Vũ Cao Đàm
26-11-2012
Vừa
qua, Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN đã ra một nghị
quyết về khoa học và công nghệ (KH&CN).
Có
thể ghi nhận, trên lời lẽ thì đó là một chỉ dấu tốt.
Tuy
nhiên, nhìn vào thực tế mà nói, qua kinh nghiệm của tất cả các quốc gia trong
hệ thống XHCN, ngoài việc sử dụng các thành tựu KH&CN để chế tạo vũ khí,
chưa có một quốc gia nào có nền KH&CN phát triển theo đúng nghĩa. Ở Việt
Nam, một cái kim cũng không làm được; các nguyên liệu quan trọng như thép đều
phải đi nhập; và trong đời sống khoa học thì một kẻ có chút bằng gọi là “Viện
sĩ nước ngoài” (cầm chắc mười mươi là dỏm) lại đứng ra cổ vũ hết lời cho một
tên bịp làm cái trò “biến nước thành xăng”. Nguyên nhân nào dẫn đến bức tranh
bi hài thê thảm kia?
Tác
giả Vũ Cao Đàm, trong những năm làm Viện trưởng một viện nghiên cứu về chính
sách KH&CN thuộc Bộ KH&CN, có nhiều cơ hội được tiếp xúc với các nhà
làm chính sách KH&CN ở các nước thuộc cả khối XHCN và ngoài XHCN, đã mạnh
dạn nêu lên một số ý nghĩ trong bài viết này với hy vọng góp phần gỡ những “nút
cổ chai” thắt nghẹt trong bao nhiêu năm để dần dần hiện thực hóa mong muốn phát
triển KH&CN vốn rất quen thuộc trên ngôn từ, nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước.
Bauxite
Việt Nam
------------------------------
Quan
hệ giữa khoa học và chính trị là một chủ đề đã tiêu tốn rất nhiều giấy mực qua
bao thế hệ của cả giới khoa học gia và giới chính trị gia, không chỉ ở Việt
Nam, mà cả trên thế giới. Tôi thử vào mạng, tra cụm từ “The relationship
between science and politics”, thì chỉ trong 30 giây đã hiện lên 228 triệu mục
từ có nội dung liên quan.
Trong
các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), chủ đề này không chỉ được bàn trong giới học
thuật, mà còn được thể hiện trong các văn kiện của các đảng cộng sản cầm quyền.
Các sách giáo khoa triết học marxist có
cả một chương về “Hình thái ý thức xã hội” đề bàn về mối quan hệ này. Tra mục
từ “Hình thái ý thức xã hội” trong Từ
điển triết học Liên Xô (Bản tiếng Nga năm 1975, Bản tiếng Việt năm
1986), chúng ta suy ra được những điều thú vị. Tôi xin tóm tắt mấy ý sau:
-
Thứ nhất, khoa học và ý thức hệ chính trị, là 2 trong một số hình thái ý thức
xã hội.
-
Thứ hai, mỗi hình thái ý thức xã hội có một chức năng xã hội và một hình thức
biểu hiện riêng biệt
-
Thứ ba, các hình thái ý thức xã hội thì tương tác, nhưng độc lập tương đối, chứ
không lệ thuộc lẫn nhau.
Tôi
không phải nhà nghiên cứu marxist, nên tôi không có ý định tra cứu xem Marx đã
nói câu đó ở đâu, nhưng cứ theo như Từ
điển triết học Liên Xô, thì chắc chắn điều này họ không thể nói
trái với ý ông tổ ý thức hệ Karl Marx của họ.
Tuy
nhiên, các chính trị gia và một số khoa học gia ở các nước XHCN, miệng thì nói
là theo học thuyết của Marx, nhưng thật ra có việc họ đã không làm theo những
gì mà sách triết học marxist đã viết. Một trong những việc đó là xử lý mối quan
hệ giữa khoa học và chính trị không theo những gì mà triết học Marx viết ra,
như tôi vừa trích dẫn từ cuốn Từ
điển triết học Liên Xô.
Cái
sự bi hài đáng được bàn đến có hai mặt: Một mặt, giới khoa học và giới chính
trị kỳ thị nhau, bài xích lẫn nhau, trong đó, giới chính trị nắm đầy quyền lực
đàn áp giới khoa học, nếu thấy những điều họ nói đụng chạm đến quyền lực của
giới chính trị. Một mặt khác, giới khoa học và giới chính trị lợi dụng nhau.
