International Affairs
Tài liệu tham khảo đặc biệt của THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Posted by basamnews
on 28/11/2012
Thập kỷ kể từ sự kiện 11/9 đã chứng kiến
hai tầm nhìn chính sách đối ngoại cạnh tranh nhau của Mỹ. Phản ứng của George
W.Bush trước cuộc tấn công này là tuyên bố một cuốc chiến toàn cầu chống khủng
bố. Bị thuyết phục rằng Mỹ đã phải đối mặt với một mối đe dọa hiện hữu được các
nhà nước khác kích động và lạc quan về khả năng sức mạnh Mỹ định hình lại thế
giới, Mỹ đã bắt đầu tấn công. Ở Ápganixtan, nước này đã chiến đấu để tiêu diệt
hay bắt giữ các phần tử Al-Qaeda và những người ủng hộ họ. Ở Irắc, nước này đã
chiến đấu để phá vỡ mối quan hệ của những kẻ khủng bố, những kẻ chuyên quyền
với những công nghệ hủy diệt hàng loạt. Nhưng cuộc chiến tranh Irắc đã tạo ra
thứ gì đó mà Bush không thể dự tính được – một cuộc chiếm đóng kéo dài và đẫm máu
chứng tỏ những hạn chế của sức mạnh Mỹ. Sự chỉ trích chính sách đối ngoại của
Mỹ đã tăng vọt, cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài.
Barack Obama đã
đánh trúng vào tâm trạng vỡ mộng của công chúng Mỹvề Irắc và chính sách đối
ngoại của Mỹ nói chung hơn bằng việc bác bỏnhững nguyên tắc cốt lõi trong thế
giới quan của Bush. Trong phân tích của mình, Bush đã không thể nhận ra sự toàn
cầu hóa đã tái tạo hoạt động chính trị thế giới như thế nào. Nó đã phân tán sức
mạnh trên khắp toàn cầu và tạo ra một loạt các vấn đề mới, trong đó khủng bố
chỉ là một vấn đề, vượt quá phạm vi các đường biên giới. Sức mạnh quân sự to
lớn chỉ giúp ích có giới hạn trong một môi trường như vậy, và Mỹ không thể thực
hiện việc đó một mình. Nước này cần các đối tác để đạt được những mục tiêu của
mình và bảo vệ những lọi ích của mình, Và chỉ có thể lôi kéo được những đối tác
đó thông qua sự can dự về mặt ngoại giao chứ không phải bằng sự hăm dọa.
Tuy nhiên, mặc dù những sự khác biệt giữa
Bush và Obama, cả hai có chung một đặc điểm: sự tin chắc rằng những nước khác
đều muốn và cần sự lãnh đạo của Mỹ. Niềm tin này đã phản ánh hơn nửa thế kỷ
thành công của Mỹ với tư cách là một siêu cường toàn cầu. Sự lãnh đạo của Mỹ là
cần thiết đối với mọi việc từ tạo ra Liên Hợp Quốc đến lãnh đạo thế giới trong công
cuộc giải phóng Côoét. Sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ không phải là một lời nói
khoác mà là một thực tế.
Tuy nhiên, ngay cả khi Obama hứa hẹn bắt
đầu “phục hồi sự lãnh đạo của Mỹ”, chính xu hướng mà ông đã trích dẫn để chí
trích chính sách đối ngoại của Bush – sự toàn cầu hóa – ít nhất là đang làm
phức tạp những nỗ lực của ông và tồi tệ nhất là phá hỏng chúng. Như Obama đã
nhận ra trong hai năm đầu cầm quyền rằng những lời nói tử tế, một bàn tay rộng
mở và sự sẵn lòng lắng nghe không đảm bảo có được sự hợp tác, chứ chưa nói đến
thành công trong chính sách đối ngoại. Những đối tác mong đợi của ông thường
bất đồng về bản chất của vấn đề, cái gì tạo nên một giải pháp xác đáng và ai
nên mang gánh nặng thực hiện nó. Họ có những lợi ích và ưu tiên của riêng mình,
và thường thì họ không hướng đến Oasinhtơn để tìm kiếm sự chỉ dẫn.
