu đàn áp nếu tôn giáo đó không tuân theo sự chỉ đạo của cộng sản và phục vụ
cho cộng sản. Xin điểm qua một số những dẫn chứng để cho thấy cộng sản luôn đàn
áp tất cả tôn giáo khi không có lợi cho mình.
Thứ
nhất,
Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong những người đã chứng kiến cảnh tượng trong
nhà tù cộng sản. Và ông đã mô tả chân thực cuộc sống của nhà tù cộng sản giành
cho quân dân cán chính VNCH cũng như những người hoạt động tôn giáo. Chật chội,
ngột ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả
tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước,
nhiều khi có chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu
vào các dẫy hố đào trên mặt đất…
“Cả
trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi
sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt
mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi
cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa. Để
tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố
cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước,
ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ
tetracycline do Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm
mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường
thì phải chờ lâu tới ba tuần”, (Tầng Đầu Địa Ngục - Linh Mục (LM) Nguyễn
Hữu Lễ.).
Và
cùng đó là cảnh thiếu thốn: “Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác!
Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con
mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong
buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may
mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ
Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học”, (Tầng Đầu Địa Ngục - LM Nguyễn Hữu
Lễ.).
Cùng
đó là những hành động bị hành hạ cơ thể:
“Tùy
theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân
bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù. Nếu chỉ để cảnh cáo
và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử
dụng “chưởng” tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ hoặc “bẻ ngà” là dùng đá
cà hoặc đập gãy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặng hơn thì “lấy cấp pha” tức
là móc đôi mắt, hoặc “ xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm
trọng thì đối phương sẽ được “cất” có nghĩa là giết chết”, (Tầng Đầu Địa Ngục
- LM Nguyễn hữu Lễ.).
Thứ
hai, Phần trên là hồi ký của một linh mục. Nhưng quý vị có thể thấy Phật Giáo
cũng chẳng khá hơn trong một chính sách đàn áp tôn giáo của cộng sản. Quý vị có
thể đoc cuốn: "HỒI KÝ HAI SÁU NĂM LƯU ĐÀY DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT
NAM" của hòa thượng Thích Thiện Minh như sau: “Tại đây, từ việc đánh
đập bằng tay chân, bằng gậy gộc, bằng dùi cui, bằng báng súng cho đến cùm,
quyện, giam vào phòng giam riêng là điều xảy ra hàng giờ hàng buổi. Trại giam
có đủ mọi cán bộ, công an từ Bắc vàoNam, kể cả kháng chiến lâu năm cho đến
những tên công an loại mới vào ngành mà dân gian thường gọi là bọn “công an
30/4”. Họđều có những ngón nghề độc đáo để điều tra, nào là đánh túi bụi, đánh
kiểu trên đao dưới búa, còng tay đứng, còngchéo tay sau lưng, còng ngồi đan
chéo hai tay. Họ dùng nhục hình để điều tra, bản thân tôi khi giam giữ tại đây,
cũngkhông tránh khỏi những nhục hình này. Hàng ngày hai chân tôi luôn ở trong cùm,
bị cùm suốt ngày đêm, suốt tháng quanh năm. Hai chân bị cùm quyện tại chỗ,
không thể đứng thẳng được nên dần dần bị tê liệt.”.
Cuốn
hồi ký như một bằng chứng sống về việc cộng sản đàn áp tôn giáo.
Thứ
ba,
Xin điểm qua một số vụ án đàn áp tôn giáo một cách dã man. Điển hình là một số
trường hợp sau:
-
Vụ án Thái Hà:
Vào lúc 2g30 chiều nay, 3/11, hàng trăm côn đồ hung hãn, dưới sự hỗ trợ của an
ninh, cảnh sát các loạt, đồng loạt tấn công nhà thờ Thái Hà. Một số mặc thường
phục đã dùng búa trữ sẵn ở Trạm bảo vệ ngay trước cửa Nhà thờ để phá cổng nhà
thờ, và đặc biệt là đập hư nát mấy cánh cửa của nhà thờ.
Đêm
16/11/2011 rạng sáng ngày 17/11/2011, chính quyền Hà Nội đã cho đám dân phòng,
công an chìm, công an sắc phục tới chặn đường hành hung giáo dân, các vị lãnh
đạo tôn giáo và cho xe xúc đất, ủi đất, xe cần trục... tới đào đất, đặt 3 thùng
chứa nước loại cực lớn để làm cái mà chúng gọi là “Trạm Xử Lý Nước Thải” chính
thức lấy đất của Nhà Dòng Chúa Cứu Thế và Giáo Xứ Thái Hà. Linh mục Chánh Xứ
Thái Hà – Giuse Nguyễn Văn Phượng đã phản đối việc chiếm đất này của chính
quyền Hà Nội và gởi thơ cầu cứu đi khắp các nơi.
Công
luận khắp nơi lên tiếng phản đối thái độ đàn áp tôn giáo của chính quyền Cộng
sản Hà Nội, đã hành hung giáo dân và chiếm đoạt tài sản của Nhà Dòng Chúa Cứu
Thế Thái Hà.
Quý
vị có thể xem chi tiết tại các links sau:
http://www.nuvuongcongly.net/xa-hoi/thong-tin-tren-mang/hanoitancongthaiha/
http://www.nuvuongcongly.net/xa-hoi/thong-tin-tren-mang/hanoitancongthaiha/
-
Đàn áp PGHH: Cuộc
kháng chiến của toàn dân khởi đi trong bầu không khí sôi nổi, phấn khởi vô
cùng. Tháng 9/45, hầu như tất cả dân chúng miền Nam đều ủng hộ Việt Minh. Nhưng
chỉ vài tháng sau đó, với chính sách sắt máu như bắt cóc, cho "mò
tôm", chặt đầu, móc mắt, cắt lưỡi, mổ bụng, những nạn nhân bị chụp mũ
"Việt gian", "phản động", "phản cách mạng", đã
tạo ra mộ làn sóng căm phẫn bao trùm đất nước. Cuộc kháng chiến do đó mà bị xẹp
lép như trái banh xì hơi. Những người còn sống sót, con cháu của các nạn nhân
đi tìm chỗ tỵ nạn, họ buộc lòng phải "về thành" để tránh bị Việt Minh
tàn sát lần nữa. Họ đành chịu mang tiếng là "hợp tác với giặc Pháp".
Sinh lực kháng chiến tiêu tan ngay, tạo đà cho quân Pháp chiếm lại các tỉnh
miền Nam một cách dễ dàng chỉ trong vòng...4 tháng.
Chỉ
trong vòng có 2 tháng trời, giành quyền đại diện dân chúng miền Nam, Việt Minh
đã biến tình đoàn kết thành nội thù. Các vụ giết người mờ ám, các vụ khủng bố
đẫm máu... đã làm cho dân miền Nam thức tỉnh. Phi nghĩa và làm mất thế đoàn kết
ngay khi Việt Minh ra lịnh đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình của Phật Giáo Hòa Hảo
tại Cần Thơ. Theo lịnh Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ để chống lại tình trạng độc tài
của Việt Minh, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo các vùng lân cận tỉnh Cần Thơ và một số
thị dân kéo về biểu tình rầm rộ với tay không và biểu ngữ. Cuộc biểu tình có
xin phép Chủ tịch Ủy ban Hành chánh là ông Trần Văn Khéo. Sáng sớm ngày 8/9/45,
khi đoàn biểu tình với một số "bảo an" với tầm vong vạt nhọn thì làm
sao chống lại với súng đạn! Trước đó, Việt Minh đã mời đại diện của Phật Giáo
Hòa Hảo ở Cần Thơ là các ông Huỳnh Thạnh Mậu (bào đệ Đức Thầy), Nguyễn Xuân
Thiếp (anh họ nhà văn Nguyễn Hiến Lê) và Trần Văn Hoành (con trai ông Năm Lửa)
đến thương thuyết nhưng thất bại. Nhiều người tham dự cuộc biểu tình này chỉ có
tay không với bình nước uống, vừa từ dưới ghe cặp bến, đã bị tự vệ của Việt
Minh bắn chết ngay tại bờ sông. Trong vụ thảm sát này, ông Hoàng Quốc Kỳ, một
người kháng chiến tập kết về Bắc, gặp lại bạn cũ, là người đã xả súng bắn vào
nhóm biểu tình ấy, kể lại như sau:
"Nguyễn
Văn Nghệ, một tay súng tiểu liên đầu đàn của Vệ quốc đoàn miền Tây Nam Bộ (CS),
kể lại trận "tắm máu đó": Tụi Hòa Hảo gan cùng mình! Lớp này ngả
xuống, lớp khác tiến lên, cả đàn bà con nít cũng vậy. Bóp cò đến rung cả tay,
máu loang đỏ hết cả mặt đường mà chúng nó vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đã
tản thần nhưng lịnh bắt phải bắn tiếp"Đàn áp xong, Việt Minh dùng xe có
loa phóng thanh chạy khắp đường phố loan tin: Hòa Hảo dùng ghe vượt sông Cần
Thơ, đổ bộ vào châu thành, bị "Vệ quốc đoàn" đẩy lui.
-
Tội ác của Việt Minh đối với Cao Đài: Tiêu diệt tôn giáo, đảng phái là chủ
trương của người CS ngay khi họ nắm được chính quyền ở Nam Bộ bằng cái
"Lâm Ủy Hành Chánh". Nếu Trần Văn Giàu đã gieo tang tóc cho Nam Bộ
đang lâm chiến bao nhiêu, thì tội ác của Tướng Nguyễn Bình đối với tôn giáo,
đảng phái cũng tày trời bấy nhiêu.
Thủ
đoạn của Việt Minh là mua chuộc, lôi kéo về phe họ, phục vụ quyền lợi của họ,
làm viên gạch lót đường, làm con chốt hy sinh. Ai ngoan ngoãn thì lợi dụng có
giai đoạn, sau đó tìm cách ám sát, gọi là "tử trận", "hy
sinh",... Biết rõ âm mưu này, Cao Đài bất hợp tác, bị Việt Minh đánh phá,
phải kéo về Tây Ninh để khỏi bị tiêu diệt. Thất bại, Việt Minh lập một kế hoạch
lừa bịp mới: lập nhóm Cao Đai ly khai ở Bạc Liêu, chiêu dụ họ đứng về "phe
kháng chiến". Việc chống xâm lăng là một nghĩa vụ của người dân, một tín
đồ, nhưng phục vụ riêng cho quyền lợi của CS thì tôn giáo nào cũng từ chối.
Phái Cao Đài Minh Chơn của ông Cao Triều Phát và Trần Đạo Quang ở Bạc Liêu đã
bị lừa vào cái bẩy sập đó.
Cao
Triều là một dòng họ lớn, nhiều người là đại điền chủ, có con cái ăn học bên
Tây. Cao Triều Phát là một trong những cự phú xứ "công tử coi tiền như
rác". Giàu có lớn, Cao Triều Phát là người có tâm đạo, làm việc nghĩa,
tính tình hiền lành. Từ khi biết mình bị lừa vào hang cọp, ông âm thầm chịu
đựng, đóng trọn vai trò lừa bịp do CS dàn dựng. Từ khi khai đạo tại Tây Ninh,
Cao Đài lần lượt chia nhiều hệ phái: Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Bến Tre của Lê
Kinh Ty, Nguyễn Ngọc Tường, và Cao Đài Minh Chơn Hậu Giang của ông Cao Triều
Phát và chưởng pháp Trần Đạo Quang.
Năm
1932, Thánh thất Cao Đài Minh Chơn đặt tại Giồng Bướm, làng Phong Thạnh, quận
Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu, lấy tên là Thánh thất Ngọc Minh. Rùn ép, đe dọa, Việt
Minh dùng thủ đoạn bắt ông Cao Triều Phát làm bình phong để có danh nghĩa cho
họ lập "Đại Hội Liên Tôn Quốc Doanh". Trước đó, với sự dàn dựng của
Việt Minh, "Cao Đài Cứu Quốc Họp Nhứt 12 Chi Phái" để lôi kéo tín đồ
ủng hộ kháng chiến do họ lãnh đạọ một giai đoạn khá ly kỳ được dân chúng Bạc
Liêu thường nhắc tới là việc CS dùng thủ đoạn moi tiền ông Cao Triều Phát một
cách thô bỉ. Người miền Tây còn nhớ việc này rành rành như sau (Theo thư nhà
văn An Khê Nguyễn Bính Thinh gởi cho tác giả ngày 2/2/94):
"...Trong
những năm đầu của cuộc kháng chiến, có một lá thơ của "bác Hồ" gởi Ủy
ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ, trong đó nhắc tổ chức trao chiếc áo và thư
"của Bác" cho ông Cao Triều Phát. Đó là chiếc áo lụa, do các em thiếu
nhi Hà Đông tặng khi bác Hồ còn ở Hà Nộị Trong "tuần lễ vàng", Việt
Minh lại đem chiếc áo ấy bán đấu giá, buộc ông Cao Triều Phát phải mua với giá
50 vạn đồng (50,000 đồng) 1 chiếc áo lụa nhàu nát như miếng giẻ rách.
Từ
đó, ông Cao Triều Phát đã lọt vào quỹ đạo của CS, sẵn sàng làm bù nhìn để Cao
Đài mặc tình sai khiến đóng trò.
Riêng
hệ phái Cao Đài Tây Ninh, cũng bị mua chuộc, dụ dỗ, nhưng không thành công.
Tiếp đó, Việt Minh giở trò vu khống, rồi khủng bố, ám sát nhắm vào các ông Trần
Quang Vinh, Giáo chủ Phạm Công Tắc, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Vạn Nhả, nhưng thất
bại.
Ông
Dương Đình Lôi đã kể lại rằng, "Trong 2 năm 1946-1947, Việt Minh đã đưa cả
một trung đoàn về ẩn náu tại vùng Long Sơn, núi Nứa (Cần Giờ), có mục đích đánh
phá đạo Cao Đài. Vùng Rừng Sác có một họ đạo Cao Đài tại Cần Giờ. Trung đoàn 300
của Việt Minh vẫn thường xuyên đột nhập, gọi là "tảo thanh", gặp tín
đồn Cao Đài là cứ bắn giết, nhà cửa thì đốt sạch. Mỗi lần như vậy, dân đạo Đao
Đài phải chạy vào đồn bót Tây để được Tây che chở..."
Thứ
tư, Xin gửi đến quý vị một số trường hợp đàn áp tôn giáo gần đây nhất xảy ra
trong tất cả các tôn giáo tại Việt Nam để quý vị thấy những hành động của đảng
cộng sản là không thể chấp nhận được.
2. Cướp
đất của nhân dân:
Kính
thưa quý vị!
Ngoài
việc đàn áp tôn giáo thì nhà cầm quyền cộng sản còn cướp đoạt đất đai và đàn áp
nhân dân mất đất để làm giàu cho bản thân. Xin mời quý vị theo dõi một số dẫn
chứng sau đây của chúng tôi. Đây chỉ là một số dẫn chứng trong hàng triệu
trường hợp bị cướp đoạt đất đai của cộng sản Việt Nam.
Thứ
nhất, Vụ
án Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng – Hải Phòng là một trong những vụ án nổi tiếng về
hành động cướp đoạt đất đai ở Việt Nam. Ông Đoàn Văn Vươn (1963) sinh sống tại
Cống Rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, từng phục vụ
trong quân đội cộng sản Việt Nam, là kỹ sư nông nghiệp tốt nghiệp Đại học Nông
nghiệp Hà Nội. Từ năm 1993, ông Vươn thực hiện việc quai đê lấn biển để nuôi
trồng thủy sản. Ông khởi nghiệp bằng việc bán tài sản, vay mượn bạn bè, người
thân và ngân hàng, chịu nhiều thiệt hại mất mát trong quá trình lấn biển, bao
gồm cái chết của con gái đầu 8 tuổi bị rơi xuống cống chết đuối trong một lần
theo bố mẹ ra đầm. Gia đình ông theo đạo Công giáo thuộc giáo phận Hải Phòng.
Cụ
thể, năm 1993, huyện Tiên Lãng ban hành quyết định giao cho Đoàn Văn Vươn diện
tích 21ha đất bãi biển khu vực nam cống Rộc thuộc xã Vinh Quang để sử dụng vào
mục đích nuôi trồng thủy sản, thời hạn sử dụng là 14 năm. Trong quá trình sử
dụng ông đã tự ý đắp bờ bao để sử dụng vượt quá diện tích được giao. Từ năm
1995, ông đã xây được một con đê cao tạo thành bờ bao cho một vùng đầm rộng lớn
hàng chục ha cùng hàng ngàn cây sú, vẹt mọc lên tạo thành cánh rừng chắn sóng.
Gia đình ông đã có đầm nuôi tôm, cá để sinh sống.
Tháng
3 năm 1997, ông Vươn làm đơn xin giao đất bổ sung phần diện tích lấn biển ngoài
diện tích được giao. Tháng 4 năm 1997, huyện Tiên Lãng ra quyết định giao bổ
sung cho ông Vươn 19,3ha giáp với diện tích đã giao, thời hạn 14 năm. Tổng cộng
ông Vươn được sử dụng 40,3ha đất để nuôi trồng thủy sản. Đê lấn biển của ông
còn được cho rằng đã góp phần giúp nhân dân trong vùng không phải lo vỡ đê mỗi
khi bão lũ. Ông Vươn đã đắp được một số đoạn đê để bảo vệ đầm thủy sản của
mình, ví dụ như đoạn đê công vụ. Chính quyền huyện sau này cũng đắp thêm được
một số đoạn nhỏ của đê công vụ, nhưng lại nhận rằng chính quyền đã có công đắp
đê chứ không phải ông Vươn. Việc này đã bị người dân địa phương phản đối.
Đến
thời điểm hết hạn giao đất, năm 2009, huyện Tiên Lãng đã làm thủ tục thu hồi
toàn bộ 40,3 ha của ông Đoàn Văn Vươn. Tuy nhiên, ông Vươn đã khiếu nại việc
thu hồi 19,3ha đất lên huyện, sau đó không đồng tình quyết định của huyện, ông
khởi kiện lên Tòa án. Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Tòa án huyện Tiên Lãng đã xét
xử sơ thẩm và bác đơn khởi kiện của ông Vươn; giữ nguyên quyết định thu hồi.
Đoàn Văn Vươn tiếp tục kháng cáo bản án sơ thẩm. Tòa án Nhân dân thành phố Hải
Phòng đã thụ lý hồ sơ và tiến hành “hòa giải” bằng “Biên bản thỏa thuận”: nếu
ông rút đơn thì UBND huyện Tiên Lãng sẽ tiếp tục cho thuê đất.
Sau
khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 19 tháng 4 năm 2010, ông Vươn rút
toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Ba ngày sau, Tòa án Nhân dân thành phố Hải Phòng
quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án hành chính này. Sau đó, huyện
Tiên Lãng đã nhiều lần gửi thông báo làm việc với ông Vươn về việc thu hồi đất
đã hết thời hạn sử dụng. Ông Vươn vẫn yêu cầu huyện tiếp tục cho ông thuê đất
để nuôi trồng thủy sản.
Sáng
5 tháng 1 năm 2012, huyện Tiên Lãng đã tiến hành cưỡng chế với lực lượng đông
đảo hơn 100 người bao gồm cả lực lượng công an và quân đội do phó chủ tịch
huyện Nguyễn Văn Khanh làm trưởng ban cưỡng chế nhưng đã bị gia đình ông Đoàn
Văn Vươn chống trả.
Rõ
ràng việc cướp thành quả, phá nhà và tài sản, đẩy gia đình ông Vươn vào tù sau
phiên tòa bị lên án mạnh mẽ là minh chứng cho những gì thể hiện bản chất cướp
bóc của đảng cộng sản. Xin quý vị xem một số bài viết và phỏng vấn để thấy bản
chất độc ác và tham lam của đảng cộng sản Việt Nam.
Tổ
chức bảo vệ nhân quyền quốc tế Human Rights Watch nói vụ án Đoàn Văn Vươn ở
Tiên Lãng (Hải Phòng) là tín hiệu cảnh báo cho nhà cầm quyền Hà Nội về hậu quả
của tình trạng thiếu nhân quyền và pháp trị tại Việt Nam. Phó Giám đốc phụ
trách khu vực Châu Á trong tổ chức Human Rights Watch, ông Phil Robertson, phát
biểu với VOA Việt ngữ:
“Hai
vấn nạn liên kết giữa chính sách tịch thu đất đai bất hợp lý và quan chức tham
nhũng cộng với tình trạng không theo trình tự pháp lý hợp lệ và thiếu tính hợp
pháp là những yếu tố khiến người dân Việt Nam bức xúc trước vụ án Đoàn Văn
Vươn. Dù cách đáp trả bằng bạo lực của gia đình ông Vươn là hành động không thể
chấp nhận, nhưng sự việc này cảnh cáo chính phủ Việt Nam về những gì có thể xảy
ra khi họ để cho quan chức nhà nước mặc tình vi phạm nhân quyền của người dân”
Links:
Thứ
hai,Vụ
án cướp đất ở Văn Giang – Hưng Yên. Vào khoảng 5 giờ 30 phút sáng ngày 23/4/2012,
hàng nghìn công an, bộ đội cùng khoảng 40 máy xúc máy ủi đã được huy động đến
cưỡng chế cánh đồng xã Xuân Quan, trong sự chống trả quyết liệt của khoảng 2000
người dân của ba xã Xuân Quan, Phụng Công và Cửu Cao.
Thứ
ba, vụ án cướp đất tại Dương Nội. 9h30 sáng ngày 31/1/2013 giới chức địa phương
đã đưa lực lượng chừng 200 người, gồm dân phòng, công an, thanh tra giao thông
và cả đầu gấu tới đàn áp dân Dương Nội, gây xung đột, giằng giật ác liệt. Vụ án
cướp đất tại Dương nội cũng khiến cho dư luận căm phẫn trước sự bạo tàn của nhà
cầm quyền cộng sản. Xin quý vị tìm hiểu thêm tại một số links sau:
http://www.rfa.org/vietnamese/HumanRights/y-duong-noi-police-conceal-evidence-ml-03272013074904.html
Thứ
tư, vụ
án tại Trịnh Nguyễn- Bắc Ninh. Nông dân ở làng Trịnh Nguyễn Bắc Ninh đã làm lều
để quyết giữ ruộng đất cho các gia đình chính sách, nhưng lực lượng công an
trong vùng sắp kéo đến uy hiếp bà con. Hàng ngày bà con thay phiên nhau túc
trực, có lúc đông nhất lên đến hơn 1000 người. Được biết vào sáng chủ nhật, khi
thấy một số công an và bộ đội xuất hiện quanh làng, bà con đã thúc chiêng gõ
trống trong vòng 5 phút báo động. Hơn 500 người dân đã tập trung để kiên quyết
giữ ruộng đến cùng. Các ngày trong tuần vẫn liên tục có hàng trăm bà con giữ
đất. Đã có một số bà con bị thương do bị công an hành hung dùng dùi cui đánh
vài thanh niên và 1 cụ già. Các học sinh đi học thì bị dọa cấm thi, người đi
làm thì bị dọa đuổi việc. Sự việc này xuất phát từ việc đền bù không thỏa đáng
cho 42 hộ gia đình thương binh, liệt sỹ. Qua đây cho thây nhà cầm quyền cộng
sản đã quay lưng lại ngay cả với những người mà họ gọi là “Có công với cách
mạng”. Xin quý vị xem thêm tại các links sau:
Đặc
biệt nghiêm trọng là một người dân oan là Chị Đỗ Thị Thiêm từ Bắc Ninh là nhân
vật nổi trội trong vụ khiếu kiện về đất đai cùng với bà con Trịnh Nguyễn. Công
an đã nhiều lần đe dọa trực tiếp là sẽ "cho mày ân hận suốt đời vì tội
khiếu kiện vượt cấp". Và bây giờ thì chúng đã hành động.
Nhưng
cách hành động của an ninh tỉnh Bắc Ninh ngày 4.7.2013 thật hèn hạ. Lợi dụng
gia đình chị Thiêm có một con trai bị thương hơn 2 năm nay cần xin trợ giúp của
Hội chữ thập đỏ. Công an đã gọi 4 lần vào số máy của chị Thiêm là khi thì về
Hàng Buồm để được giải quyết vụ này. Khi thì ra trạm y tế xã để được chiếu cố.
Lần thứ 4 chị Thiêm vừa ra khỏi nhà, nhìn quanh không thấy ai thì bất ngờ một
người xuất hiện tạt nguyên 1 ca acid vào người của chị. Không may là acid dính
vào người từ cằm trở xuống và bị nặng nhất là trện 2 tay. Chị Thiêm khẳng định
là thấy 2 người đàn ông tẩu thoát bằng xe máy. Xin quý vị theo dõi ở links sau:
Thứ
năm,
vụ cướp đất tại Vụ Bản- Nam Định. Xin quý vị theo dõi một số link sau để thấy
các hành động độc ác của cộng sản Việt Nam:
______________________________
Các
phần Cáo Trạng đã đăng:
Phần
1: http://danlambaovn.blogspot.com/2012/12/ban-cao-trang-toi-ac-cua-ang-cong-san.
html#.UZnRa6L0Hzs
Phần
2: http://danlambaovn.blogspot.com/2013/02/ban-cao-trang-toi-ac-cua-ang-csvn-va.
html#.UZnR3qL0Hzt
Phần
3: http://danlambaovn.blogspot.com/2013/05/ban-cao-trang-toi-ac-cua-ang-csvn-va-ho.html#.UcCq5ucXHJI
Phần
4: http://danlambaovn.blogspot.com/2013/06/ban-cao-trang-toi-ac-cua-ang-csvn-va-ho_21.html#.UdoW0fnIuDo
Bạn đọc có thể gửi
thông tin góp ý cho bản cáo trạng và ký vào nội dung cáo trạng theo địa chỉ:
BẢN CÁO TRẠNG TỘI ÁC ĐÀNG CỘNG SẢN VIỆT NAM & ÔNG HỒ CHÍ
MINH
Đặng
Chí Hùng - Dân Làm Báo
- Vi phạm hiệp định
Paris 1973.
- Sử dụng trẻ em
trong chiến tranh - vi phạm luật về chiến tranh và sử dụng trẻ em.
- Tiếp tục gây chiến
tranh phi nghĩa với VNCH, gây đau thương cho dân tộc trong đó có những thảm họa
kinh hoàng như “Đại lộ kinh hoàng” 1972 tại Quảng Trị, ám sát, khủng bố người
dân và các nhân sỹ của VNCH.
--------------------------------------
Blog BỐN PHƯƠNG
BẢN CÁO TRẠNG TỘI ÁC ĐÀNG CỘNG SẢN VIỆT NAM & ÔNG HỒ
CHÍ MINH [Phần 4] - (Đặng Chí Hùng - Danlambao) 21-6-2013
- Vi phạm hiệp định Paris 1973.
- Sử dụng trẻ em trong chiến tranh - vi phạm luật
về chiến tranh và sử dụng trẻ em.
- Tiếp tục gây chiến tranh phi nghĩa với VNCH, gây
đau thương cho dân tộc trong đó có những thảm họa kinh hoàng như “Đại lộ kinh
hoàng” 1972 tại Quảng Trị, ám sát, khủng bố người dân và các nhân sỹ của VNCH.
Thằng Đặng Chí Hùng có vấn đề về thần kinh rồi bà con ạ. Hôm nay nó sủa thế này: “Cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà thủ phạm là Lê Duẩn…”. Nói láo. Tất cả những thông tin trên đều bịa đặt, không có nguồn dữ liệu.
ReplyDelete“Tiêu chuẩn người phạm kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu. Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ. Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít. Tác giả nói rằng đây là điều kiện khắc nghiệt của nhà tù cộng sản. Tôi thì có cái nhìn khác. Thời điểm cải tạo mà tác giả đang nói là vào những năm 80 của thế kỉ 20. Lúc đó mọi gia đình đều đói. Vậy thì làm sao tù nhân có thế no đủ. Hãy nhìn nhận tại thời điểm lịch sử đó mới nhận ra điều đúng, lẽ phải.
ReplyDeleteTác giả phụ họa cho bài viết phản động của mình bằng những câu của một bloger: "Riêng cá-nhân tôi hầu như không được ăn cơm khi còn bị nhốt ở trong trại cải-tạo; vì mỗi năm chúng tôi chỉ được ăn cơm vào những ngày sau đây: 3 ngày Tết Nguyên-Đán, ngày Tết Tây, ngày 1-5, ngày 2-9 hàng năm, còn tất cả những ngày còn lại thì ăn khoai mì khô, khoai lang khô, bắp bung, bo-bo v..v...Tất cả chúng tôi đều bị đói triền-miên. Chúng tôi chịu-đựng cái đói từng giây một, chứ đừng nói từng phút một!! Chúng tôi không bao giờ biết no là gì khi ở trong trại tù. Ở trong tù tôi thường ước mơ được ăn một chén cơm trắng với nước mắm mà không được!!!” Blogger đó có tên Đề Lô Cao Cấp. Nghe nickname đã nói lên phẩm chất đạo đức của bloger đó. Không cần nói ai cũng hiểu
ReplyDeleteDương Đình Lôi đã kể lại rằng, "Trong 2 năm 1946-1947, Việt Minh đã đưa cả một trung đoàn về ẩn náu tại vùng Long Sơn, núi Nứa (Cần Giờ), có mục đích đánh phá đạo Cao Đài. Vùng Rừng Sác có một họ đạo Cao Đài tại Cần Giờ. Trung đoàn 300 của Việt Minh vẫn thường xuyên đột nhập, gọi là "tảo thanh", gặp tín đồn Cao Đài là cứ bắn giết, nhà cửa thì đốt sạch. Mỗi lần như vậy, dân đạo Đao Đài phải chạy vào đồn bót Tây để được Tây che chở..."(trích). Toàn những lời xuyên tạc. Nghe những đoạn này cảm thấy buồn cưới qúa. Ví dụ như việc chạy vào bốt Tây để được che chở. Những kẻ được Tây che chở là tay sai đắc lực của Mỹ-thành phần ác ôn. Bọn này đã mổ bụng moi gan bao nhiêu cán bộ, người dan lương thiện. Chúng không đáng được tồn tại.
ReplyDelete