Hai mối quan hệ này không tách bạch ra một cách rạch ròi, mà nó xen lẫn vào
nhau, khiến người đời không dễ gì nhận ra như ranh giới giữa hai màu đen và
trắng.
*
Một
lần tôi đọc được ở đâu đó, câu nói rất hay của nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng,
rằng không được xem khoa học là một thứ “nàng hầu” của chính trị. Ông Trần Bạch
Đằng dung từ “nàng hầu” là một từ Việt rất cổ, với nghĩa là những cô gái nuôi
trong nhà để hầu hạ và phục vụ việc chăn gối cho ông chủ.
Tôi
nhớ, hồi 1978, khi được mời đến dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập một viện
nghiên cứu về khoa học xã hội rất lớn ở Việt Nam, tôi được tặng một cuốn sổ kỷ
niệm của viện này, với một câu viết rất trang trọng ở trang đầu tiên: “Khoa học xã hội Việt Nam phải
có nhiệm vụ giải thích đường lối của Đảng CSVN”. Mấy vị ngồi quanh tôi
thầm thì to nhỏ: “Vậy nhỡ đường lối của Đảng sai thì khoa học xã hội Việt Nam
giải thích thế nào nhỉ?” Tôi nghe người kia hích ông ta: “Suỵt, chớ có nói dại.
Đường lối của Đảng chỉ có từ đúng trở lên”.
Điều
đó sau này được giải thích là do “chúng ta” còn ấu trĩ. Không biết cái “chúng
ta” ở đây là ai? Là giới nghiên cứu lý luận Mác-Lê, hay là các nhà khoa học xã
hội nói chung, hay là ai đó… ngồi ở vị trí “cao hơn” những người ấy?
Cho
đến khi ông Đỗ Mười lên làm Tổng bí thư (1991), thì trong cuộc gặp gỡ các nhà
khoa học tại Liên Hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đầu xuân 1992, ông
nói một câu gây chấn động dư luận: “Khoa học phải có nhiệm vụ phản biện đường lối của Đảng và, hơn nữa,
phải góp phần xây dựng luận cứ cho đường lối của Đảng”. Có lẽ ông là nhà
lãnh đạo đầu tiên (ở cấp bậc của ông) nói đến khái niệm “phản biện”.
Tôi
nghe nhiều người chê trách ông Đỗ Mười về một số việc nọ việc kia… Thôi thì đấy
là việc của họ, nhưng riêng cái cách nhìn nhận vai trò khoa học như thế này của
ông Đỗ Mười thì đáng đánh giá ông cao lắm. Bởi vì, ngay giờ phút này đây, có
nhà khoa học nào phê phán cái gì đó nghe nghịch nhĩ một chút thì vẫn dễ dàng bị
quy chụp là “mắc mưu thế lực thù địch”. Cái người viết bài để quy chụp ấy có
khi còn ký tên là “Giáo sư”, “Tiến sỹ” gì gì nghe oai phong về khoa học lắm.
Tôi
muốn nói cần phải đánh giá ông Đỗ Mười rất cao về quan điểm này, vì ngay đến
tận hôm nay, hai mươi năm sau ông Đỗ Mười nói được một câu hay như tôi vừa
trích dẫn trong quan hệ giữa khoa học và chính trị, vẫn không có được mấy người
trong giới chính trị nói được như ông đâu. Họ vẫn quan niệm rằng khoa học phải
có nhiệm vụ minh họa đường lối chính trị, rất sợ bọn khoa học nghiên cứu những
điều “trái” với đường lối của Đảng. Điều này thậm chí còn được viết trong một
số văn kiện chính thức, rằng “Không được lợi dụng công việc nghiên cứu khoa học để xuyên tạc đường
lối của Đảng”.
Tôi
nhớ lại có hồi tôi được Vụ tổ chức của Bộ cử đi học lớp chính trị cao cấp, được
nghe một vị giảng viên tên là Trần N… giảng một bài rất thú vị như sau: “Vì sao giai cấp công nhân kiên định cách mạng, còn bọn trí thức thì
bấp bênh dao động và sợ địch?… ” Rồi ông giảng giải: “… Là … là tại vì bọn trí thức nó lắm ngoại ngữ, nó đọc ghê lắm, nó đọc
nhiều lắm, nó đọc suốt ngày, vì thế nó biết hết bọn đế quốc sài lang, vì thế mà
nó sợ”. Ông Trần N. có lẽ chỉ hơn tôi dăm ba tuổi gì đó, cho nên
chắc hiện nay ông vẫn còn mạnh khỏe và chắc sẽ đọc được những điều tôi vừa viết.