Làm thế nào để thành công ở một thế giới mà
trong đó các nước khác đang ngày càng phớt lờ hay tranh giành quyền lãnh đạo
của Mỹ thay vì đón nhận nó là một thách thức quan trọng hơn cả mà Mỹ phải đối
mặt trong những năm tới. Như Obama lưu ý một cách đúng đắn, phần lớn những gì
ông hay bất cứ vị tổng thống nào của Mỹ muốn đạt được ở nước ngoài đòi hỏi phải
có sự hợp tác của những nước khác. Nhưng làm thế nào có thể có được sự hợp tác
đó một cách tốt nhất? Sự cám dỗ là trung thành với những cách làm việc trong
quá khứ. Việc thay đổi các chiến lược, sửa lại những ưu tiên, và đổi mới nhũng
nhiệm vụ là đau đớn về mặt chính trị và nguy hiểm tiềm tàng. Nhưng một chính
sách đối ngoại phớt lờ việc môi trường toàn cầu đã thay đổi nhiều như thế nào
sẽ dẫn đến thất bại hơn là thành công.
Cuộc chiến chống khủng bố
George W.Bush không có ý định hoạch định
lại chính sách đối ngoại. Khi ông tuyên bố tranh cử tổng thống vào năm 1999,
các vấn đề trong nước nằm ở hàng đầu chương trình nghị sự chính trị, chính sách
đối ngoại là một suy nghĩ đến sau đối với hầu hết người Mỹ. Bush đương nhiên có
vẻ hướng nội hơn là hướng ngoại trong chiến dịch tranh cử năm 2000 và 8 tháng
đầu ông cầm quyền. Đặc biệt là cả Al-Qadea lẫn khủng bố đều không được cho là
vấn đề nổi bật khi ông chuyển hướng sang chính sách đối ngoại.
Sự kiện 11/9 đã thay đổi tính toán đó và
cùng với nó là định hướng của chính sách đối ngoại Mỹ. Chiến đấu chống khủng bố
đã trở thành không phải là một sự ưu tiên nào đó, mà là một sự ưu tiên xác
định. Bush đã xem sự kiện 11/9 không chỉ là một hành động khủng khiếp mà còn là
một mối đe dọa hiện hữu xếp ngang hàng với những mối đe dọa từ Đức Quốc Xã và
Liên Xô. Đây không phải là một xung đột địa chính trị bình thường, mà là một
cuộc xung đột giữa thiện và ác đã tác động đến tất cả các nước trên thế giới.
Ông đã nói với những người khóc than tại buổi cầu nguyện 3 ngày sau các cuộc
tấn công ngày 11/9: “Trách nhiệm của chúng ta đối với lịch sử là rõ ràng: trả
đũa những cuộc tấn công này và giải thoát thế giới khỏi cái ác”.
Sự miêu tả của Bush về mối đe dọa này đã
tất yếu dẫn đến một phương thuốc chính sách: một “cuộc chiến chống khủng bố”.
Cả hai danh từ trong cụm từ đó đều có ý nghĩa to lớn. Mỹ sẽ không phản ứng mang
tính phòng thủ bằng việc dựa vào vịệc thực thi pháp luật và các biện pháp bị
động như có thêm bảo vệ, súng ống và cánh cửa để tự bảo vệ mình; thay vào đó,
nước này sẽ bắt đầu ở vào thế tấn công. Như ông đã nói với các cố vấn cùa mình:
“Chúng ta cần phải chiến đấu ở bên ngoài bằng việc đưa cuộc chiến tranh này đến
với những kẻ xấu”. Mục tiêu này vượt ra ngoàiAl-Qaeda, để bao gồm tất cả những
kẻ khủng bố toàn cầu và các nhà nước ủng hộ chúng. Theo lời lẽ của thứ được
biết đến như học thuyết Bush thì “Chúng ta sẽ không phân biệt giữa nhũng kẻ
khủng bố dính líu vào những hành động này và những người dung túng cho chúng”.
Cuộc chiến chống khủng bố của Bush dựa trên
5 giả định. Thứ nhất, ưu thế toàn cầu của Mỹ, và đặc biệt là ưu thế về quân sự
của nước này, đã mang lại cho Mỹ khả năng chưa từng có thực hiện cuộc chiến
tranh ở nước ngoài. Thứ hai, việc Oasinhtơn miễn cưỡng đáp trả về mặt quân sự
các đòn tấn công khủng bố trong hai thập kỷ trước đã khuyến khích Al-Qaeda và
đồng bọn của tổ chức này. Phó Tổng thống Dick Cheney đã lập luận về điểm này
một cách thường xuyên và mạnh mẽ: “Sự yếu kém, dao động và việc Mỹ không sẵn
lòng sát cánh với những người bạn của chúng ta – điều đó là mang tính khiêu
khích. Nó khuyến khích những kẻ như Osama bin Laden… tiến hành nhũng đòn tấn
công nhiều lần nhằm vào Mỹ, vào người dân của chúng ta ở nước ngoài và trong
nước ở đây, với quan điểm rằng kẻ đó trên thực tế có thể làm như vậy mà không
bị trừng phạt”.
Thứ ba, các học thuyết răn đe và ngăn chặn
trong Chiến tranh Lạnh sẽ không có tác dụng với những kẻ khủng bố. Những lời đe
dọa trả đũa không có ý nghĩa gì với các nhóm không có lãnh thổ phải bảo vệ. Kết
luận đó là đáng ngại, do nỗi lo sợ rằng cuộc tấn công khủng bố tiếp theo có thể
làm cho vụ khủng bố 11/9 dường như có vẻ nhỏ bé. Những cuộc tấn công bằng vi
khuẩn bệnh than vào mùa Thu năm 2001 đã dựng lên bóng ma khủng bố sinh học quy
mô lớn. Những báo cáo tình báo cho rằng Al-Qaeda có thể có khả năng chế tạo
những quả bom phóng xạ (“bom bẩn”), nếu không có được vũ khí hạt nhân. Nước này
phải sẵn sàng hành động trước.
Thứ tư, những kẻ khủng bố không thể hoạt
động mà không có sự hỗ trợ của nhà nước. Bush đã chỉ rõ điều này trong Thông
điệp Liên bang năm 2002 của mình: Iran, Irắc, Bắc Triều Tiên và “những đồng
minh khủng bố của họ tạo thành trục ma quỷ”. Các nhà nước thù địch với Mỹ có
thể trang bị cho những kẻ khủng bố vũ khĩ hủy diệt hàng loạt. Điều đó đã khiến
cho cuộc chiến chống khủng bố không thể phân biệt được với nỗ lực ngăn chặn các
chế độ không lương thiện. Quả thật, trong một vài đoạn văn ngắn xác định “trục
ma quỷ”, Bush đã thề rằng: “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ không cho phép những chế
độ nguy hiểm nhất thế giới đe dọa chúng ta bằng vũ khí mang tính hủy diệt nhất
thế giới”.
Thứ năm, các liên minh và các tổ chức đa
phương đôi khi có thể giúp Mỹ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố, nhưng chúng
không phải là thiết yếu. Mỹ có thể hoàn thành những gì nước này cần phải làm về
mặt quân sự mà không cần có sự giúp đỡ của các liên minh, và nước này không nên
để các nước khác ra lệnh cho những gì nước này có thể làm. Bush đã thừa nhận:
“Ở một thời điểm nào đó chúng ta có thể là những người duy nhất còn lại. Điều
đó vẫn ổn với tôi. Chúng ta là nước Mỹ”. Chủ nghĩa đơn phương của Bush đã có
trước sự kiện 11/9, và nó đã làm căng thẳng nghiêm trọng các mối quan hệ xuyên
Đại Tây Dương. Nhưng ông và các cố vấn của mình bị thuyết phục rằng xét cho
cùng bởi vì họ đang đấu tranh cho những lợi ích của bạn bè mình (nếu không muốn
nói là theo cách mà bạn bè ưa thích) và không tìm kiếm lợi thế cho mình, nên
các đồng minh cuối cùng sẽ hợp lại bên họ.
Cuộc chiến chống khủng bố của Bush đã có
một tác động đáng kể đối với chiến lược lớn của Mỹ: cuộc thảo luận về cuộc xung
đột nước lớn đã nhạt dần. Trong chiến dịch tranh cử, Bush đã chế nhạo Chính
quyền Clinton vì xoa dịu một Trung Quốc đang nổi lên và nuông chiều một nước
Nga mục nát. Thời gian đầu trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông dường như
hướng tới tới việc đối đầu với cả hai nước này. Tuy nhiên, khi Chiến lược an
ninh quốc gia ra mắt vào tháng 9/2002, mọi việc có vẻ khác: “Ngày nay, cộng
đồng quốc tế có cơ hội tốt nhất khi nhà nước-dân tộc này trỗi dậy vào thế kỷ 17
để xây dựng một thế giới mà các nước lớn cạnh tranh trong hòa bình thay vì liên
tục chuẩn bị cho chiến tranh. Ngày nay, các nước lớn của thế giới nhận thấy họ
đang ở cùng một phe – đoàn kết với nhau do những mối đe dọa chung từ bạo lực
khủng bố và tình trạng hỗn loạn”. Đánh giá cúa Bush rằng những lợi ích nước lớn
tương thích với nhau hơn là cạnh tranh nhau đã mang lại cho ông sự tự do đáng
kể để thực hiện sức mạnh Mỹ.
Những hạn chế của một siêu cường
Học thuyết Bush được áp dụng trước hết ở
Apganixtan. Vào ngày 1292001, Liên Hợp Quốc đã cho phép thực hiện “tất
cả những bước cầnthiết” để trả đũa những cuộc tấn công vào ngày hôm trước. Cùng
ngày, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, NATO đã viện dẫn mục 5, buộc tổ chức
này phải bảo vệ thành viên của mình. Chưa đầy 1 tuần sau, Quốc hội Mỹ sần như
nhất trí ủy quyền cho Bush “sử dụng tất cả sức mạnh cần thiết và thích hợp để
chống lại những nước, tổ chức, hay cá nhân mà ông cho là đặt kế hoạch, cho
phép, dính líu, hay giúp đỡ các cuộc tấn công khủng bố đã diễn ra vào ngày
11/9/2001, hay dung túng những tổ chức hay những kẻ như vậy”.
Những nhà nghiên cứu về lịch sử phản thực
tế sẽ suy xét trong một thời gian dài việc chính sách đối ngoại của Bush đáng
nhẽ có thể phát triển ra sao nếu nhà lãnh đạo Mullah Omar của Ápganixtan trao
Osama bin Laden theo yêu cầu của Mỹ. Tuy nhiên, ông đã không làm như vậy và Mỹ
cùng với các lực lượng gồm gần 20 nước tham gia, đã tấn công Ápganixtan vào
tháng 10. Bất chấp sự khởi đầu chậm chạp, các lực lượng do Mỹ dẫn đầu đã đánh
tan Taliban tương đối nhanh gọn. Vào đầu tháng 12, chính quyền Taliban đã sụp
đổ.
Hầu hết các đồng minh của Mỹ cho là Bush
theo đuổi chính sách chỉ có Ápganixtan. Trên thực tế, ông theo đuổi chiến lược
trước hết là Ápganixtan. Với việc Taliban sụp đổ, trọng tâm của ông chuyển
hướng sang Irắc. Các cố vấn của ông đã tranh luận về việc có nên hay không xâm
lược Irắc ngay sau sự kiện 11/9. Bush đã quyết định phản đối điều này như một
bước đầu tiên, nhưng, Saddam Husein là hiện thân cho sự hội tụ 3 nỗi lo sợ của
Bush – khủng bố, những kẻ tàn bạo, các công nghệ hủy diệt hàng loạt. Mặc dù các
cơ quan tình báo Mỹ đã không tìm ra bất cứ bằng chứng nào về mối liên hệ giữa
Saddam Husein và Al-Qaeda, nhưng Bush tin rằng ông ta “không muốn gì hơn là sử
dụng một mạng lưới khủng bố để tấn công và giết chóc và không để lại dấu vết
nào”. Như Condeleezza nói, do những lợi ích, Mỹ không thể chờ đợi “vì bằng
chứng sẽ là một đám mây hình nấm”.
Kể từ đó quyết định của Bush không phải là
có tiến hành chiến tranh ở Irắc hay không mà là làm thế nào để thực hiện điều
đó. Các quan chức chính phủ đã có rất nhiều bài diễn văn và phỏng vấn trong nỗ
lực thuyết phục người dân Mỹ rằng các vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) của Irắc
tạo ra một mối đe dọa không thể chấp nhận được. Nỗ lực này đã thành công. Vào
tháng 10/2002, Quốc hội Mỹ đã cho phép tiến hành cuộc chiến tranh chống Irắc. Bush
đã tìm kiếm một phiếu ủng hộ tương tự từ Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ông đã
làm thế vì nhiều lý do – một sự cho phép của Liên Hợp Quốc sẽ củng cố sự ủng hộ
chính trị trong nước và tạo thêm nhiều áp lực lên Bátđa. Tuy nhiên, ông không
tin rằng ông cần sự ban phước của Liên Hợp Quốc để tiến hành chiến tranh. Khi
không có sự ban phước đó, Mỹ, cùng với sự ủng hộ của “một liên minh tự nguyện”
mà nếu xét về những sự đóng, góp quân đội thì bao gồm trước hết là Anh và ở mức
độ nhỏ hơn là Ôxtrâylia và Ba Lan, đã xâm lược Irắc vào tháng 3/2003 – trước
những sự phản đối kịch liệt của hầu hết phần còn lại của thế giới.
Bátđa đã sụp đổ thậm chí còn nhanh hơn
Cabun, chỉ trong chưa đầy 4 tuần. Nhưng những buổi ăn mừng “nhiệm vụ được hoàn
thành” tỏ ra là hấp tấp. Vào mùa Hè năm 2003, một cuộc nổi dậy đã thu hút sự
chú ý của phần lớn Irắc. Bush đã quy vấn đề này cho thất bại trong việc dự tính
“những hậu quả của sự thành công mang tính thảm họa”. Việc lên kế hoạch cho sự
chiếm đóng sau chiến tranh đã cho thấy rằng các lực lượng Mỹ sẽ chuyển giao
quyền lực cho người Irắc sau một vài tháng. Điều này đã phản ánh sự chán ghét
mang tính tư tưởng việc xây dựng quốc gia của Bush, có từ thời chiến dịch tranh
cử.
Khi cuộc nổi dậy có được sức mạnh, Tổ chức
nghiên cứu Irắc (ISG) đã cố gắng tìm kiếm WMD của Irắc. Bất chấp việc huy động
1.400 người và đầu tư hơn 1 tỷ USD, vẫn không phát hiện ra được bất cứ vũ khí
hạt nhân, hóa học hay sinh học nào. Người đứng đầu ISG đã nói trước Thượng viện
Mỹ rằng về chương trình WMD của Irắc “chúng ta gần như hoàn toàn sai”. Lý do
căn bản đầu tiên của cuộc chiến tranh này đã bị lầm lẫn.
Không tìm thấy bất cứ WMD nào, Bush ngày
càng điều chỉnh cuộc chiến tranh này theo hướng thúc đẩy dân chủ ở Irắc và cuối
cùng là phần còn lại của thế giới Arập. Quyền tự do đã là chủ đề trong những
phát biểu trước công chúng của Bush có từ bài diễn văn đầu tiên trong chiến
dịch tranh cử của ông. Tuy nhiên, trước đây nó không phải là một sự ưu tiên.
Nhưng nó đã trở thành một công cụ bằng lời lẽ hiệu quả để mài mòn những chỉ
trích trong nước. Nó chuyển hướng sự chú ý từ vấn đề WMD và các yếu tố vũ lực
sang hoặc tán thành với ông hoặc giải thích tại sao họ phản đối chế độ dân chủ
đang lan rộng.
Trong bài diễn văn nhậm chức thứ hai của
mình, Bush đã chuyển hướng khỏi Học thuyết Bush ban đầu và xác định thúc đẩy
chế độ dân chủ là mục tiêu hàng đầu của chính sách đối ngoại Mỹ, tuyên bố rằng:
“Chính sách của Mỹ chính là tìm kiếm và ủng hộ sự phát triển của các thể chế
dân chủ ở mọi quốc gia và nền văn hóa, với mục tiêu cuối cùng là chấm dứt chế
độ chuyên chế trong thế giới của chúng ta”. Chỉ vài tuần sau bài diễn văn này,
Ngoại trưởng Rice đã hủy bỏ chuyến công du đến Ai Cập để phản đối việc bắt giữ
một nhà hoạt động dân chủ người Ai Cập. Khi Rice cuối cùng đã đến Cairô vào cuối
năm đó, bà đã công khai nói trước một buổi nhóm họp các nhà cải cách Ai Cập:
“Tất cả các dân tộc tự do sẽ sát cánh với bạn khi bạn giữ vững những lời cầu
nguyện cho sự tự do của chính mình”.
Tuy nhiên, “chương trình nghị sự tự do” của
Bush đã sớm vấp phải nhiều vấn đề. Một là chính quyền không có một chiến lược
nào để hoàn thành mục tiêu cao cả của mình. Chỉ vài tuần sau khi đọc bài diễn
văn nhậm chức thứ hai, Bush đã đệ trình một yêu cầu ngân sách mà thực tế cắt
giảm các quỹ chi cho những nỗ lực thúc đẩy chế độ dân chủ của chính phủ. Một
vấn đề thứ hai là sự thúc đẩy chế độ dân chủ thường xung đột với các mục tiêu
chính sách đối ngoại quan trọng khác của Mỹ, nổi bật nhất là việc chống khủng
bố. Nhiều đồng minh trong cuộc chiến chống khủng bố là các chế độ chuyên quyền.
Việc yêu cầu họ đón nhận cuộc cải cách dân chủ có nguy cơ đánh mất sự hợp tác
của họ trong vấn đề khủng bố. Vấn đề thứ ba là chế độ dân chủ có thể tạo ra các
chính quyền thù địch với những lợi ích của Mỹ. Điều đó đã đột ngột xảy ra vào
đầu năm 2006 khi người Palextin bầu Hamas lên nắm quyền, một kết quả mà Chính
quyền Bush đã nghĩ là không thể có. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các chính
quyền Arập chuyên quyền đột ngột có sức lôi cuốn mới. Trong chuyến công du của
mình đến Ai Cập vào tháng 1/2007, bà Rice đã hủy toàn bộ cuộc nói chuyện trước
công chúng về chế độ dân chủ và thay vào đó nhấn mạnh rằng “mối quan hệ của Mỹ
với Ai Cập là mối quan hệ chiến lược quan trọng mà chúng tôi hết sức coi
trọng”.
Vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của Bush, nhũng hạn
chế đối với sức mạnh Mỹ đã tỏ rõ. Mỹ có thể lật đổ các chế độ với tốc độ nhanh
lạ thường. Tuy nhiên, nước này không thể dễ dàng dẹp tan các cuộc nổi dậy hay
xây dựng lại các chính quyền đã tan vỡ. Bất chấp việc tiêu tốn hơn 500 tỷ USD,
quân đội Mỹ vẫn đang chiến đấu ở Irắc – vào năm 2007 Bush đã cử đi thêm 20.000
binh lính Mỹ nhằm nỗ lực giảm bớt hành vi bạo lực ở đó. Trong khi đó, ở
Apganixtan, Taliban đã giành lại được thế chủ động, tạo áp lực lên Chính quyền
Hamid Karzai và kích động tình trạng bạo lực qua đường biên giới ở Pakixtan.
Việc phô trương sức mạnh của Mỹ ở Irắc và
Ápganixtan cũng đã không tạo ra được những lợi ích phụ mà Bush đã dự tính. Thay
vì sợ hãi trước những lời đe dọa của Bush, Iran và Bắc Triều Tiên tiếp tục các
chương trình vũ khí hạt nhân của họ – quả thực, vào năm 2006 Bình Nhưỡng đã thử
quả bom nguyên tử đầu tiên của mình. Các nhà lãnh đạo đồng minh không tập trung
quanh sự lãnh đạo của Bush mà tự tách mình khỏi nó, chủ yếu bởi vì người dân
của họ phản đối các chính sách của Mỹ. Ở trong nước, sự thâm hụt của Chính phủ
Mỹ đã lên đến đỉnh điểm là 500 tỷ USD, và đa số người Mỹ muốn rút khỏi Irắc.
Đây không phải là những gì Bush đã hình dung khi ông tuyên bố cuộc chiến chống
khủng bố.
Lời hứa hẹn về sự chuyển biến
Barack Obama theo, cách nhất định đã có
thành công về mặt chính trị là nhờ George w. Bush. Obama là một nhà làm luật ít
người biết đến của bang Illinois khi ông sử dụng một cuộc míttinh chống chiến
tranh ở Chicago vào tháng 10/2002 đế lên án cuộc hành quân của Bush tiến đến một
“cuộc chiến tranh ngu xuẩn”. Bài diễn văn đã trở nên có tính bước ngoặt trong
chiến dịch giành đề cử vào chức tống thống của đảng Dân chủ năm 2008. Hillary
Clinton và các ứng cử viên tổng thống hàng đầu khác của đảng Dân chủ đã bỏ
phiếu tán thành cuộc chiến tranh này; Obama đã lập luận một cách thông minh
rằng ông phản đối nó ngay từ đầu, do đó nổi bật so vói các ứng cử viên khác.
Mặc dù thành tích về chính sách đối ngoại chính thức của ông còn nghèo nàn, ông
đã lập luận một cách thành công rằng sự phán đoán tốt hơn của mình đã chiến
thắng kinh nghiệm dày dạn hơn của đối thủ.
Lập luận này có ý nghĩa to lớn bởi vì,
không như 8 năm trước đây, chính sách đối ngoại đã nổi bật trong chiến dịch
tranh cử năm 2008, đặc biệt là trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ. Irắc
là một vấn đề quan trọng nhất. Vào mùa Xuân năm 2008, cứ ba người Mỹ thì có hơn
một người coi đó là vấn đề quan trọng nhất mà nước này phải đối mặt. Obama đã
lập luận rằng “bằng việc từ chối kết thúc chiến tranh ở Irắc, Tổng thống Bush
đang đem lại cho những kẻ khủng bố những gì chúng thực sự muốn … một sự chiếm
đóng chưa xác định của Mỹ, với chi phí chưa xác định, với những hậu quả chưa
xác định”. Phương thức chính sách của Obama là dễ hiểu: ông sẽ rút toàn bộ quân
đội Mỹ trong vòng 16 tháng khi được bầu lên. Nhưng để thực hiện tuyên bố của
mình vào năm 2002 rằng ông không phản đối tất cả các cuộc chiến tranh, chỉ phản
đối những cuộc chiến tranh ngu xuẩn, ông hứa hẹn sẽ cử thêm nhiều quân Mỹ đến
Ápganixtan, mà ông tin rằng Chính quyền Bush đã phớt lờ một cách vô lý”.
Những chỉ trích của Obama về chính sách đối
ngoại của Bush không chuyển sang sự hoài nghi về những mục tiêu hay tính đúng
đắn của một chính sách đối ngoại hoạt động tích cực. Lời hứa của Obama “bảo vệ
người dân Mỹ và mở rộng cơ hội cho thế hệ tiếp theo” có thể được rút ra từ bài
diễn văn của bất cứ vị tổng thống Mỹ nào trong suốt cuộc đời mình. Và giống như
Bush, Obama là một người theo chủ nghĩa quốc tế ủng hộ vai trò mạnh mẽ của Mỹ ở
nước ngoài. Ông không phải là một người theo trường phái không can thiệp kêu
gọi một sự rút lui về Pháơ đài Mỹ.
Thay vào đó, những sự chỉ trích của Obama
bắt nguồn từ sự phản đối quan điểm của Bush về thế giới vận hành như thế nào. Ở
nơi Bush hoàn toàn phủ nhận tuyên bố rằng sự toàn cầu hóa đang tái tạo hoạt
động chính trị thế giới, Obama chấp nhận nó như một điều đã định sẵn. Một thế
giới được toàn cầu hóa đã tạo ra vô số mối đe dọa vượt ra ngoài các đường biên
giới quốc gia. Khủng bố chỉ là thứ dễ thấy nhất trong một danh sách bao gồm phổ
biến hạt nhân và biến đổi khí hậu. Sức mạnh Mỹ, cho dù to lớn, vẫn là không đủ
để đương đầu với nhũng thách thức này. Theo lời của Obama, “Mỹ không thể một
mình đương đầu với những mối đe dọa của thế kỷ này”.
Obama đã lập luận rằng Mỹ có thể bảo vệ
những đối tác mà nước này cần chỉ với điều kiện là các nước khác tán thành việc
nước này đi về đâu và đi như thế nào. Mỹ không còn có thể đáp ứng được thói
quen của Bush là “bắt nạt các nước khác để thông qua những sự thay đổi mà chúng
ta ấp ủ trong sự cô lập”. Obama cam kết sẽ tôn trọng các quy tắc quốc tế về
những vấn đề như sự thẩm tra cưỡng bức và đưa ngoại giao quay trở lại vị trí
hàng đầu trong chính sách của Mