6-123-2012
Đất nước Việt Nam đang trượt dốc
đến suy tàn, đang từng bước rơi vào tay cộng sản Trung Quốc, mỗi người Việt Nam
cần hành động cứu nước. Song song với việc thúc đẩy tranh đấu trong nước, chúng
ta phải mạnh mẽ tố cáo trước thế giới tội ác của cộng sản Việt Nam. Việc đưa
nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ra tòa hình sự quốc tế và Ủy Ban Nhân Quyền
Liên Hợp Quốc là cần thiết. Tuy nhiên cần nhiều chứng cứ cụ thể hơn nữa để có
tiếng nói có giá trị hơn nữa. Kính đề nghị quý bạn đọc cung cấp thêm chứng cứ
về tội ác của cộng sản đối với bản thân và gia đình mình, tội ác của CS tại quê
hương mình để giúp tôi đúc kết một bộ hồ sơ hoàn chỉnh hơn nữa sau khi bản cáo
trạng này được đăng tải. Tôi kêu gọi các nạn nhân của chiến dịch tàn sát của
đảng cộng sản Việt Nam năm 1968 hãy cùng tôi trả lại sự thật cho những cái chết
oan khiên...
*
Kính thưa bạn đọc!
Trong quá trình tìm hiểu và nhận
thức của mình tôi đã sưu tầm được rất nhiều tài liệu, nhân chứng liên quan đến
tội ác của đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh.
Những bài viết “Những sự thật
không thể chối bỏ” của tôi đã được ban biên tập Dân Làm Báo
(danlambaovn.blogspot.com)
đăng tải tố cáo tội ác của chế độ độc tài cộng sản Việt Nam và cá nhân lãnh tụ
cộng sản Hồ Chí Minh đối với nhân dân Việt Nam.
Như chúng ta đã biết đảng cộng sản
Việt Nam với chính sách sắt máu đã đàn áp các đảng phái đối lập, tôn giáo,
những nhà bất đồng chính kiến, những người tranh đấu cho sự tiến bộ xã hội là truyền
thống, là việc làm thường xuyên từ khi đảng cộng sản cướp được chính quyền từ
năm 1945 đến nay.
Cuộc đấu tố “Cải cách ruộng đất”
theo chỉ thị của Stalin và Mao Trạch Đông từ năm 1953 đến 1957 đã cướp đi sinh
mạng gần 200 ngàn người Việt và hậu quả của nó không những về người mà còn làm
băng hoại đạo đức và văn hóa dân tộc.
Cuộc Cách mạng văn hóa chống
Nhân Văn Giai Phẩm 1957-1960: Hàng ngàn Trí thức, Nhà Văn, Nhà báo có tư
tưởng dân chủ bị vào tù, nhiều người bị chết trong ngục tối.
Chiến dịch “chống xét lại”
từ năm 1963 tiếp tục bức hại hàng chục ngàn người trong có có cả những đảng
viên, đồng chí của đảng.
Dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh
lúc đó đang là người đứng đầu đảng và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm
1958 đã chỉ đạo ông Phạm Văn Đồng lúc đó là thủ tướng chính phủ ký công hàm
công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là của Trung Quốc. Ở
đây ông Hồ Chí Minh và ông Phạm Văn Đồng mắc tội vi hiến, độc tài không thông
qua quốc hội cũng như dân ý mà tự quyền đem đất đai tổ quốc cho nước khác.
Đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của
ông Hồ Chí Minh còn vi phạm thỏa thuận ngưng bắn trong dịp tết Mậu Thân năm
1968 với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, và đã tàn sát 6000 dân thường tại thành
phố Huế.
Từ năm 1975, sau khi cưỡng chiếm Việt
Nam Cộng Hòa nhằm “Thống nhất đất nước” thay vì dùng chính sách “Hòa
giải và hòa hợp dân tộc”, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại dùng chính
sách trả thù khốc liệt: đánh tư sản Miền Nam, cướp tài sản của mọi tầng lớp
nhân dân, đẩy hàng triệu người lên vùng kinh tế mới thực chất là các trại lao
động cưỡng bức tại những vùng rừng núi hẻo lánh; đưa hàng trăm ngàn sĩ quan
binh lính của Việt Nam Cộng Hòa vào các nhà tù không thời hạn, trải dài khắp
đất nước Việt Nam.
Sự trả thù khốc liệt đã khiến hàng
triệu người phải tìm đường trốn chạy khỏi đất nước bằng đường biển tạo nên hiện
tượng “thuyền nhân / boat people” của thế kỷ 20, khiến hàng vạn người bị chết
trên biển.
Từ năm 1990, sau khi khối cộng sản
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhằm cứu nguy chế độ, nhà cầm quyền Cộng sản buộc
phải cải cách kinh tế theo phương thức “kinh tế thị trường”, nhưng lại liên kết
với đảng cộng sản Trung quốc tại “Hội nghị Thành Đô” (Trung Quốc) để duy
trì chế độ độc tài cộng sản.
Hàng ngàn người yêu nước tiếp tục
bị bức hại, bị vào tù. Đảng cộng sản dùng chính sách “cộng sản hóa” các
tôn giáo và các tổ chức xã hội: các sỹ quan an ninh đội lốt thầy tu, nhà sư xâm
nhập hầu hết các nhà chùa Phật giáo và nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Những cơ sở tôn giáo nào chống lại
chính sách này đều bị đàn áp khốc liệt. Những cái tên Thái Hà, Đồng Chiêm, Cồn
Dầu, Tam Tòa, Con Cuông, Bát Nhã... trở thành những biểu hiện hãi hùng đối với
người dân Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
bị đàn áp và phong tỏa triệt để. Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ (người được
đề cử giải Nobel nhiều lần) bị tù và bị quản thúc đến nay vẫn chưa được tự do.
Các cơ sở và thánh đường Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài bị tàn phá, các phật tử
thường xuyên bị truy bức, đánh đập thậm chí bị thủ tiêu. Chỉ những cơ sở tôn
giáo nào chấp nhận đường lối cộng sản, chấp nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản
thì mới được hành đạo. Nhà cầm quyền cộng sản thường dùng những cơ sở này để
quảng cáo trước thế giới cho chính sách tôn giáo của họ.
Các tổ chức xã hội: Nghiệp đoàn,
Phụ nữ, Thanh Niên, Nông dân... cũng bị tập trung trong một tổ chức “Mặt
Trận Tổ quốc Việt Nam” do một Ủy Viên Trung ương đảng cộng sản cầm đầu,
thực chất đây là các cơ sở ngoại vi của đảng cộng sản, thực hiện chỉ thị của
đảng cộng sản, kiềm tỏa mọi hành động và tư tưởng của người dân.
Hiện nay tại Việt Nam hàng ngàn
người Việt đang bị tù đày trong các nhà tù khắc nghiệt chỉ vì bày tỏ lòng yêu
nước, bày tỏ chính kiến khác với đảng cộng sản, viết blog để bày tỏ quan điểm,
không chấp nhận quan điểm tôn giáo do đảng cộng sản áp đặt.
Tự do báo chí cũng không được tôn
trọng. Dù hiến pháp của Việt Nam năm 1946 đã quy định quyền tự do ngôn luận và
báo chí nhưng đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục vi phạm bằng việc cấm khiếu kiện
tập thể, cấm tập trung và lập đoàn lập hội, cấm bày tỏ bất đồng chính kiến và
cấm triệt để báo chí tư nhân.
Đất nước Việt Nam đang trượt dốc
đến suy tàn, đang từng bước rơi vào tay cộng sản Trung Quốc, mỗi người Việt Nam
cần hành động cứu nước. Song song với việc thúc đẩy tranh đấu trong nước, chúng
ta phải mạnh mẽ tố cáo trước thế giới tội ác của cộng sản Việt Nam. Việc đưa
nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ra tòa hình sự quốc tế và Ủy Ban Nhân Quyền
Liên Hợp Quốc là cần thiết. Tuy nhiên cần nhiều chứng cứ cụ thể hơn nữa để có
tiếng nói có giá trị hơn nữa.
Kính đề nghị quý bạn đọc cung cấp
thêm chứng cứ về tội ác của cộng sản đối với bản thân và gia đình mình, tội ác
của CS tại quê hương mình để giúp tôi đúc kết một bộ hồ sơ hoàn chỉnh hơn nữa
sau khi bản cáo trạng này được đăng tải. Tôi kêu gọi các nạn nhân của chiến
dịch tàn sát của đảng cộng sản Việt Nam năm 1968 hãy cùng tôi trả lại sự thật
cho những cái chết oan khiên vì trong lần tố cáo này có 2 nhân chứng đã từng là
cán bộ cao cấp và trực tiếp thi hành mệnh lệnh giết hại dân lành ra làm chứng.
Tôi đã động viên họ và họ sẵn sàng chuộc lại sai lầm của mình bằng việc ra làm
chứng và cung cấp tài liệu. Vì lý do an ninh nên tạm thời tôi chưa nêu tên thật
của họ. Khi ra đối chất họ sẽ có đủ bằng chứng.
Đây không phải là sự trả thù mà là
việc làm cần thiết, phải trả lại sự thật cho lịch sử đồng thời là một bài học
cảnh báo cho các chế độ cầm quyền tiếp theo. Mong bạn đọc góp ý chân tình và
thẳng thắn, đóng góp, giúp đỡ để bản cáo trạng của chúng ta có chất lượng nhất
và đến tay các tổ chức quốc tế.
Kính mong được sự tiếp tay, hưởng
ứng của quý độc giả.
* Lưu ý: Bạn đọc thân mến!
Vì đây là bản cáo trạng chi tiết
gửi bạn đọc xem xét và góp ý rồi sau đó ký tên ủng hộ phong trào Toàn dân tố
cáo của chúng ta dựa trên 2 loạt bài “Những sự thật
không thể chối bỏ” và “Những sự thật
cần phải biết”, đã, đang và sẽ đăng tải trên Danlambao. Sau đó tôi
xin được phép dựa trên bản cáo trạng này và những đóng góp ý kiến của bạn đọc
được rút gọn lại một lần nữa đăng trên DLB. Lý do là cần có thêm những ý kiến
đóng góp của bạn đọc thật bổ ích và LHQ cũng như các cơ quan công luận Quốc tế
không thể đọc hết những gì dài dòng, quá chi tiết. Nên chú trọng vào những hậu
quả của đảng cộng sản và ông HCM gây ra cho dân tộc Việt Nam.
______________________________
BẢN CÁO TRẠNG VỀ TỘI ÁC CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VÀ ÔNG HỒ CHÍ MINH
Kính gửi:
- Đại hội đồng LHQ (UN General
Assembly).
- Ông Tổng thư ký UN General
Assembly (the eighth and current Secretary-General of the United Nations-UN)
Ban Ki Moon.
- Toàn thể các vị lãnh đạo của tất
cả các quốc gia trong LHQ.
- Ông Chủ tịch Tòa án Công lý quốc
tế (International Court of Justice- ICJ) Peter Tomka.
- Ông Chủ tịch Tòa án Hình sự quốc
tế (President of the International Criminal Court- ICC) Song Sang-Huyn.
- Bà ủy viên công tố Tòa án Hình sự
quốc tế (Prosecutor of the International Criminal Court- ICC) Fatou Bensouda.
- Bà Cao ủy Hội đồng Nhân quyền LHQ
(the United Nations High Commissioner for Human Rights- OHCHR) Navanethem
Pillay.
- Ông Tổng thống Hoa Kỳ (President
of USA) Barak Obama.
- Ông Chủ tịch Hội đồng châu Âu
(President of the European Council) Herman Achille Van Rompuy.
- Ông Chủ tịch Quốc hội EU
(President of the European Parliament) Martin Schulz.
- Ông Chủ tịch Ủy ban Liên minh
châu Âu (President of the European Commission) Manuel Durão Barroso.
- Bà Đại diện cao cấp của Liên minh
châu Âu (EU) về đối ngoại và chính sách an ninh (High Representative of the
Union for Foreign Affairs and Security Policy) Catherine Margaret Ashton.
- Ông Chủ tịch Tòa án Công lý của
Liên minh châu Âu (President of the European Court of Justice- ECJ) Vassilios
Skouris.
- Ông Giám đốc điều hành hiện tại
của Human Rights Watch (The current executive director of Human Rights
Watch-HRW) Kenneth Roth.
- Ông Phó Giám đốc Ban Á Châu của Tổ
chức Theo dõi Nhân quyền (The Deputy Asia director of Human Rights Watch-HRW)
Phil Robertson.
- Ông đồng chủ tịch Hội Luật sư
Quốc tế (Co-Chair International BAR Association-IBA) Stephen Denyer và ông Đồng
Chủ tịch Hội Luật sư Quốc tế (Co-Chair International BAR Association-IBA)
Ronaldo Camargo Veirano.
- Ông chủ tịch hội Freedom House
William H. Taft IV.
- Ông chủ tịch Hội đồng châu Âu
(President of The Parliamentary Assembly of the Council of Europe PACE)
Jean-Claude Mignon.
- Ông Tổng thư ký Tổ chức Ân xá
Quốc tế (Amnesty International-AI) Salil Shetty.
- Ông chủ tịch Liên đoàn Quốc tế
Nhân quyền (International Federation for Human Rights - FIDH) Souhayr
Belhassen.
- Ông chủ tịch Tổ chức An ninh và
Hợp tác châu Âu (OSCE) M. P. de Brichambaut và ông tổng thư ký Tổ chức An ninh
và Hợp tác châu Âu (OSCE) Kanat Saudabayev.
- Ông đại diện đặc biệt Liên minh
châu Âu về Nhân quyền (EU Special Representative for Human Rights-EUSR) Stavros
Lambrinidis.
Kính thưa quí vị,
Chúng tôi những người đồng ký tên dưới đây cùng tố cáo tội ác của Hồ Chí Minh, của đảng cộng sản Việt nam và của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - giai đoạn 1945-1969 và tội ác của đảng cộng sản Việt Nam và của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam - giai đoạn 1969-2012 về 2 tội ác theo Hiến chương LHQ và theo Qui chế Rome 17th day of Juli 1998:
Chúng tôi những người đồng ký tên dưới đây cùng tố cáo tội ác của Hồ Chí Minh, của đảng cộng sản Việt nam và của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - giai đoạn 1945-1969 và tội ác của đảng cộng sản Việt Nam và của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam - giai đoạn 1969-2012 về 2 tội ác theo Hiến chương LHQ và theo Qui chế Rome 17th day of Juli 1998:
a. Tội ác diệt chủng (The crime of
genocide)
b. Tội ác chống loài người (The
crimes against humanity)
Kính thưa quý vị,
Trước khi đi vào nội dung bản cáo
trạng thì tôi xin nói qua về bản thân tôi và công việc tôi đang theo đuổi.
Tôi vốn sinh ra sau năm 1975 có
nghĩa là sinh sau cuộc chiến tranh giữa VNDCCH và VNCH. Tôi cũng được sinh ra
trên đất Bắc Việt Nam ngay tại cái nôi của chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản
Việt Nam. Bản thân gia đình tôi có cha là bộ đội tham gia quân đội của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, còn mẹ tôi là viên chức - đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam.
Xung quanh họ hàng tôi có bác (bên cha tôi) và cậu (em ruột mẹ tôi) là liệt sỹ
khi chiến đấu trong hàng ngũ quân đội VNDCCH. Ngoài ra hiện nay gia đình tôi có
nhiều người thân công tác trong đội ngũ chính quyền nước CHXHCNVN. Họ phần lớn
là đảng viên và tham gia đủ các lĩnh vực trong đó có cả An ninh, cảnh sát và
quân đội... Tôi cũng đã được học tập dưới mái trường của CNXH, đã từng là một
cán bộ đoàn của đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (tổ chức ban đầu của đảng
cộng sản Việt Nam) và hiện nay đang là công dân nước CHXHCN Việt Nam.
Nói như vậy để các quý vị hiểu rõ
động cơ của tôi khi tiến hành công việc này không phải với mục đích “trả thù”
hay “thù hận” gì đối với đảng cộng sản, ông Hồ Chí Minh và nhà nước CHXHCN Việt
Nam. Động cơ chính của tôi đó là đem lại sự thật, sự công bằng cho những nạn
nhân dưới ách thống trị của đảng cộng sản Việt Nam. Và trên hết tôi muốn công lý
và sự thật phải được thực thi nhằm vạch trần bộ mặt thật của chế độ cộng sản
Việt Nam.
Tuy nhiên bản cáo trạng gửi tới quý
vị ngày hôm nay không phải của riêng cá nhân tôi mà là nguyện vọng của rất
nhiều đồng bào của tôi đang sống tại Việt Nam cũng như đồng bào của tôi đang
sinh sống trên khắp thế giới. Tất cả chúng tôi cùng chung sức và chung ý tưởng
để xây dựng nên bản cáo trạng này. Điều đó được thể hiện ở số chữ ký của chúng
tôi gửi tới quý vị. Đó là nguyện vọng không chỉ cá nhân tôi mà là của cả dân tộc
tôi. Tôi phải dùng từ dân tộc vì nhân dân Việt Nam chúng tôi dù đi đâu, làm gì
và có trở thành công dân nước khác vẫn luôn tự hào có cội nguồn dân tộc Việt
Nam. Chúng tôi có sức mạnh đoàn kết và bằng chứng sự thật. Chúng tôi cần các
quý vị bằng ánh sáng công lý và trung thực, giúp đỡ chúng tôi trong việc phân
minh bản cáo trạng này. Chúng tôi tin rằng bằng lương tâm và trách nhiệm của
mình đối với loài người nói chung và đối với dân tộc Việt Nam chúng tôi nói
riêng, quý vị sẽ có những hành động thiết thực lên án tội ác của đảng cộng sản
Việt Nam, tội ác của ông Hồ chí Minh và tội ác của nhà nước CHXHCN Việt Nam để
đem lại công lý cho những người đã mất, cho những người còn sống đang ngày đêm
chịu oan khuất dưới ách độc tài của đảng cộng sản VN.
Bằng tất cả trái tim và nhiệt huyết
của mình giành cho đất nước tôi và dân tộc tôi, tôi cùng đồng bào Việt Nam trên
khắp thế giới chỉ muốn đem lại sự công bằng, công lý cho nhân dân chúng tôi bị
đảng cộng sản tước bỏ gần 80 năm qua. Tôi không hề có bất cứ động cơ cá nhân
hay chính trị cho đảng phái nào. Với tất cả danh dự và trách nhiệm của một
người con Việt Nam, tôi xin cam đoan những gì gửi tới quý vị là trung thực và
thẳng thắn.
Kính thưa quý vị!
Nhân dân Việt Nam chúng tôi đã từng
sống trong một trại tù khổng lồ không hơn không kém từ trước năm 1975 (phần
miền Bắc) và cả nước Việt Nam từ sau năm 1975 cho đến nay. Chính vì vậy chúng
tôi không thể ngồi yên khi công lý và nhân quyền tiếp tục bị đảng cộng sản Việt
Nam chà đạp một cách thô bạo.
Thay cho lời giải thích vì sao
chúng tôi làm bản cáo trạng này tới quý vị, chúng tôi xin mượn câu nói của nhạc
sỹ Việt Khang đang bị giam cầm trong ngục tù cộng sản chỉ vì viết bài hát kêu
gọi lòng yêu nước, chống ngoại xâm Trung Quốc: “BỞI VÌ CHÚNG TÔI LÀ NGƯỜI
VIỆT NAM”!
Kính thưa quý vị!
Khi nói đến việc bảo vệ quyền con
người, dù dưới góc độ nào, có nghĩa cũng đề cập đến việc bảo vệ nhân thân, các
quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Tại Lời nói đầu Tuyên ngôn toàn
thế giới về quyền con người năm 1948 (được Đại Hội đồng Liên Hợp quốc
thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948) đã khẳng
định: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách
rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng
và hòa bình trên thế giới... Điều cốt yếu là quyền con người cần phải được pháp
luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy như là một biện pháp cuối cùng
nhằm chống lại sự độc tài và áp bức... Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng
với Liên Hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền
và tự do cơ bản của con người”. Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con
người là nhiệm vụ chung của tất cả các quốc gia và mọi dân tộc trên thế giới,
trước hết là trên phương diện chính trị - pháp lý, sau là thực tiễn xã hội.
Luật hình sự quốc tế là một ngành
luật trong hệ thống pháp luật quốc tế ghi nhận những hành vi đặc biệt nguy hiểm
cho các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế là các tội phạm quốc tế (và tội
phạm có tính chất quốc tế - tội phạm xuyên quốc gia), đồng thời quy định hệ
thống hình phạt và các chế định pháp lý có thể được áp dụng đối với những chủ
thể vi phạm, cũng như tổng hợp những nguyên tắc xác định quyền và nghĩa vụ của
các thành viên cộng đồng quốc tế, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia trong việc
xử lý và phòng, chống các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong đó có tội ác
diệt chủng và chống lại loài người.
Kể từ khi Công ước về ngăn
ngừa và trừng phạt tội phạm diệt chủng (Convention on the Prevention
and Punishment of the Crime of Genocide - CPPCG) có hiệu lực vào tháng 1
năm 1951 khoảng 80 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc đã thông qua luật kết
hợp các quy định của các CPPCG vào pháp luật quốc gia của họ, và một số thủ
phạm diệt chủng đã được tìm thấy có tội, thành phố trực thuộc Trung ương theo
quy định của pháp luật như vậy, chẳng hạn như Nikola Jorgic, người bị kết tội
diệt chủng ở Bosnia vào một tòa án Đức.
Sau khi tối thiểu 20 quốc gia đã
trở thành các bên tham gia Công ước, nó đến như luật pháp quốc tế có hiệu lực
vào ngày 12 tháng một năm 1951. Tuy nhiên tại thời điểm đó, chỉ có hai trong
năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc (HĐBA) là các bên
tham gia hiệp ước: Pháp và Trung Quốc. Cuối cùng Liên Xô phê chuẩn vào năm
1954, Vương quốc Anh vào năm 1970, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1983 (đã
thay thế nước Cộng hòa Đài Loan dựa trên của Trung Quốc vào Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp quốc trong năm 1971), và Hoa Kỳ vào năm 1988 và cho đến những năm
1990 của pháp luật quốc tế về tội ác diệt chủng đã bắt đầu được thực thi.
Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc số 1674, được thông qua bởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 28
tháng tư 2006: “Tái khẳng định quy định của điều 138 và 139 của Văn kiện thế
giới năm 2005 Kết quả Hội nghị thượng đỉnh về trách nhiệm bảo vệ các quần thể
từ tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, thanh trừng sắc tộc và tội ác chống lại
nhân loại.”
Có thể xem thêm ở địa chỉ: http://www.un.org/News/Press/docs/2006/sc8710.doc.htm
Kể từ khi CPPCG có hiệu lực vào
tháng 1 năm 1951 khoảng 80 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc đã thông qua
luật kết hợp các quy định của CPPCG các thành luật, thành phố trực thuộc Trung
ương của họ.
Đồng thời LHQ cũng thông qua yêu
cầu tất cả các bên có liên quan thực hiện đúng các nghĩa vụ đối với họ theo quy
định của pháp luật quốc tế, đặc biệt là những người nằm trong các Công ước
Hague 1899 và 1907 và các Công ước Geneva năm 1949 và Nghị định thư bổ sung của
họ năm 1977, cũng như với các quyết định của Hội đồng Bảo an.
Cụ thể tại Việt Nam:
Kính thưa quý vị!
Dựa trên các điều luật của LHQ đã
thông qua và ban bố:
a. Căn cứ điều 2 khoản 1 Nghị quyết
số 217A (III) ngày 10/12/1948 của HĐBA LHQ;
b. Căn cứ điều 6 khoản 1,2,3 và 4
của công ước ICC năm 2007;
c. Căn cứ điều 4 Nghị quyết của Hội
đồng Bảo an Liên Hợp Quốc số 1674, được thông qua bởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc ngày 28 tháng tư 2006;
d. Quy chế Rome 17/07/1998 (http://untreaty.un.org/cod/icc/index.html);
e. Căn cứ vào Bộ luật nhân quyền
năm 1976 của LHQ;
f. Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền,
ban hành năm 1948;
g. Công Ước Quốc Tế về những quyền
Dân Sự và Chính Trị, năm 1966;
h. Công Ước Quốc Tế về những quyền
Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa, năm 1966;
i. Công ước quốc tế về bảo vệ nạn
nhân chiến tranh được ký kết 12.8.1949 tại Geneve;
k. Công ước về trẻ em năm 1989
(thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết
số 44-25 ngày 20/11/1989 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.). Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc, trong Nghị quyết số 50/155 ngày 21 tháng 12 năm 1995, thông qua việc
sửa đổi khoản 2, điều 43 của Công ước Quyền trẻ em, bằng cách thay từ “mười”
bằng từ “mười tám”. Việc sửa đổi này có hiệu lực vào ngày 18 tháng 11 năm 2002
khi được chấp nhận bởi đa số 2/3 của các quốc gia thành viên.
l. Công ước Quốc tế về Bảo vệ quyền
của tất cả những người lao động di trú và các thành viên gia đình họ, 1990
(được thông qua theo Nghị quyết A/RES/45/158 ngày 18/12/1990 của Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc)
Chúng tôi, toàn thể 90 triệu người
dân đang sinh sống tại Việt Nam và hàng triệu người dân đang sống trên khắp thế
giới cùng ký tên gửi tới quý vị bản cáo trạng với những nội dung như sau:
1) Tội Ác Xâm Lược (The crime of
Aggression);
2) Tội Ác Chiến Tranh (War Crimes);
3) Tội Ác Diệt Chủng (The crime of
Genocide);
4) Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes
against Humanity);
5) Vi phạm Bộ luật Nhân Quyền quốc
tế (International Bill of Human Rights)
Chúng tôi xin chia ra các giai đoạn
thời gian cụ thể:
A. Giai đoạn 02/09/1945 -
02/09/1969:
Đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh đã
vi phạm nhân quyền, diệt chủng, vi hiến và chống lại dân tộc, chống lại loài
người, gây chiến xâm lăng cụ thể là các sự kiện nổi bật sau:
- Tiến hành chính sách cải cách
ruộng đất man rợ tại VNDCCH.
- Đàn áp nhân dân, trí thức về kinh
tế, tư tưởng (điển hình là vụ án Nhân văn Giai phẩm hay các trường hợp
của luật sư Nguyễn Mạnh Tường...)
- Gây chiến tranh xâm lăng một nước
có chủ quyền được LHQ công nhận (VNCH).
- Tàn sát nhân dân vô tội qua vụ
thảm sát Mậu thân 1968 tại Huế.
- Công nhận chủ quyền Việt Nam cho
nước khác khi không qua quốc hội (Công hàm 1958 công nhận HS-TS là của Trung
Quốc).
- Tiêu diệt những người yêu nước
nhưng không cộng sản: Điển hình là vụ án của cụ Phan Bội Châu.
B. Giai đoạn 1969 đến 1975:
- Tiếp tục gây chiến tranh phi
nghĩa với VNCH gây đau thương cho dân tộc trong đó có những thảm họa kinh hoàng
như “Đại lộ kinh hoàng” 1972 tại Quảng Trị.
- Vi phạm hiệp ước Paris 1973.
- Sử dụng trẻ em trong chiến tranh - vi phạm luật về chiến tranh và sử dụng trẻ em.
- Đày đọa các tù bình trong chiến
tranh.
C. Giai đoạn 1975 đến nay:
- Trả thù man rợ quân dân, cán
chính một nước (VNCH) sau khi cưỡng chiếm nước này.
- Cướp tài sản của nhân dân Miền
Nam thông qua chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản.
- Đẩy hàng trăm ngàn người phải ra
biển gây nên nạn thuyền nhân nổi tiếng và đau thương cho dân tộc Việt Nam.
- Vi phạm luật nhân quyền và chống
loài người: bắt bớ nhưng người phản đối và bất đồng chính kiến yêu nước như bắt
giam T.S Cù Huy Hà Vũ, L.S Lê Công Định, Doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức,
Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Nhà giáo Đinh Đăng Định, Nguyễn
Xuân Nghĩa, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Nhạc sỹ Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Sinh
viên Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha...
Chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung cáo trạng cụ thể sau đây:
Giai đoạn 02/09/1945-02/09/1969:
Phần 1: Sự kiện Cải cách ruộng
đất tại VNDCCH:
Cách đây gần 60 năm, một biến cố
lớn lao đã xảy ra ở Bắc Việt. Người Cộng sản gọi đó là “cuộc cách mạng long
trời lở đất” còn lịch sử ghi nhận nó như “cuộc Cải cách Ruộng đất kinh
thiên động địa” đầy máu và nước mắt vì đã gây ra cái chết cho khoảng nửa
triệu đồng bào.
Những kẻ tạo nên biến cố đau thương
này chính là Hồ Chí Minh và đảng Lao động VN (một biến tướng của đảng cộng sản
Việt Nam). Do mù quáng thấm nhiễm một học thuyết chủ trương quốc hữu hóa mọi
phương tiện sản xuất để dễ dàng khống chế toàn xã hội, do nô lệ tuân hành sự
chỉ đạo của các lãnh tụ Trung Cộng và Liên Xô, do ý đồ khuất phục nhân dân bằng
khủng bố đe dọa và bóp bao tử, do toan tính tước mọi phương tiện sinh hoạt của
các tôn giáo, hàng lãnh đạo CSVN đã đề ra một chương trình Cải cách Ruộng
đất (CCRĐ) bằng đủ biện pháp nham hiểm và tàn nhẫn, qua một công cụ hết sức
đặc biệt và chưa từng có là Tòa án nhân dân với những màn đấu tố mà cho
đến nay vẫn là một nỗi kinh hoàng cho dân Việt.
Theo hầu hết các nhà nghiên cứu,
cuộc CCRĐ đã kéo dài 7 năm (1949-1956), trải qua 5 giai đoạn, đánh dấu bằng
những sắc lệnh, ban đầu nhẹ nhàng và mỵ dân, tiến dần đến sắt máu và triệt để
với Sắc luật về CCRĐ (14-6-1955), cho phép nhà nước tịch thu toàn bộ tài
sản của những “tên thực dân, địa chủ gian ác, cường hào ác bá, Việt gian
phản động”, truất hữu đất đai của các tôn giáo, gọi là để phân chia lại cho
nông dân không đất, gia đình thương binh, chiến sĩ, liệt sĩ... Thế nhưng chính
việc quy định thành phần xã hội, phân chia tài sản một cách bất công và với
thâm ý tước đoạt quyền tư hữu đất đai đã gây nên bao cảnh giết chóc cùng đổ vỡ.
Và rồi, những kẻ được phân chia ruộng đất sau đó phải trả lại tất cả cho nhà
nước qua Hợp tác xã...
Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc,
có lẽ không biến cố nào đau thương bằng sự kiện ấy. Đau thương vì đó là cuộc
đảo lộn xã hội nông thôn Việt Nam một cách toàn diện từ kinh tế tới văn hóa đến
luân lý do một chủ trương cải tạo nông nghiệp quá ư lạ lùng và tàn nhẫn. Vì đó
là cuộc tàn sát trực tiếp lẫn gián tiếp gần nửa triệu nông dân chỉ trong thời
gian ngắn mà không phải bằng bom đạn chiến tranh. Vì kết quả có được chỉ là sự
suy sụp nông nghiệp, tan hoang làng xóm, đổ vỡ tình người, băng hoại đạo đức,
ách nô lệ khoác lên toàn thể nhân dân miền Bắc.
Đến tận hôm nay, nhà cầm quyền cộng
sản vẫn tiếp tục tước đoạt quyền tư hữu đất đai của người dân, và các tòa án
nhân dân vẫn tiếp tục là công cụ cộng sản dùng để bịt miệng, trói tay, giam
thân những ai muốn đòi công lý và sự thật. Thành ra, việc nhìn lại cuộc Cải
cách Ruộng đất là một kiểu ôn cố tri tân cần thiết cho mọi người dân Việt.
Và cũng là điều cần thiết để đem lại công lý cho những người đã khuất.
Đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của
ông Hồ Chí Minh đã thực hiện CCRĐ trong tính toán của mình và theo tinh thần
của “đàn anh” Trung Quốc cộng sản (Trung cộng) làm trong “Cải cách văn hóa”.
Điều này cũng không có gì quá ngạc
nhiên vì trong các chế độ cộng sản, bản chất của Cải cách Ruộng đất là
đảo lộn toàn bộ tổ chức xã hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả
ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu, trâu bò và dụng cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc,
xẻng v.v...
Thực chất vấn đề là nó biến cuộc
nổi dậy theo cách gọi của Việt Minh thành một cuộc trả thù đẫm máu. Nó không
khác gì một cuộc diệt chủng áp dụng lên chính đồng bào của mình.
Chiến dịch CCRĐ xảy ra vào giai
đoạn mà đảng Cộng sản Việt Nam đã củng cố được địa vị lãnh đạo và quyền lực.
Sau khi cướp được chính quyền vào năm 1945, đảng cộng sản đã tiêu diệt các lực
lượng và đảng phái quốc gia cũng như dân tộc khác từ năm 1946. Trong giai đoạn
từ 1946 đến 1950, đảng cộng sản Việt Nam bị tách biệt với phong trào cộng sản
Quốc tế, không thể nhận sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc và vì còn yếu nên
còn cần sự hợp tác của các thành phần không Cộng sản trong hàng ngũ Việt Minh.
Khi đảng cộng sản Trung Quốc chiếm được chính quyền tại Trung Quốc tháng
10-1949, biên giới Việt Nam–Trung Hoa thông thương được.
Cộng sản Việt Nam được Trung cộng
viện trợ vũ khí, huấn luyện cán bộ. Lúc đó đảng cộng sản cũng đã nắm vững tình
hình trong nước nên có thể thi hành biện pháp có tính cách Cộng sản mà trước
đây đảng cộng sản chưa thể làm vì chưa đủ sức chống đỡ với sự phản đối của quần
chúng và các tổ chức không theo cộng sản.
Chiến dịch Cải cách Ruộng đất
và một số các chiến dịch thuộc vào giai đoạn hai trong sách lược cách mạng vô
sản của đảng Cộng sản: giai đoạn đầu là Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân,
giai đoạn hai là giai đoạn Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa. Chỉ từ giai đoạn
hai trở đi thì các đặc tính của cộng sản mới lộ ra. Đây là chiêu lừa đảo rất
tinh vi của cộng sản. Họ lợi dụng cách mạng dân tộc để lừa bịp nhân dân chiến
đấu, đóng góp cho chế độ độc tài kéo dài đến ngày hôm nay.
Tại văn kiện đại hội đảng để thực
hiện việc cải cách ruộng đất (Nhà xuất bản chính trị đảng cộng sản Việt Nam-
trang 5) có đánh giá:
“...Việc đấu tranh giai cấp giữa
địa chủ và nông dân đã được đặt ra ngay từ khi thành lập Đảng. Đây là vấn đề
bức thiết cần phải thực hiện trong thời gian tới đây. Chúng ta nhận thấy rằng
từ có từ 90% đến 95% dân chúng Việt Nam là nông dân, và trong số này thì chỉ có
khoảng 5% là địa chủ phú nông, còn đa số đều là người làm thuê, làm mướn, tá
canh, tá điền. Do đó, chúng ta muốn làm cách mạng xã hội phải lôi cuốn được
khối đa số đó, phải thỏa mãn khối đa số đó bằng quyền lợi để tiến hành cách
mạng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội...”
Như vậy, qua đây có thể thấy đảng
cộng sản chỉ muốn lợi dụng số đông nông dân có dân trí kém để thúc đẩy một cuộc
cướp bóc, trả thù đẫm máu với giai cấp trí thức hơn. Họ nhằm hai mục tiêu:
(1) Đạt được ý nguyện cướp bóc, trả
thù;
(2) lợi dụng đó làm bàn đạp cho chế
độ đảng trị khi trói buộc lợi ích của nông dân vào thòng lọng giăng sẵn.
Tất cả các văn bản, công văn về
CCRĐ có trong cuốn: Tập hợp văn kiện văn bản của đảng trước 1975 (Nhà
xuất bản văn hóa- của đảng cộng sản) và một số lưu tại thư viện quốc gia Việt
Nam. Đây là các tài liệu của đảng cộng sản, được đảng cộng sản công khai. Quý
vị có thể kiểm chứng. Hoặc có thể truy cập vào:
sẽ có đầy đủ các văn bản tại phần
trên (Website này là thư viện pháp luật của bộ tư pháp Việt Nam).
Hoặc links sau: http://vbqppl. moj. gov. vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.
aspx?ItemID=1106
của bộ tư pháp chính phủ CHXHCNVN
lưu trữ.
1. Tiến hành:
Từ 1949 đến 1956, Việt Minh Cộng
sản mở năm đợt Cải cách Ruộng đất (CCRĐ). Sau mỗi đợt, Việt Minh tổ chức hội
nghị rút ưu khuyết điểm, để rồi tiến hành tiếp đợt khác. Trong hai đợt đầu
(1949 và 1950), Việt Minh thực hiện cải CCRĐ nhẹ nhàng để phục vụ nhu cầu lương
thực, nuôi quân trong hoàn cảnh chiến tranh.
Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng
Cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa. Trung cộng thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh
ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ
Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh
cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng Cộng
sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí
Minh phải cử người sang Trung cộng học tập phương pháp CCRĐ triệt để, vì lúc đó
mối liên hệ Xô-Trung còn bình thường và vì Việt Nam nằm sát biên giới Trung
cộng. (Links: http://tennguoidepnhat.net/2012/04/06/về-chuyến-tham-bi-mật-lien-xo-va-trung-quốc-nam-1950/)
Đây là trang web của ban tuyên giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền
triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên
Quang, tái công khai đảng Cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao động ngày
19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Trong Đại
hội nầy, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Về lý luận, đảng Lao động Việt Nam theo
chủ nghĩa Mác-Lênin... lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam... Tôi không
có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Trích Hồ Chí Minh toàn tập-Sách
của đảng cộng sản Việt Nam). Chẳng những thế, cũng trong Đại hội này, Hồ Chí
Minh còn nhiều lần tuyên bố: “Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí
Mao Trạch Đông thì không thể sai được”. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản
Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.)
Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2,
Việt Minh cử người sang Trung cộng tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lênin
tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng sản các nước Á Châu như Indonesia, Mã
Lai, Thái Lan, Pakistan, Philipin, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRĐ
theo đường lối Trung cộng. Phái đoàn nầy trở về liền được đảng LĐ gởi tổ chức
thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm tức" ở vài
tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.
Các thành phần theo quy định của
Việt Minh cộng sản. Đối với các thành phần nông nghiệp, VM ra sắc lệnh vào
tháng 3-1953 ấn định các thành phần xã hội ở nông thôn như sau (Bernard Fall,
sđd. tr. 283):
Địa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp
canh tác. Địa chủ được chia thành ba hạng: địa chủ thường (có khoảng dưới 5 mẫu
ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời Pháp thuộc), địa chủ cường hào ác bá
(những người hiếp đáp, ngược đãi bần nông và bần cố nông), địa chủ phản động
(quan lại phong kiến, Việt Quốc, Đại Việt, hay thân Pháp).
Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra
canh tác và thuê nông dân trong việc canh tác.
Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung nông chia
thành 2 loại: trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con trâu hay bò), và
trung nông cấp thấp (có dưới 1 mẫu ta ruộng).
Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa
chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô.
Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông
cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống. (Lâm Thanh Liêm, bđd. sđd. tt. 187-188).
Đường lối đấu tranh CCRĐ là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô
lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ. (Trích trong hồ sơ của hội
đồng CCRĐ- thư viện pháp luật Việt Nam).
Khích động khát máu - "Thà chết mười người oan còn hơn để sót một
địch": Để khích động nông dân hưởng ứng cuộc CCRĐ, ban cải cách phải
theo đúng ba giai đoạn đề ra do sắc lệnh ngày 12-4-1953 như sau:
Thứ nhất: kích động tâm lý quần chúng chống lại các địa chủ bằng
cách đưa cán bộ về thực hiện "tam cùng" hay "tam đồng" với
bần nông, để "thăm nghèo hỏi khổ" và sau đó "bắt rễ, xâu chuỗi".
Thứ hai: Sau khi len lỏi "bắt rễ xâu chuỗi", và nhờ
thông tin của rễ chuỗi nầy, nắm vững tình hình các gia đình trong địa bàn hoạt
động, cán bộ bắt đầu đánh giá và xác định lại các thành phần xã hội đã được Ủy
ban hành chánh địa phương sắp xếp theo Sắc lệnh tháng 3-1953 nêu trên. Từ đó,
đội công tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Đây là cơ hội giải
quyết những ân oán đã có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng
phú nông cho nhẹ tội, hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho nặng tội.
Thứ ba: Thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những "kẻ
có tội với nhân dân". Để việc xét xử đạt kết quả đúng yêu cầu của đảng
LĐ, các bần nông được tổ chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng để họ chủ động đấu
tố.
Trong năm 1953, mọi việc đã chuẩn
bị đầy đủ để tiến hành CCRĐ, nhưng vào đầu năm 1954, chiến tranh đến hồi khốc
liệt và sắp kết thúc, chính phủ Việt Minh bận giải quyết chiến trường, vận động
ngoại giao, rồi ký kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRĐ tạm đình hoãn vì sợ tiếng
vang lan truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ
đình hoãn CCRĐ chứ không bãi bỏ.
Sau Hiệp định Genève ngày
20-7-1954, đảng Lao Động cai trị phía bắc vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải, Quảng
Trị). Ổn định xong tình hình, đảng Lao động mở lại cuộc CCRĐ giai đoạn 5. Lần
này việc tổ chức có quy củ rõ ràng, do Ủy ban CCRĐ đứng đầu.
Ủy ban cải cách: gồm hai cấp
trung ương và địa phương.
Cấp trung ương: do Tổng bí
thư đảng Lao động là Trường Chinh - Đặng Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ
tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều là ủy viên Bộ chính trị) và Hồ Viết
Thắng (ủy viên Trung ương đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp
điều hành cuộc Cải cách theo mệnh lệnh của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đã từng
đi học ở Trung cộng, được Trường Chinh giao nhiệm vụ mở "Trung tâm đào
tạo cán bộ Cải cách Ruộng đất" tại chiến khu Cao Bắc Lạng.
Cấp tỉnh: Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đã được đào tạo về
các tỉnh tổ chức các đoàn CCRĐ. Trung bình mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có
khoảng 100 cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu, quyền hạn tương đương với một bí
thư đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung ương, không qua
trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm nhiều đội,
mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay
bần cố nông, nhất là những người đã từng có kinh nghiệm tham gia các CCRĐ trước
đây. Các đội có quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh thẳng từ Ủy ban CCRĐ, đúng như
câu tục ngữ lúc đó "nhất đội nhì trời", được quân đội bảo vệ
để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa phương cung cấp đầy đủ tài liệu
theo chính sách của đảng và nhà nước. (Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-185).
Nguyên tắc hành động căn bản của
các Ủy ban CCRĐ là câu khẩu hiệu: "Thà chết mười người oan còn hơn để
sót một địch" (trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ - thư viện pháp
luật Việt Nam). Chính câu khẩu hiệu nầy đã đưa đến việc giết hại tràn lan biết
bao nhiêu lương dân vô tội.
Câu khẩu hiệu này xuất hiện trong
bài diễn văn của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn
Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956,
cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10
người oan còn hơn để sót một địch". Phương châm này đi ngược lại với
quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót còn
hơn một người bị kết án oan". Cụ thể các quy tắc pháp lý đã bị xâm phạm
là:
Không xử phạt các tội đã phạm quá
lâu đến hiện tại mới điều tra ra. Trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình
phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ con, gia đình. Muốn kết án một người phải
có bằng chứng xác đáng. Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị
can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá
trình truy tố và xét xử; khi bị can ra trước tòa không được xiềng xích và không
được dùng nhục hình.
Đoàn và đội công tác phóng tay phát
động quần chúng đấu tranh CCRĐ hoạt động theo kiểu khủng bố: Bí mật đến một địa
phương nào đó, bí mật hành động... và gieo rắc tai ương khủng khiếp cho địa
phương. Không những chỉ địa chủ, phú nông sợ hãi mà toàn thể dân chúng và cả
các cấp chính quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hãi, vì bất cứ ai cũng
có thể bị dính tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả.
Tòa án nhân dân: Sắc lệnh năm
1953 cũng như Sắc lệnh năm 1955 đều thiết lập tòa án nhân dân để xét xử
những tội phạm trong CCRĐ. Tòa án nầy được tổ chức ở những vùng có cải
cách, chánh án là một đội viên trong đội cải cách, biện lý (công tố) là một nông
dân hay bần nông đã từng làm việc (gia nhân, tá điền...) trong nhà của bị cáo,
biết rõ lý lịch khổ chủ. Các quan tòa nầy chỉ là những kẻ dốt nát, lâu nay thấp
kém, bỗng chốc được cất nhắc lên địa vị quan trọng, nên hạch sách trả thù, moi
ra hay bịa đặt mọi thứ gọi là thói hư tật xấu của khổ chủ, đặc biệt là tội dâm
ô, để đấu tố. Đặc biệt trong tòa án nhân dân không có người đóng vai trò
luật sư biện hộ, và cũng chẳng ai dám biện hộ cho bị cáo cả. Quân đội bảo vệ
tòa án và những người tham dự đều là những người do cộng sản sắp đặt trước, hò
hét khuyến khích người đóng vai "công tố", bằng cách chửi rủa hoặc tố
cáo thêm những “tội ác”.
2. Hậu quả của cải cách ruộng
đất:
Cộng sản độc quyền đất đai:
a. Theo nguồn tin từ phía Liên Xô,
cuộc Cải cách Ruộng đất đã tịch thu 702.000 mẫu tây ruộng đất, 1.846.000 nông
cụ, 107.000 trâu bò, 22.000 tấn thực phẩm. Tất cả những thứ đó đã được chia lại
cho 1.500.000 gia đình nông dân và bần nông. Như thế mỗi gia đình nhận được
0,46 mẫu tây, một nông cụ, và những gia đình 13 người mới nhận được một con
trâu hay bò. Theo tác giả Bernard Fall, một gia đình nông dân bốn người cần có
ít nhất 1,5 mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông nghiệp
phải đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd. tt. 271, 282).
b. Hoặc tài liệu của đảng cộng sản
trích trong cuốn: (Những điều cần nhìn lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN): “Cải
cách Ruộng đất đã tịch thu của bọn địa chủ và cường hào 760,000 mẫu ruộng đất
canh tác, 112,.000 con trâu bò và gia súc, 26,000 tấn thực phẩm, lương thực...
Sự phân chia đất đai theo đơn vị gia đình, dựa trên số thành viên thực sự lao
động và không dựa trên giới tính.”
Tuy chia đất cho nông dân, nhưng
sau cuộc CCRĐ, cộng sản tổ chức những hợp tác xã nông nghiệp, và ép nông dân
phải gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Quá khiếp sợ trước cảnh tra tấn trong
CCRĐ, không một nông dân nào dám phản đối. Thế là tất cả nông dân phía bắc vĩ
tuyến 17 đều phải gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Khi vào hợp tác xã, ruộng
đất riêng tư của nông dân đều phải nạp cho hợp tác xã, và trở thành ruộng đất
tập thể của hợp tác xã. Thế là chẳng những số đất đã được chia, mà cả đất đai
do cha ông để lại, cũng đều bị lọt vào tay hợp tác xã, tức vào tay nhà cầm
quyền cộng sản. Toàn thể nông dân nay trở thành vô sản, và nhà cầm quyền cộng sản
trở thành chủ nhân ông độc quyền của tất cả ruộng đồng nông thôn. Thật là một
tiến trình cướp đất rất hoàn hảo, mà không một nông dân nào dám lên tiếng tố
cáo.
Số lượng người bị giết:
Những địa chủ “Việt gian” hay địa
chủ “cường hào ác bá” đều bị tử hình. Trong trường hợp họ đã qua đời trước đó
lâu ngày, vợ con họ bị đem ra xét xử và kết quả không khác. Những địa chủ Việt
Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc) hay Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách),
dầu đã theo Việt Minh tham gia kháng chiến cũng bị tử hình. Những địa chủ các
đảng bù nhìn của chế độ Hà Nội như đảng Dân chủ, đảng Xã hội cũng chịu y số
phận.
Khi bị tử hình, bản án tử hình được
thi hành ngay tại chỗ bằng nhiều cách: bị bắn, bị trấn nước chết, bị phơi nắng
(không được ăn uống), hoặc bị đánh đập cho đến chết. Nhiều khi nạn nhân qua
đời, thân nhân không được cho phép chôn cất, xác bị để phơi nắng mưa. Gia đình
quá đau lòng, phải hối lộ các chức việc, rồi ban đêm đến ăn cắp xác đem đi
chôn.
a. Dựa vào tài liệu các nước ngoài,
giáo sư Lâm Thanh Liêm, cho rằng số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956
ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120.000 đến 200.000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd.,
sđd. tt. 203-204).
b. Theo sách Lịch sử Kinh tế
Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội
năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết cuộc CCRĐ đợt 5
(1955-1956) được thực hiện ở 3.563 xã, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người
bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172.008 người, trong đó có 123.266 người
(71,66%) sau này được xác nhận đã bị giết oan.
c. Trong chiến dịch CCRĐ giết người
có chỉ tiêu rõ ràng, cái chỉ tiêu ác độc ấy phải giết địa chủ ở mỗi xã cho đủ
5% dân số hoặc nhiều hơn càng tốt, càng được khen thưởng. Theo nhà văn Tô Hoài:
“Thế mà vượt hết, thắng lợi lớn, toàn đoàn truy được hơn năm trăm địa chủ
lọt lưới, đến bước ba đưa tỷ lệ 5% lên 7,24% đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ
về chính trị cũng như về kinh tế”. (Ba người khác - trang 206)
d. Nhà văn Trần Mạnh Hảo, rất bức
xúc với cái tỷ lệ giết người trong chiến dịch CCRĐ ở làng của ông cao hơn các
nơi khác: “Làng tôi là làng công giáo Bùi Chu Phát Diệm, là làng tề, làng bị
gọi là ác ôn, nên chỉ tiêu địa chủ trên giao nặng nhất: phải bắt cho được 15%
địa chủ là Bình Hải Đoài. Nghĩa là cứ 100 người dân thì phải nộp cho bác và
đảng 15 tên địa chủ”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)
Chính vì các đội cải cách thi đua
lập thành tích cho nên con số người dân vô tội đã bị giết một cách dã man đưa
con số lên đến hàng trăm ngàn:
e. “Ông Bùi Tín, một người bất đồng
quan điểm với chính phủ Việt nam cũng nêu lên con số nạn nhân là 500.000 người
do Michel Tauriac, nhà văn người Pháp đưa ra. Bùi Tín cho rằng con số nầy cũng
hợp lý nếu kể cả người bị giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự
tử” (Wikipedia tiếng Việt online ngày 19-5-2006).
f. “Một ý kiến cực đoan là của
Hoàng Văn Chí, người tin rằng 5% dân số miền Bắc (675.000 người đã chết). Cuốn
sách From Colonialism to Communism của ông nầy đã có tác động mạnh đến
cuộc tranh luận về vấn đề con số” (BBC online ngày 28-12-2006).
d. Các con số có thể kiểm chứng thêm tại links sau:
g. Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ
Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực
hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến
hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 người bị
quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy
sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu
tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.
Hay như trong cuốn Ownership
Regimes in Vietnam có đoạn nêu lên con số người chết là: 165.230 người
bị bắt oan sai và có khoảng 70% trong số này bị giết hại bằng tử hình tại chỗ
hoặc chết trong ngục tù.
Nền nông nghiệp bị suy sụp:
Thông thường, nhà cầm quyền tổ chức
CCRĐ nhắm giải quyết những sai lầm của nền nông nghiệp cũ, giúp nông gia tăng
gia sản lượng nông nghiệp, thăng tiến đời sống dân chúng. Nhưng cuộc CCRĐ của
Cộng sản chấm dứt năm 1956 lại đi đến kết quả ngược lại: đời sống nông dân tụt
hậu, sản lượng giảm xuống rõ rệt. Lý do vì trong các giai đoạn đầu của cuộc Cải
cách, đất đai bị chia thành nhiều mảnh nhỏ. Nông dân mới nhận đất chưa có kinh
nghiệm tổ chức sản xuất, thiếu tài chánh để mua trâu bò dụng cụ, phân bón để
cày cấy. Sau đó, vào cuối giai đoạn 5, việc suy sụp kéo dài nhiều năm vì nhà nước
cộng sản đưa ra kế hoạch hợp tác lao động, tổ chức hợp tác xã nông nghiệp và
những nông trường quốc doanh tập thể từ khoảng năm 1957, 1958. (Bernard Fall,
sđd. tt. 284-287).
Đảo lộn luân lý xã hội, tiêu diệt
tình người:
Chiến dịch CCRĐ của cộng sản đã khủng
bố tinh thần dân chúng, làm cho mọi người sợ hãi khép mình vào kỷ luật cai trị
cộng sản, và nhất là đánh tan nề nếp xã hội cũ, làm sụp đổ nền tảng luân lý cổ
truyền của dân tộc, tiêu diệt tận gốc rễ tình cảm giữa người với người. Trong
khi quyết tâm thực hiện phương châm “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận
ngọn” (nghĩa là tiêu diệt từ trên xuống dưới bốn thành phần trí thức, phú
thương, địa chủ, cường hào), cộng sản đã khuyến khích, ép buộc, đe dọa mọi
người tố cáo, đấu tố lẫn nhau, dù đó là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Do đó, chẳng
những đã xảy ra cảnh đấu tố giữa người với người ngoài xã hội, mà trong gia
đình cũng xảy ra cảnh đấu tố với nhau giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, và anh
chị em.
Những hình ảnh đấu tố do nhiếp
ảnh gia Liên Xô Dmitri
Baltermants (1912-1990) chụp tại Việt Nam 1955.
a. Nhạc sĩ Trịnh Hưng, hiện đang ở bên Pháp, là người bạn thân vừa về thăm
thi sĩ Hữu Loan và kể lại câu chuyện có liên quan đến tác giả bài thơ nổi tiếng
Màu tím hoa sim như sau:
“Ông ấy kể tôi nghe là: Lúc ấy, ông
ấy là trưởng Ban Tuyên huấn của Đoàn 304, do tướng Nguyễn Sơn phụ trách, quân
đội thì đói khổ lắm, chỉ có ăn khoai, ăn sắn, không có gạo mà ăn... Ông địa chủ
đó thì giàu, tháng nào cũng đem gạo đến, để nuôi quân cho... Chính tướng Nguyễn
Sơn tháng nào cũng làm lễ vinh danh cho ông ta, ban thưởng huân chương.
“Năm 1953, bị đấu tố, lan đến Thanh
Hóa, ông bà địa chủ ấy bị giết chết. Nhà thì chỉ có một cô con gái thôi. Nó cấm
tất cả mọi người, con trai, hay con gái, không được kết hôn với con nhà địa
chủ, không được nuôi con nhà địa chủ.
“Ông ấy (nhà thơ Hữu Loan) thấy bực
quá, mới bỏ về làng, đi qua làng ấy, ông ghé vào thăm, ông biết rằng ông bà cụ
bị giết rồi, cô con gái không ai nuôi cả, cô ấy phải đi mót sắn, mót khoai ở
ngoài đồng, ăn sống, để sống thôi, quần áo rách rưới bẩn thỉu lắm, ngủ ở đường,
ở đình làng, ông thấy thế, thương hại và đem về nhà nuôi... và bây giờ là vợ
ông ấy!” (RFA online ngày 19-5-2006)
b. Nhà văn Trần Mạnh Hảo, người bị đuổi ra khỏi đảng CSVN năm 1989 và đuổi khỏi
biên chế nhà nước viết cuốn “Ly thân” có bài “Độc quyền chân lý là
thủ tiêu chân lý”, đoạn ông viết về CCRĐ:
“Ông đội (tên gọi cán bộ CCRĐ từ
trung ương phái về) từ trên bàn xử án xông tới sát ông Luân bị trói, bị chôn
chân tới đầu gối trong chiếc “hố đấu tố”, đoạn hét: “mày có hô CCRĐ muôn năm
không?” Ông Luân trợn mắt, đôi mắt sưng tấy, lòi cả con ngươi ra...
“Sau đó, ông đội lên bàn xử án,
tuyên bố thay mặt đảng và bác vĩ đại, tuyên án xử tử hình gián điệp Quốc Dân
đảng Luân, lệnh du kích xã lên đạn rốp rốp thị uy; đoạn trói nghiến ông Luân
vào cọc bắn trên ruộng cạn mùa đông đang rét...
“Ông Luân bị bắn bằng bốn cây súng
trường. Bốn phát đạn cùng lúc đều trúng vào ngực ông Luân phụt máu, khiến ông
gục xuống liền, cái giẻ nhét miệng ông bị máu trào ra, rơi bịch xuống như một
cục máu đông, hay một mảnh phổi vở tràn ra ngoài”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)
c. Dưới đây là chuyện của cựu trung
tá QĐND Trần Anh Kim, hiện đang
ngồi tù 5 năm rưởi về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”
đã trả lời phỏng vấn của Việt Hùng, phóng viên đài RFA kể về hoàn cảnh của gia
đình ông bị xử một cách dã man trong chiến dịch CCRĐ như sau:
“Đến CCRĐ, sau năm 1954 giải phóng,
sau đó giảm tô, đến CCRĐ thì người ta quy cho ông tôi là địa chủ, và quy cho bố
tôi là QD đảng. Bố tôi là Phó bí thư QD đảng và bác tôi là Bí thư QD đảng. Bác
tôi bị bắn luôn, ông ấy nhận thì bị bắn luôn. Còn bố tôi thì kiên quyết không
nhận. Không nhận thì người ta tra tấn, người ta thắt hai dây thừng vào hai ngón
chân cái rồi người ta kéo lên sàn nhà, bố tôi đau quá, kêu khóc xin thả xuống.
Kêu khóc quá to thì người ta, lấy rơm, lấy rạ nhét vào mồm...
“Địa chủ ngày đó là địa chủ “phân”
anh ạ. Thí dụ mỗi thôn là mấy địa chủ thì cứ thế mà người ta đưa lên thôi. Cuối
cùng cũng bị tù không án hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi đi tù nhiều. Tức là
tay thì trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ
nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi”. (RFA online ngày 19-5-2006)
d. Để cổ vũ cho phong trào diệt
chủng “Thà sai hơn bỏ sót”, cộng
thêm với việc “Thi đua lập thành tích chống phong kiến” đã gây tình
trạng “kích thành phần”,“nống thành tích”, cố tìm ra nhiều địa chủ, phản
động, xử tử nhiều ác bá... để có được bằng khen, huân chương, để ngoi lên địa
vị cao hơn... hai nhà thơ cộng sản lúc bấy giờ thi nhau làm thơ cổ động chiến
dịch một cách hiếu sát như sau:
1- Tố Hữu:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút
nghĩ
Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau
xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước
chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin… bất
diệt”
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc-
trang 37)
2- Xuân Diệu:
“Anh em ơi! quyết chung lòng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tư thù
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan
xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm
nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết
thôi”.
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc-
trang 38)
Lời kể của người trong cuộc:
a. Ông Nguyễn Minh Cần, một người từng là phó Chủ tịch Ủy
ban hành chính thành phố Hà Nội và trực tiếp tham gia chiến dịch sửa sai cũng
phân tích về những hậu quả của cuộc CCRĐ. Trong cuộc phỏng vấn BTV đài Á Châu
tự do - Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần sau đây:
Nguyễn An: Thưa ông, bây giờ trở
lại cuộc CCRĐ cách đây 50 năm. Theo ông thì cuộc CCRĐ đó để lại những hậu quả
gì, di hại gì?
Ông Nguyễn Minh Cần: Cái CCRĐ ở miền Bắc Việt Nam để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng về rất nhiều mặt.
Nguyễn An: Xin Ông vui lòng phân
tách từng điểm một!
Ông Nguyễn Minh Cần: Điểm thứ nhất:
Đây là một cuộc tàn sát dân lành một cách vô tội vạ. Nếu nói theo từ ngữ hiện
nay thì phải nói đây là một cuộc diệt chủng vì kỳ thị giai cấp. Bỗng dưng lập
ra lệnh CCRĐ, đưa những đoàn người về và tha hồ qui người ta lên là địa chủ.
Trên 172.000 người là nạn nhân. Tôi
còn phải nói đến số người mà người ta oan ức quá, bực bội quá, người ta tự tử.
Số đó cũng không phải là ít. Theo tôi, hậu quả đó rất lớn, nó gây ra một tâm
trạng sợ sệt, khủng khiếp của người dân.
Hậu quả thứ hai là phá hoại truyền
thống hòa hiếu của nông thôn, là vì từ trước ai nói dù rằng có thể có bóc lột,
có thể có gì đấy với nhau, nhưng người nông dân sống với nhau là lá lành đùm lá
rách, rất hòa hiếu với nhau.
Cuộc CCRĐ về xúi người này bới móc
tội lỗi của người kia, và có thể những tội hoàn toàn không có cũng bới ra. Và
dựa vào những thù cũ rồi gây ra thù hận giữa các tầng lớp với nhau. Chính cái
đó nó phá hoại truyền thống đoàn kết lâu đời của người VN mình ở nông thôn.
Nguyễn An: Thưa ông, có phải ông
muốn nói rằng cuộc CCRĐ đặt trên cơ sở là gây sự căm thù để phát động quần chúng,
và sau đó sự căm thù đó lớn rộng và nó tiếp tục còn lại sau khi cuộc CCRĐ đã
chấm dứt không?
Ông Nguyễn Minh Cần: Đúng như vậy.
Nguyễn An: Thưa điểm thứ ba là gì?
Ông Nguyễn Minh Cần: Hậu quả thứ ba
là phá hoại đạo lý luân thường của dân tộc. Từ xưa đến nay cha đối với con, mẹ
đối với con, vợ chồng đối với nhau, họ hàng cha chú đối với nhau đều có một
luân thường đạo lý. Nhưng CCRĐ về xúi giục con tố cha, vợ tố chồng, nàng dâu tố
mẹ chồng, bố chồng v.v... đấu đá lẫn nhau như vậy.
Nguyễn An: Và gọi mày tao mi tớ
hết?
Ông Nguyễn Minh Cần: Vâng. Như vậy,
luân thường đạo lý tan hoang.
Nguyễn An: Thưa ông, theo ông thì
những cái mà phá hoại nền tảng luân lý đạo đức, rồi sự hòa hiếu ở trong nông
thôn đó cách đây 50 năm thì được khai thác tối đa để hoàn thành cuộc CCRĐ...
tinh thần như thế sau bao nhiêu lâu mới phục hồi được? Hay bây giờ nó vẫn còn
là những vết thương rỉ máu?
Ông Nguyễn Minh Cần: Theo tôi, vì
cho đến nay chưa có một sự sám hối rõ ràng. Chưa có một tuyên bố rằng chính
sách hận thù giai cấp là một chính sách không đúng. Phải nói thật rằng bây giờ
thì 50 năm đã qua thì người ta yên như vậy, nhưng lòng hận cũ không phải là đã
hết.
Còn một điểm tôi cũng muốn nói nữa
là hậu quả thứ tư: Nó phá hủy truyền thống tâm linh và văn hóa của dân tộc. Vì
khi làm CCRĐ thì các ông đều có cái ý hướng là tiêu diệt các tôn giáo, chèn ép
các tôn giáo, tước đoạt tài sản của các tôn giáo để làm cho các tôn giáo không
tồn tại được một cách độc lập.
b. Hỏi chuyện nhà văn Vũ Thư Hiên
(Phóng viên báo CE, 2006 - http://www.doi-thoai.com/vth_vuthuhien13.html)
CE: Vừa qua, một số tổ chức chính
trị tại hải ngoại có tổ chức kỷ niệm 50 năm Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam. Thưa
nhà văn Vũ Thư Hiên, ông có nghĩ rằng đây cũng lại là một sự ôn nghèo kể khổ
theo truyền thống lâu nay của dân tộc ta không ạ?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Bạn nghĩ rằng
"ôn nghèo kể khổ" là truyền thống của dân tộc ta ư? Thế thì khổ thật
đấy. "Ôn nghèo kể khổ" chỉ là một cách khêu gợi lòng căm thù của quần
chúng đối với các giai cấp bóc lột, nói theo cách của cán bộ Cải cách Ruộng đất
vào thập niên 50 của thế kỷ trước. Tôi không thấy có "một số" tổ chức
chính trị hải ngoại kỷ niệm 50 năm Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam. Tôi biết có
một tổ chức làm chuyện đó là Mạng Lưới Dân Chủ, dưới đầu đề "Không quên
những nạn nhân Cải cách Ruộng đất", tại Berlin. Nhưng không nên nghĩ
đó là một sự "ôn nghèo kể khổ" tương đương với cái "ôn nghèo kể
khổ" từng diễn ra ở nông thôn Việt Nam.
CE: Thưa, vào cái hồi Cải cách
Ruộng đất xảy ra ấy, ông đã bao nhiêu tuổi, và ông đang làm gì? Ở đâu?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Hồi ấy tôi mới
20 tuổi. Tôi còn rất ngây thơ về chính trị. Tôi tin thật ở khẩu hiệu
"người cày (phải) có ruộng", nên phải làm Cải cách Ruộng đất. Nghĩa
là tôi tin ở sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản. Tôi lúc đó
làm nghề quay phim. Tôi làm phụ quay phim cho nhà quay phim Liên Xô Eshurin
trong ê-kíp làm phim "Việt Nam trên đường thắng lợi" (hay
"Việt Nam chiến đấu", theo tên Nga) của đạo diễn Roman Karmen. Đội
của Eshurin có trách nhiệm quay một đoạn về Cải cách Ruộng đất tại Thanh Hóa.
Cảnh cha con người nông dân kéo cày thay trâu ngày nay được coi như ảnh tư liệu
trong các bảo tàng Việt Nam về đời sống nông dân trong thời Pháp thuộc là do
tôi chụp chính trong thời kỳ đó, ở gần đầm Rủn, Thanh Hóa. Đó là một cảnh dựng
lại để quay phim, không phải cảnh thật. Hồi ấy tôi thành thật tin rằng có thể
dựng lại các cảnh cũ để rồi thừa nhận nó là thật, miễn nó giống thật. Cái đó
nằm trong quan niệm của cái gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa.
CE: Đã có rất nhiều người nói về
khí thế của nhân dân ta trong những ngày Cải cách Ruộng đất... Theo ông, cái
hừng hực như lửa ấy ở đâu mà có, tại sao nó duy trì được và sự duy trì ấy được
bao nhiêu lâu?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Khí thế hừng
hực trong Cải cách Ruộng đất? Tôi không trực tiếp tham gia cuộc Cải cách Ruộng
đất (khi nó diễn ra tôi đang học ở Moskva), tôi không làm chứng được cho cái
khí thế ấy. Nhưng tôi tin rằng nó đã có, bằng vào cái mà tôi thấy trong cuộc
giảm tô giảm tức đi trước Cải cách Ruộng đất từ năm 1953. Người nông dân được
(hay bị) tuyên truyền rằng phải đánh đổ địa chủ cường hào gian ác thì đời sống
của họ mới khá hơn, thì họ ào ào theo. Ai chẳng muốn đời sống khá hơn, nhất là
trong khi đời sống hiện tại thì lại quá cay cực? Đáng buồn là trong khí thế đi
tìm cái đời sống khá hơn người ta quên bẵng nhiều thứ: đạo đức, tình thương yêu
giữa con người với con người, quyền con người của người khác... Đảng cộng sản
khuyến khích sự quên đó.
CE: Thưa nhà văn Vũ Thư Hiên, ông
có được chứng kiến một cuộc đấu tố nào không? Người ta đã tiến hành nó như thế
nào vậy?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Tôi được chứng
kiến một cuộc đấu tố duy nhất. Đó là cuộc đấu địa chủ Nguyễn Bá Ngọc tại Thanh
Hóa. Tôi, với tư cách người quay phim, tôi được có mặt ở mọi chỗ. Kể chuyện
người ta tiến hành nó như thế nào thì dài lắm. Tôi nói tóm lại: nó được bố trí
chu đáo như một vở tuồng. Những người nông dân được tập đấu (tố cáo tội ác của
địa chủ) nhiều ngày trước khi có đấu thật. Đến khi đấu thật thì đấu lưng trước
(tức là địa chủ quay lưng lại người đấu), sau mới đấu mặt (mặt đối mặt). Sở dĩ
phải làm như thế là vì nhiều khi người đấu nhìn thấy mặt người bị đấu thì không
nỡ đấu nữa (cũng là bà con lối xóm với nhau cả!). Đến cả địa chủ cũng được các
đạo diễn (ông đội) hướng dẫn tỉ mỉ: phải quỳ thế nào, không được phép ngẩng mặt
lên khi nghe những câu không đúng (các ông bà nông dân bao giờ cũng đúng, đảng
bao giờ cũng đúng...) Rất phường tuồng. Buồn cười không chịu được. Nhưng chỉ
dám cười thầm. Có lẽ ai cũng thấy cái chất buồn cười trong hoàn cảnh rơi nước
mắt ấy. Nhiều chuyện thương tâm lắm.
CE: Thưa... Trước, trong và sau
cuộc Cải cách Ruộng đất, ông đã có lần nào, lúc nào được tiếp xúc với những nạn
nhân của nó, và ông thấy, thái độ, tình cảnh của họ trong từng giai đoạn như
thế nào?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Trước hết, tôi
xin nói lại điều tôi đã nói nhiều lần: đảng cộng sản cầm quyền ở nước nào cũng
rất giỏi sản xuất ra kẻ thù. Trong kháng chiến chống Pháp, khi chưa có viện trợ
của Trung Quốc, bộ đội sống nhờ dân, mà chủ yếu là những người nông dân lớp
trên, một số sau này được quy thành địa chủ cường hào gian ác. Không có họ, bộ
đội không có cái ăn để đánh Pháp. Tôi biết điều đó một cách chắc chắn bởi lúc
ấy tôi ở trong bộ đội. Tức là đảng cộng sản đã bịa cho những người nông dân
giàu vai trò kẻ thù. Ngay cả trong trường hợp họ giàu có, họ cũng không dĩ
nhiên phải chống cách mạng giải phóng dân tộc. Bằng chứng là phần nhiều đảng
viên Quốc dân đảng thuộc tầng lớp này. Về sau này những kẻ thù do đảng cộng sản
bịa ra rồi có trở thành kẻ thù thật của Đảng thì cũng đáng lắm. Tất nhiên, sau
CCRĐ tình cảnh địa chủ (hay những người bị quy là địa chủ) thê thảm lắm. Đến cả
con cái họ cũng bị trù dập, không cho đi học, không cho đi làm. Đảng CS thù dai
lắm, thù theo sách (chứ người ta lúc ấy có thù gì Đảng đâu), đã thế lại còn hẹp
hòi đến tởm lợm. Chẳng cứ con cái địa chủ, con cái tư sản cũng vậy. Con cái
những người bị coi là đối tượng cách mạng cũng thế. Trong chuyện này gia đình
tôi có kinh nghiệm bản thân. Tốt nhất là đừng có chơi với một Đảng như thế. Đã
trót bắt tay nó thì nhớ xem lại tay mình còn mấy ngón.
CE: Người ta bảo, vào những ngày
ấy, có thể thấy bóng dáng của các cố vấn Trung Quốc ở khắp mọi nơi... Điều đó
có đúng không, thưa ông... Đã có lúc nào ông có dịp được tiếp xúc với một trong
những ngài cố vấn đó không? Cảm tưởng của ông về các ngài như thế nào?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Điều đó không
đúng. Cố vấn Trung Quốc có ở cấp Trung ương và ở các Đoàn ủy Cải cách ruộng
đất. Nhưng họ rất ít lang thang ngoài đường để tìm cà phê. Tôi chưa gặp họ ở
khắp mọi nơi như bạn hỏi.
CE: Hình như những người lãnh đạo
đảng CSVN thích dùng mấy chữ cải cách, cải tạo... Sau cuộc Cải cách Ruộng đất
này, theo từng thời kỳ của cách mạng, họ còn có những cuộc cải tạo tư sản tư
thương ở miền Bắc và miền Nam, cải cách giáo dục, cải cách hành chính, cải cách
tiền tệ, lương bổng, cải tạo thanh thiếu niên hư hỏng, cải tạo gái mãi dâm, cải
tạo bọn chích choác xì ke, ma túy... và đặc biệt là cuộc cải tạo hàng triệu sỹ
quan và những người đã phục vụ trong chính quyền Sài Gòn trước 1975, ý kiến ông
về vấn đề này như thế nào?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Những người
cộng sản Việt Nam chỉ thích chữ cải tạo thôi. Mọi thứ cải tạo: cải tạo tư
tưởng, cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp, tập trung cải tạo... được
tiến hành trong sự chủ động. Còn cải cách thì họ không thích đâu. Họ cho rằng
cải cách không có tính chất cách mạng, triệt để, một thứ cải lương. Người ta
phải dùng từ cải cách là khi nào muốn giảm nhẹ trọng lượng chính trị của câu
nói. Hoặc một cái gì đó chưa đáng để gọi là cải tạo.
CE: Thưa nhà văn Vũ Thư Hiên! Cuộc
trao đổi của chúng ta đã hơi dài. Vì thời gian không cho phép, nên xin hỏi ông
câu cuối cùng: Xin ông nói một đôi điều tóm lại về bản chất của những cái gọi
là cải cách, cải tạo ấy?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Bản chất của
cải tạo, cải cách? Nên chăng dùng chữ mục đích? Mọi hành động của Đảng cộng sản
bao giờ cũng chỉ nhằm đoạt lấy và giữ cho chặt chính quyền. Bạn thấy đấy: trong
bất cứ lĩnh vực nào có nảy sinh mâu thuẫn và đấu tranh thì Đảng cộng sản đặt
ngay vấn đề ai thắng ai? Tất nhiên Đảng cộng sản phải thắng.
CE: Xin cảm ơn ông và chúc ông dồi
dào sức khỏe.
c. Học giả Hoàng Xuân Hãn nói lên
cái nhận định của mình về chiến dịch CCRĐ khi trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê
trên đài RFA:
“Cái mất mát lớn bởi sai lầm trong
CCRĐ là nó phá vỡ mất cái nông thôn Việt Nam và phá vỡ mất lòng tin. Cái nguy
hại của CCRĐ là ở chỗ nó phá vỡ một tế bào quan trọng vào bậc nhất của xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ là làng quê”. (Người
Việt ngày 7-9-2004).
d. Cố thủ tướng CSVN Võ văn Kiệt,
người có nhiều trăn trở trong việc làm của mình đã qua, ông cũng nói lên quan
điểm của mình về chiến dịch CCRĐ sau khi đã không còn chức vụ gì trong chính
phủ:
“Trong các chiến dịch CCRĐ và cải
tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công
với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính
trị và kinh tế” nhằm khẳng định đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh của
đất nước.”
e. Ông Đoàn Duy Thành, nguyên phó
thủ tướng chính phủ, người đã từng kể về mật lệnh Z 30 tịch thu nhà hai tầng
trở lên hồi sau năm 1975 viết về CCRĐ trong cuốn “Lý luận HCM” ông nói lên cái
nhận định của mình về cái chiến dịch này:
“Những sai lầm của CCRĐ đã để lại
hậu quả lâu dài cho dân tộc, cho đất nước, là sự hận thù, sự lừa dối, xảo trá,
vu khống như: tố điêu, ép cung, bịa chuyện... gây tai họa cho bao gia đình, làm
mất đi những truyền thống tốt đẹp về gia đình, họ hàng, làng xóm, mà cha ông ta
đã dày công xây dựng hàng nghìn năm...
“Những sai lầm trong việc đấu tố
không chỉ có trong CCRĐ, mà cũng phổ biến trong cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh, nhưng cải tạo công thương chỉ làm ở một số thành phố và tiến hành
sau CCRĐ nên phần nào giảm bớt sai lầm, khuyết điểm, tác hại của nó cũng chỉ
thu hẹp trong một số thành phố”. (Bauxite
Việt Nam online ngày 16-11-2010)
f. Cụ Nguyễn Văn Trấn, một lão
thành cách mạng nổi tiếng của miền Nam trong quyển “Viết cho Mẹ và Quốc hội” cho chúng ta
thấy được rõ ràng sự nô lệ của chính phủ Hồ chí Minh trước đế quốc Trung cộng
là như thế nào. Họ ngửa tay nhận viện trợ của Trung cộng để đánh Pháp, Mỹ giải
phóng dân tộc, nhưng lại tròng vào cổ dân tộc một ách thống trị nguy hiểm hơn,
tàn bạo hơn và lâu dài hơn.
“Ác hết sức là cố vấn Trung quốc
hiến cho cái kế Phóng tay. Phóng tay! Nói nôm na (theo Nam bộ) là “cứ việc làm
mạnh thả cửa”. Và họ dẫn lời vàng ngọc ngụy biện, “à la” Mao Trạch Đông.
“Kiểu uông tất tu quá chỉnh”. Có
nghĩa là: muốn uốn khúc cây cong, ắt phải kéo nó quá chiều.
“Trời ơi! đảng của tôi đã nghe lời
người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó trở lại giết chết bao vạn sanh
linh...
Có lần anh chị em Nam bộ “Đại biểu”
tôi đến gặp ông già Tôn mà hỏi, tại sao ổng để cho CCRĐ giết người như vậy?”
“Bác Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi,
liền đứng dậy bước ra khỏi ghế, vừa đi và nói: “Đụ mẹ, tao cũng sợ nó, mầy biểu
tao còn dám nói cái gì?
“Quả thật, lúc CCRĐ còn nghe theo
Chệt mà phóng tay phát động ai mà có ý kiến với nó thì sẽ bị quy là có tư tưởng
địa chủ”. (VCMVQH- trang 266-267)
g. Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, một nhà
trí thức trẻ lớp hậu sinh góp lời nhận định về công cuộc CCRĐ của HCM khi trả
lời phỏng vấn của Duy Ái đài VOA:
“Theo tôi cột mốc rõ nhất cho sự
phi dân chủ hóa để trở thành độc tài toàn trị của chính thể Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, một cái tên rất dân chủ, là việc đảng Lao Động VN phát động CCRĐ,
được cụ Hồ gọi là “cách mạng long trời lở đất”, vào năm 1953. Bao trùm toàn bộ
“cách mạng” này là sự tùy tiện của chính phủ cụ Hồ trong việc bắt giữ, hành hạ,
bắn giết, tịch thu gia sản đối với hàng trăm nghìn người Việt Nam. Các thủ tục
tư pháp thông thường đã có từ thời thực dân Pháp hay các quy định phải tôn
trọng pháp luật và quyền con người được ghi trong Hiến pháp 1946 đều không được
đếm xỉa trong CCRĐ”. (VOA online ngày 15-9-2010)
3. Ông Hồ Chí Minh - người chỉ
đạo CCRĐ:
a. Người viết ra cương lĩnh hành
động làm tiền đề cho CCRĐ:
Ông Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông ta tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lãnh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 08/02/1928, ông viết:
"Tôi tranh thủ thời gian viết
'những ký ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục
Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những ký ức của
tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân ủy nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu
và hiện là lãnh tụ của nông dân cách mạng". (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265).
Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và
dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "... đồng chí Bành Bái ở Trung
quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ
chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong
kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).
Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền
thân của Đảng cộng sản Việt Nam) được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy
việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông
dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược thứ hai của Đảng cộng sản ghi rõ: "Đảng
phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày
nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc
bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang
297). Chương trình hành động thì hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số
quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong
kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Chúng ta nên nhớ các
văn kiện thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng
sản, soạn ra.
Ít tháng sau, ĐCS đã lãnh đạo nông
dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí
- phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho
cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến.
Kết luận: Ông Hồ Chí Minh là người chỉ ra đường lối của CCRĐ đẫm
máu. Ông ta là người phát biểu và người viết các cương lĩnh hoạt động cho đảng
cộng sản. Vậy tội của ông ta có thể xem là chủ mưu. Tuy nhiên để rõ ràng hơn
xin quý vị chú ý các điểm sau đây.
b. Những hành động cụ thể:
Ngày 25/01/1953, tại Hội nghị lần
thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, ông Hồ Chí Minh chủ tọa, đọc
báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm
tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.
Ngày 12/04/1953 Hồ Chí Minh ban
hành Sắc lệnh số 150 /SL về Cải Cách Ruộng Đất, tịch thu ruộng đất của
thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.
Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5
Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định
tiến hành CCRĐ.
Trong báo cáo trước Quốc hội khóa I
kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu "Phương châm của Cải Cách Ruộng
Đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn
tập, tập 6 trang 509). Hành động kêu gọi “ phóng tay” chính là sự cổ vũ giết
người của Hồ Chí Minh.
Cũng trong báo cáo trước Quốc hội
này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy
5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..."
(Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đã giết hại không
biết bao con người vô tội.
c. Ông Hồ Chí Minh gọi cuộc tắm máu
nhân dân là “Chiến thắng”:
Trong hội nghị “Tổng kết thành
tích Cải cách nông nghiệp đợt 5”, Hồ Chí Minh đã gởi văn thư đề ngày
1-7-1956 cho đoàn cán bộ CCRĐ, trong đó có đoạn viết:
“Bác thay mặt Đảng và chính phủ gởi
lời an ủi gia đình những cán bộ đã hy sinh vì nhiệm vụ, đợt 5 Cải cách Ruộng
đất rất gay go, phức tạp. Song nhờ chính sách đúng đắn của Đảng và chính phủ,
nhờ nông dân hăng hái đấu tranh nên chính sách Cải cách Ruộng đất đã thu được
thắng lợi to lớn... Giai cấp địa chủ đã bị đánh đổ, các tổ chức ở xã đã được
trong sạch hơn v. v... và bản thân cán bộ được thử thách, rèn luyện...”
Trong một lá thư, đề ngày
18/08/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đã
hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng
to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ
ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp:
"Cải Cách Ruộng Đất là một
cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất,
quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa
nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của
Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho
nên khi CCRĐ đã xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507).
Riêng việc "kẻ địch phá
hoại điên cuồng" đã được ông giải thích như sau: "Như con giun
không biết nhảy, khi ta dẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa
chủ cũng thế". (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).
Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm
ngày thành lập ĐCSVN, 06/01/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến
chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố:
"Buổi đầu kháng chiến, Đảng
vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến
đã phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là
nông dân thì Đảng đã cương quyết phát động quần chúng Cải Cách Ruộng Đất hoàn
thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng
kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596).
4. Kết luận phần 1:
Kính thưa quí vị!
Trong sự kiện cải cách ruộng đất
này đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh đã vi phạm hiến chương LHQ về
nhân quyền cũng như vi phạm tội ác diệt chủng và chống lại loài người.
Nhân dân Việt Nam yêu chuộng tự do
và hòa bình luôn mong muốn những tội ác đó cần phải được lên án và làm rõ trước
cộng đồng quốc tế.
Phần 2: Vụ án nhân văn giai phẩm:
1. Giới thiệu về Nhân Văn – Giai
Phẩm:
Nói về Cải cách ruộng đất thì
đó là một cuộc thảm sát với phú nông, địa chủ... trong đó có phần lớn là oan
sai. Nhưng nhắc đến Nhân văn Giai phẩm lại là câu chuyện khác. Lần này
đến trí thức cũng bị tiêu diệt. Lý do rất đơn giản cho sự tiêu diệt đó là họ
dám viết, dám nghĩ đúng với những gì họ nhận thấy được từ xã hội thối nát của
cộng sản. Họ cần nghệ thuật gắn liền với tư tưởng tự do, dân chủ nhưng... đó là
cái gai trong mắt cộng sản.
Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm là phong trào được cho là có xu hướng chính trị, đòi tự
do dân chủ của một số văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khởi
xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.
Phong trào này có một tờ báo cho
mình với tên gọi Nhân Văn, đây là một tờ báo chuyên về văn hóa, xã hội,
có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội. Đứng đầu tờ báo là ông Phan Khôi làm chủ
nhiệm và ông Trần Duy làm thư kí tòa soạn. Ngoài ra nó còn cùng với tạp chí Giai
Phẩm, hình thành nên nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm (NVGP).
Mục tiêu hoạt động của nhóm NVGP là
giúp cho sự tự do suy nghĩ, tự do trong sáng tác của các văn nghệ sĩ. Họ muốn
hướng tới một quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật thực sự. Nghệ thuật theo tiêu
chí của nhóm này phải tách khỏi chủ trương tô hồng cách mạng giả dối của văn nô
cộng sản. Xin nêu ra đây một số ví dụ nhỏ để thấy chủ trương hết sức hợp lý của
nhóm NVGP trong vấn đề trung thực, dân chủ trong xã hội VNDCCH lúc đó.
Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân
được ấn hành tháng giêng năm 1956, do nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương,
về sau bị tịch thu, có bài “Nhất định thắng” của nhà thơ Trần Dần, miêu
tả hoàn cảnh đời sống miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong những ngày đầu đất nước
chia cắt, tác giả bài thơ bị qui kết chống phá, “bôi đen” chế độ,
với những câu thơ nổi tiếng:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ...
Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của ông Trần Đức Thảo về
mở rộng dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng
nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân văn số 4 ra ngày 5 tháng 11
năm 1956. Trong số cuối cùng, Nhân văn số 5, ông Nguyễn Hữu Đang nhận
xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so
sánh với tình hình thực tế lúc bấy giờ.
Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban
hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và
phát hành. Tổng cộng Nhân Văn ra được 5 số báo và Giai Phẩm ra được 4 số báo
(Tháng Ba, Tháng Tư, Tháng Mười và Tháng Chạp 1956) trước khi phải ngừng xuất
bản.
Sau đó, hầu hết các văn nghệ sĩ
tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi học tập cải tạo về tư tưởng xã
hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian dài: Lê Đạt, Trần Dần, số khác
không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương, thậm chí có người bị giam giữ
trong một thời gian dài và tiếp tục bị giám sát trong nhiều năm sau khi mãn tù
như trường hợp ông Nguyễn Hữu Đang. Dư luận chung thường gọi đây là “Vụ
án Nhân Văn-Giai Phẩm.”
Trong số này đa phần là những nghệ
sĩ nổi tiếng, là tinh túy của nền văn học nghệ thuật nước nhà. Họ thực sự là
những tri thức đáng kính với những tư tưởng tự do, dân chủ nhưng đã bị đảng
cộng sản kìm kẹp và bức bách cả về tư tưởng lẫn thân thể. Ắt hẳn chúng ta không
thể nào quên một Hữu Loan đằm thắm nhưng cương trực với “Màu tím hoa sim”
bất hủ. Ấy vậy mà ông cũng như hàng chục văn nghệ sĩ ấy đã bị đảng cộng sản vu
khống, chụp mũ cho tư tưởng chống đảng, phản động.
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm quy
tụ những người trí thức can đảm nhất ở miền Bắc Việt Nam trong thời đại của họ.
Sau bài thuyết trình của Nguyễn Mạnh Tường, trong hai số báo Nhân Văn vào tháng
11 năm 1956, Nguyễn Hữu Đang đã hai lần nêu cao chủ trương phải thiết lập một
chế độ pháp trị. Ông nêu ra những điều trong hiến pháp năm 1946 bảo đảm các
công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do hội họp, tự do cư trú,
tự do đi lại, vân vân. Điều 11 nói: “Tư pháp chưa quyết định thì không được
bắt bớ giam cầm người công dân Việt Nam” nhưng ngay trong thời đó các nhà
trí thức như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Đặng Đình Hưng cũng bị đi “cải tạo”
không thời hạn; các văn nghệ sĩ như Trần Dần, Tử Phác vô cớ bị bắt giam.
Nhân Văn Giai Phẩm là một đợt bộc
phát trào lưu tư tưởng dân chủ ở miền Bắc Việt Nam có tiền đề ngay từ khi hình
thành nhà nước VNDCCH lưỡng sinh giữa DCTS và toàn trị cộng sản tiến dần đến mô
hình kiểu chủ nghĩa Mao, phát sinh trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội nhưng
mạnh mẽ nhất là lĩnh vực ngôn luận mà lực lượng hăng hái nhất là trí thức khoa
học xã hội và văn nghệ sỹ, tập trung xung quanh hai ấn phẩm là báo Nhân Văn và
tập san Giai Phẩm.
Có lẽ cần phải cho mọi người nghe ý
kiến của ông Nguyễn Hữu Đang trả lời Thụy Khuê ngày tháng 9- 1995 khi bà hỏi
thực chất của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là gì:
“Thực chất phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người
trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không
phải chống đảng cộng sản đâu, mà là chống cái chủ nghĩa Staline và chống chủ
nghĩa Mao Trạch Đông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao trạch
Đông đưa đến nhiều hiện tượng- nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực
quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm... Nó gay gắt ghê lắm!”
2. Tội ác!
Tập tài liệu tựa đề “Bọn Nhân
Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận” do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị
Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là tài liệu đầu tiên, tập hợp
những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội NVGP của đảng
cộng sản Việt Nam. Trong phần cuối cuốn sách, có một chương nhỏ, trích “những
lời thú tội” của các thành viên NVGP, còn hầu như toàn thể dành cho phía công
tố “phát hiện tội”, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã ngay từ miệng, hoặc từ
ngòi bút của giới được gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với các
đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP.
Tập tư liệu dày 370 trang này -
chứng tích một thời mà chữ nghĩa đã đạt tới đỉnh cao của sự bồi bút - còn hữu
ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về
tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của
cuộc đấu tố. Đồng thời nó cũng gián tiếp trả lời những lập luận gần đây, cố
tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc của phong trào NVGP thành một cuộc “đánh
đấm nội bộ”, tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự
do tư tưởng.
Trong cuốn sách đó có viết:
“Nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm phản đối
văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối
chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc
lập" của văn nghệ, rêu rao 'sứ mạng chống đối' của văn nghệ, thực ra chúng
muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
Nhóm 'Nhân Văn - Giai Phẩm; phản
đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên 'con người' trừu tượng, thực ra
chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
Nhóm 'Nhân Văn - Giai Phẩm' hằn học
đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền
văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa,
chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
Nhóm 'Nhân Văn - Giai Phẩm' phản
đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi 'trả văn nghệ cho văn nghệ
sĩ', thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.”
Điều này cho thấy sự quy chụp táo
tợn và trơ trẻn của đảng cộng sản với những văn nghệ sĩ thực thụ muốn dùng ngòi
bút nghệ thuật vào đóng góp cho dân chủ. Hành động đánh phá và quy chụp này cho
thấy đảng cộng sản độc tài chính là kẻ thù không đội trời chung của tự do, dân
chủ.
Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung
ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên
truyền được coi là người dập tắt phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Trong cuốn “Qua
cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn - Giai Phẩm” trên mặt trận văn
nghệ, nhà xuất bản Văn Hóa, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về
phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:
“Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai
Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp,
mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ
quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm;” (trg 9. Sđd).
Hay có đoạn:
“Trong cái công ty phản động
"Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt
tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn
gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng
Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều
là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố
giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và
chế độ”. (trg 17. Sđd).
Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn
- Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan
điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm như sau:
“Những tư tưởng chính trị thù địch
Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản. Xuyên tạc mâu
thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo. Chống lại
chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa. Gieo rắc
chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô
sản.”
Đến đây ta có thể thấy đội ngũ văn
nô của đảng cộng sản đã cố tình nhào nặn lên một hình tượng ngược lại hoàn toàn
với những gì được coi là sự thật về NVGP. Đảng cộng sản đã cố tình quy chụp một
cách vô lý những trí thức dám nói thẳng thật về những nghịch lý trong xã hội
độc tài cộng sản.
Đối với văn nghệ do đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, Trường Chinh là người đã đưa các quan điểm văn nghệ của Mao
Trạch Đông vào hoạt động Văn hóa Cứu quốc từ năm 1943, kiên trì bảo vệ nó cho
tới khi đổi mới, đã tạo ra rất nhiều vụ án văn nghệ khác nữa, là nhân tố chính
làm cho nền văn nghệ Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền nhưng tụt hậu so
với sự phát triển chung của văn nghệ nhân loại. Trường Chinh thì xuyên suốt các
văn kiện từ khởi thủy cho đến sau này đều dựa trên các nguyên lý văn nghệ của
Mao Trạch Đông: "bắt văn nghệ phục vụ chính trị, lấy mục tiêu sáng tạo
văn nghệ là phục vụ công nông binh, phục vụ tuyên truyền như là một mệnh lệnh
tuyệt đối cho văn nghệ sĩ". Chưa bao giờ thấy ông đưa ra các yếu tố tự
do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do ngôn luận làm điều kiện cho sự thành công
của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Ấy là chưa nói đến phương pháp lập luận của
Trường Chinh đầy chất ngụy biện, giả dối, phản khoa học, thực dụng về chính
trị. Rất nhiều mệnh đề của ông khi đưa vào vận hành quản lý văn nghệ đều đi
ngược lại với tinh thần của nó. Và chính bản thân ông trong một số trường hợp
cụ thể đối với một số tác phẩm đã thể hiện thái độ hẹp hòi, thiển cận, quy
chụp, trù dập văn nghệ sĩ.
Ngược lại Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn
Đình Thi quan niệm:
“... để thực hiện nền văn hóa mới,
trước hết chúng ta phải củng cố nền độc lập hoàn toàn và làm thực hiện chính
thể dân chủ cộng hòa triệt để... Ban bố triệt để quyền tự do tư tưởng và tự do
ngôn luận, chính là cởi mở cho văn hóa trở nên sầm uất, và đem một luồng sinh
khí mạnh mẽ thổi vào cái văn hóa bao lâu phải sống trong những phòng ngục chật
hẹp, thiếu ánh sáng, thiếu hơi nóng của mặt trời. Sách vở và báo chí được xuất
bản tự do, nền văn nghệ của ta mới có thể dồi dào phong phú”.
Chính vì có sự khác biệt quá lớn về
tư tưởng và những yếu tố chính trị trong việc tồn vong của đảng cộng sản trước
những bài viết phơi bày sự thật, đảng cộng sản đã trả thù hèn hạ với những
người thuộc nhóm NVGP.
Ngày 10-12-1959 Tòa án nhân dân
Hà Nội khai mạc phiên tòa xử Vụ án gián điệp hoạt động phá hoại hiện hành. Nội
dung bản án kết tội như sau:
“Chúng là những tên gián điệp phản
cách mạng, phá hoại hiện hành, hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch,
tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý đê hèn nhất, những hoạt động phá
hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc.”
Kết quả tuyên án như sau:
Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù giam, 5
năm quản chế sau khi ra tù.
Lưu Thị Yến tức Thụy An 15 năm tù
giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù,
Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức 10 năm
tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
Phan Tại 6 năm tù giam, 3 năm quản
chế.
Lê Nguyên Chí 5 năm tù giam, 3 năm
quản chế....
Ngoài ra sau đó còn tiếp tục có
những hoạt động là dư âm hậu quả của NVGP về sau này:
Năm 1960: Phùng Cung bị bắt. Lý do:
Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất mãn, chống đối, phản động.
Năm 1968: Vụ án xét lại chống Đảng.
Bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Trần Minh Việt, Trần
Thư, Vũ Thư Hiên, Lê Trọng Nghĩa, Huy Vân... Nhiều văn nghệ sĩ nhất là những
người đi học ở Liên Xô về hoặc có quan hệ với Liên Xô bị đưa vào diện phân biệt
đối xử.
Năm 1982: Hoàng Cầm bị bắt cùng
Hoàng Hưng vì việc định đưa tập thơ Về Kinh Bắc ra nước ngoài. Hoàng Cầm bị
giam 18 tháng, Hoàng Hưng bị giam 39 tháng.
Về sau này, các nhà trí thức trong
NVGP khi viết hồi ký hoặc phát biểu về quãng đời trong tăm tối của mình trong
lao tù cũng như trong cuộc sống thường nhật đã miêu tả rất rõ về những cái ác
mà đảng cộng sản gây ra cho họ.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường qua bài
phát biểu rất quan trọng trước Mặt trận Tổ quốc Hà Nội ngày 30-10-1956 đã phân
tích những sai lầm của chính quyền đi từ sai lầm CCRĐ ở nông thôn sang sai lầm
trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ. Ông
chỉ ra nguồn gốc các sai lầm đó và trình bày những nguyên tắc để sửa sang lại
bộ máy pháp luật, chính trị của đất nước. Ông phê phán khẩu hiệu: "Thà
chết 10 người oan còn hơn để sót một địch không những quá tả một cách vô lý mà
còn phản lại cách mạng". Năm 1992 tại Paris nhà xuất bản Quê mẹ của Võ
Văn Ái in cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường Un
Excommunié (Kẻ bị khai trừ) với tiểu tựa Hanoi 1954-1991: Procès d'un
intellectuel (Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức). Cuốn sách nêu lên
những sự thật khi bị o ép, theo dõi của đảng cộng sản với ông trong cuộc sống
đói khổ, thiếu thốn.
Những sự việc bỉ ổi của đảng cộng
sản còn thể hiện qua việc đối xử bất công với nhà thơ ưu tú Hữu Loan. Hay như
một người nữ nghệ sỹ Thụy An đã phải chịu cảnh mù lòa, tàn tạ trong nhà tù cộng
sản được miêu tả qua cuốn sách “Thép đen” của Đặng Chí Bình.
Ngoài ra năm 2001 Nhà xuất bản
Văn Nghệ California Hoa Kỳ xuất bản cuốn nhật kí của Trần Dần tên là “Trần
Dần” ghi trích những ghi chép của Trần Dần trong hai thời kỳ CCRĐ và NVGP
1954-1960. Đặc biệt đây là một cuốn sách thật nhất về NVGP, về cuộc sống thời
kỳ này của dân tộc mà người ta không thể tìm thấy các hình ảnh rớm máu ấy trong
các tác phẩm tuyên truyền công khai ở miền Bắc. Cùng với đó còn có một số cuốn
khác đề cập đến NVGP như: “Hồi ký Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên do
NXB Văn nghệ ở Hoa Kỳ...
Với các nhà trí thức yêu nước hoạt
động trong lĩnh vực nghệ thuật thì việc quy chụp họ phản động đã là một tội ác.
Vì vũ khí chiến đấu cho công bằng dân chủ xã hội của họ chính là ngòi bút và
tác phẩm. Kết luận vu khống của đảng cộng sản giành cho họ là một tội ác. Nhưng
chưa dừng lại ở đó. Đảng cộng sản còn bắt họ vào tù, đày ải và hành hạ họ trong
cuộc sống. Đó là một tội ác không thể chấp nhận được đối với trí thức.
3. Những kẻ chủ mưu:
Như đã nói ở trên, Trường Chinh và
đảng cộng sản của ông ta chính là kẻ thù trực tiếp trong vụ án NVGP. Trường
Chinh chủ trương áp đặt tư tưởng của đảng và của Mao cho các văn nghệ sĩ trí
thức lúc đó. Đi cùng với Trường Chinh là đội ngũ văn nô như Tố Hữu, Đặng Thái
Mai ra sức tuyên truyền và bôi nhọ nhóm NVGP như một "lũ phản động".
Họ dùng đến cả tòa án của độc đảng để đẩy những con người vô tội vào tù.
Nhưng trên thực tế có một kẻ thủ ác
giấu mặt hết sức nham hiểm đó là ông Hồ Chí Minh. Như chúng ta đã biết tôi từng
chứng minh về hệ thống chính trị trong đảng cộng sản Việt Nam trong các phần
trước. Ông Hồ Chí Minh thực sự là kẻ chỉ đạo và viết ra chủ trương của các hành
động của đảng cộng sản.
Trên thực tế, Hồ Chí Minh kiêm
nhiệm hai chức Chủ tịch đảng và Tổng bí thư từ (9/1956 đến
9/1960). Như vậy NVGP rõ ràng xảy ra trong thời kỳ ông Hồ phải là người có
quyền lực chính trị cao nhất, lúc này Lê Duẩn cũng chưa có vai trò rõ rệt. Vậy
ông Hồ không thể vô can trong sự việc này.
Trong hội nghị lần thứ 10 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng (họp từ ngày 25/8/56 đến 24/9/56), Trường Chinh bị "nghiêm
khắc kiểm điểm sai lầm" trong công tác cải cách ruộng đất, phải tự
kiểm thảo và xin từ chức. Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương, bị loại ra khỏi Bộ
Chính trị, Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp Hành Trung ương Đảng. Hồ Chí Minh
kiêm nhiệm hai chức Chủ Tịch Đảng và Tổng bí Thư từ (9/1956 đến 9/1960). Sau đó
là thời kỳ Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư (9/1960 đến 7/1986), xảy ra vụ Xét Lại
Chống Đảng.
Vụ NVGP xảy ra dưới thời Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư
Tháng Giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa
Xuân vừa ló dạng thể hiện tự do sáng tác, đã bị dập tắt ngay. Vậy có thể hiểu
là Trường Chinh đã giao cho Tố Hữu, người có tư thù với Hoàng Cầm, Trần Dần và
Lê Đạt trong việc phê bình tập thơ Việt Bắc, xử lý vụ Giai phẩm mùa xuân
theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.
Ngày 9/12/1956 Hồ Chí Minh ký sắc
lệnh báo chí. Đóng cửa Nhân Văn. Phong trào NVGP bị dập tắt lần thứ nhì, tháng
12/56. Tháng 2/57 trong Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, họp từ 20 đến
28/2 tại Hà Nội, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát âm mưu phản
động" của nhóm NVGP.
Như vậy ta có thể thấy trong tháng
8 và 9 năm 1956, có hai sự kiện trùng hợp đáng kể:
Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí
thư. Phong trào NVGP phát triển trở lại. Quyết định cho phép Hội văn nghệ tổ
chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, theo đường lối Liên Xô, trong tháng 8/1956,
rõ ràng không thể là của một Trường Chinh đã mất chức quyết định được. Người
quyết định về việc này chỉ có thể là Hồ Chí Minh đứng đầu đảng và nhà nước chứ
không thể là ai.
Cuối năm 57: Mao Trạch Đông hạ lệnh
đánh phái hữu. Huy Cận và Hà Xuân Trường được cử đi học tập chính sách của
Trung Quốc. Khi họ trở về, tháng 2/58 việc thanh trừng NVGP được tổ chức quy mô
và toàn diện trong hai lớp đấu tranh Thái Hà.
Lần này nữa, trách nhiệm hẳn cũng
đến từ từng cao nhất của cấp lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh vì tôi đã từng chứng
minh ở các phần trước, ông Hồ luôn coi tư tưởng của Mao là kim chỉ nam cho hành
động “Tư tưởng của Mao không thể sai.”
Trả lời câu hỏi chủ tịch Hồ Chí
Minh có trách nhiệm như thế nào về vụ NVGP, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố:
“Cái việc mà người ta cứ nói là
việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ không biết, cụ Hồ không thực tiễn
làm, đó là một cách nói không đúng sự thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận
kêu ca, thắc mắc thì không muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ
mà người ta suy tôn tuyệt đối. Có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ. Vì
cái lý do nó là như thế. Thực chất thì cụ Hồ không phải là người bị vô hiệu hóa
trong bộ máy lãnh đạo của đảng và của dân tộc. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có
đầy đủ quyền hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng có uy
tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối với những
người lãnh đạo.”
Ngoài ra ông Hồ Chí Minh còn là
người viết cuốn: “Truyện về chiến sĩ thi đua” nhằm đưa ra tư tưởng. Cuốn
sách này đã tiến hành định hướng cho nền văn học nước nhà phải theo sự chỉ đạo
của đảng, của ông Hồ trong viết thế nào và viết cái gì. Vậy ông ta chính là kẻ
chủ trương cho trào lưu chống lại NVGP.
Trong cuốn “Điều đọng lại” in
năm 1992 tại nhà xuất bản Văn Hóa của đảng cộng sản Việt Nam cũng có đoạn trang
121: “Bác Hồ đã chỉ đạo việc cách mạng trong các loại hình nghệ thuật. Không
thể để cho việc ca tụng thói hư tật xấu của chủ nghĩa tồn tại trong xã hội
chúng ta. Những kẻ chống đối lại đường lối của đảng cần phải nghiêm khắc xem
xét lại”. Việc này cho thấy ông Hồ hoàn toàn ủng hộ và còn chỉ đạo cấp dưới
về chủ trương xét lại với những nhóm có tư tưởng dân chủ như NVGP là một ví dụ.
Ông Hồ Chí Minh đã dùng ảnh hưởng
của mình để tiến hành viết sách định hướng cho nền nghệ thuật Việt Nam, ông ta
có một vai trò quyết định trong vấn đề chính sách và chủ trương trong hệ thống
chính trị. Ông ta cũng phải chịu trách nhiệm lớn lao trong vụ việc NVGP. Đó là
sự thực không thể chối bỏ.
4. Kết luận phần 2:
Kính thưa quý vị!
Trong khuôn khổ phần 2 này chúng
tôi đã gửi tới quý vị vụ án NVGP là một tội ác chính trị mà đảng cộng sản gây
ra cho giới trí thức. Sau cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu thì hành động bức
bách bỏ tù những nhà trí thức cũng là một hành động cho thấy chủ trương độc tài
ngay từ trong tư tưởng của chế độ cộng sản tại Việt Nam.
Vụ án này gióng lên một hồi chuông
về nhân quyền không được tôn trọng tại Việt Nam và các quy tắc về dân chủ, pháp
luật dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã hoàn toàn vị phá
bỏ. Con người bị bức bách và dồn ép về mặt tư tưởng để đến mức mất hết nhân
quyền!.
(còn tiếp)
______________________________________
Thân gửi các bạn trong thôn
Danlambao,
Theo như lời của tác giả Đặng Chí
Hùng:
“Việc đưa nhà cầm quyền cộng sản
Việt Nam ra tòa hình sự quốc tế và Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hợp Quốc là cần
thiết. Tuy nhiên cần nhiều chứng cứ cụ thể hơn nữa để có tiếng nói có giá trị
hơn nữa... Kính đề nghị quý bạn đọc cung cấp thêm chứng cứ về tội các của cộng
sản đối với bản thân và gia đình mình, tội ác của CS tại quê hương mình để tôi
thành một bộ hồ sơ hoàn chỉnh hơn nữa sau khi bản cáo trang này được đăng tải.”
Dân Làm Báo kêu gọi các bạn phản
hồi trong bài viết này với tinh thần nêu trên. Tất cả những phản hồi không nằm
trong nội dung của bài viết, Dân Làm Báo buộc sẽ phải xóa bỏ. Mong các bạn cùng
hưởng ứng.
No comments:
Post a Comment