Đương nhiên, giới chính trị không biết đến các chuẩn mực
của khoa học:
Năm 1942, nhà xã hội học (về) khoa học của Mỹ, Robert K. Merton đưa ra bốn
chuẩn mực cho cộng đồng khoa học, viết tắt là CUDO, và được giải thích như sau:
(1) Tính cộng đồng (Communalism); (2) Tính phổ biến (Universalism); (3) Tính
không vị lợi (Disinterestedness) và (4)Tính hoài nghi (Organised Skepticism).
Vào khoảng thập niên 1970, cộng đồng khoa học bổ sung thêm một chuẩn mực nữa:
(5) Tính độc đáo (Originality), và cụm từ viết tắt được kéo dài thành CUDOS.
Chữ O trước đây là viết tắt của “Organized Skepticism”, thì nay dùng đại diện
cho “Originality”
Trong 5 chuẩn mực này, có một chuẩn mực
khiến các chính trị gia rất ghét bọn khoa học. Đó là “tính hoài nghi”. Nhưng các thế hệ khoa học thì luôn nhắc nhở
nhau, phải biết hoài nghi mọi kết quả nghiên cứu.
Tuy
ghét giới khoa học, nhưng giới chính trị hiện đại rất sính các loại mác khoa
học, chưa có bằng Cử nhân thì phải kiếm cho được cái bằng Cử nhân, chưa có bằng
Tiến sỹ thì phải kiếm cho được cái bằng Tiến sỹ, có bằng Tiến sỹ rồi thì chạy
cho được cái hàm Giáo sư. Theo họ, hình như cái mác khoa học này sẽ làm cho
tiếng nói của họ được tin cậy hơn… Chúng ta có thể thấy nhan nhản những bài
viết đủ mác nọ mác kia, nhưng sặc mùi chính trị lỗi thời.
Chưa
hết, các phe phái chính trị đánh nhau cũng rất thích dùng một số “nhà” khoa học
làm cái mà ngôn từ đường phố Hà Nội hiện đại gọi là “chân gỗ”, là thứ chân chắp
cho những anh què. Cái loa của các “giáo sư” và “tiến sỹ” này được phát đi rất
to, đánh vào cái yếu mà phe kia cần khai thác…, trong khi nói như cụ bà Lê Hiền
Đức, là “Mặt ông nào cũng nhọ cả”… Cái ông ăn cơm Tàu thì đánh cái ông ăn cơm
Tây hoặc ăn hớt của dân. Ăn cơm Tàu thì dân không thấy được, còn ăn hớt của dân
thì dân nào cũng trông thấy… Vì thế bắc loa chửi cái thằng ăn hớt của dân dễ
được lòng dân.
Trong
cơn bão lốc tấn công bọn tham nhũng, tôi đọc được trên blog của nhạc sỹ Tô Hải
một bài “Phấn Đấu Ký” (đã lâu tôi không tra cứu lại được, bạn nào tra cứu được
xin mách giùm) rất thú vị. Cụ Tô Hải nói ý là: Cái thằng bị chửi kia (ý nói
đồng chí X) chỉ là hạng ăn cắp vặt trong nhà so với cái bọn đang to mồm chửi.
Cụ Tô Hải nói rõ thêm: Các vị to mồm chửi kia mới chính là những kẻ đang vác
bom đặt trên nóc nhà mình”, Ý của cụ nói về những vị đang ôm bom của các đồng
chí 4 tốt và 16 chữ vàng đặt trên nóc căn nhà của Tổ quốc chúng ta..
Bây giờ tôi xin bàn một chút về cái gọi là giới khoa học
trong xã hội cộng sản.
Có thể nói, người đầu tiên viết về khoa học trong xã hội cộng sản là một nhà
vật lý chất rắn người Ireland, John Desmond Bernal (1901-1971), trong cuốn sách
rất nổi tiếng “The Social Function of Science”, là cuốn sách đã khởi xướng một
lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ của thế giới, là “Khoa học về Khoa học” (Science of
Science, ngày nay gọi là Science and Technology Studies) , trong đó ông đưa ra
một cách hiểu mới về khái niệm “worker”, bao gồm các worker “cổ trắng” (giới
trí thức), và worker cổ xanh (công nhân), ông cũng đưa khái niệm mới về thất
nghiệp, gọi là thất nghiệp do công nghệ (technological unemployement), chứ
không chỉ do tư bản bóc lột như quan niệm của Marx, và từ đó, khái niệm working
class sẽ không còn chỉ được hiểu là giai cấp của giới thợ nữa, mà là của tất cả
những ai là worker (cổ trắng và cổ xanh)
Ông
là đảng viên cộng sản Anh, nhưng cuốn sách của ông bị giới triết học Liên Xô đả
kích rất dữ dội ở Liên Xô và các nước XHCN, cho là những khái niệm mà ông đưa
ra nhằm xóa nhòa ranh giới giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Điều này cho thấy, là giới chính trị
Marxist luôn chống lại những gì mới mẻ trong khoa học. Công bằng nhìn lại,
suốt gần trăm năm tồn tại các quốc gia XHCN, chưa có một ngành khoa học mới nào
được khai sinh từ các quốc gia này. Không những vậy, tất cả cái mới trong khoa
học đều bị giới chính trị Marxist đả kích, thậm chí những lĩnh vực khoa học
chẳng dính gì đến chính trị như Toán Kinh tế còn bị đả kích ở Liên Xô suốt gần
một thập niên.
Nhắc
lại những sự kiện này, tôi muốn lắc một hồi chuông cảnh tỉnh các nhà chính trị
hãy đối xử với khoa học phù hợp những chuẩn mực của nó do Merton khởi xướng và
được cộng đồng khoa học thế giới thừa nhận và tuân thủ, xem như các thiết chế
xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của nhà khoa học và của xã hội đối xử với khoa
học.
Công
bằng mà nói, tôi biết nhiều nhà lãnh đạo cộng sản thành tâm nghĩ đến việc sử
dụng khoa học như một công cụ phát triển quốc gia của mình, nhưng các thiết chế
chính trị cộng sản đã ngăn cản họ. Có lẽ chưa có một đảng cộng sản nào ra một
nghị quyết hay của ban chấp hành trung ương đảng về khoa học như Nghị quyết về
phát triển khoa học của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Hungary sau sự
biến Hungary năm 1956, trong đó có đoạn viết rằng “Phải tránh các rủi ro chính
trị cho các nhà nghiên cứu khoa học xã hội”.
Tuy
nhiên cái mà một mình Đảng Cộng sản của Hungary hay một đảng cộng sản nào đó
muốn tránh, thì cái gậy chỉ huy từ Moscow cũng không buông tha. Những tư tưởng
khoa học về cải cách kinh tế theo hướng chủ nghĩa xã hội tự quản ở Nam Tư, hoặc
chủ nghĩa xã hội thị trường ở Tiệp Khắc đã bị Liên Xô dẹp tan từ trong trứng
nước.
Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa ra một nghị quyết trung ương về KH&CN. Xã hội Việt
Nam ngày nay có những mặt cởi mở hơn nhiều so với Hungary và Tiệp Khắc trước
đây. Đó là một chỉ dấu tích cực. Tuy nhiên, không phải là thừa khi chúng ta
nhắc lại tiếng chuông cảnh báo rằng: các thiết chế xã hội của chủ
nghĩa cộng sản vẫn là một yếu tố cản trở khoa học phát triển. Thiết
chế ấy là cái mũ kim cô ý thức hệ luôn có xu hướng chống lại cái mới từ trong
trứng nước, và ngày nay được trang bị thêm một cái mũ kim cô mới hơn nữa, gọi
tên là “thế lực thù địch”, mà anh bạn “4 tốt”và “16 chữ vàng” đã lên tiếng cảnh
báo “các đồng chí trong cộng đồng ý thức hệ” với họ [sự mách nước của bè lũ khốn này vô cùng thâm hiểm
và kéo dài từ 1952 đến tận hôm nay đã khiến nhiều lúc người cầm chịch đất nước
rơi vào những cái bẫy chết người, gây ra bao cảnh người Việt tàn sát người Việt
không nương tay, nhưng khốn nỗi đó là lời phỉnh đường mật nên bao giờ ruồi cũng
bâu lấy – Chú thêm của BVN].
Để
kết thúc bài này, tôi muốn một lần nữa nhắc lại những ý quan trọng mà tôi ghi
nhận được trong lời phát biểu của ông cựu Tổng bí thư Đỗ Mười: “Hãy sử dụng
khoa học làm công cụ phản biện đường lối chính trị và xây dựng luận cứ cho việc
hoạch định đường lối chính trị của Đảng”.
V.C.Đ.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment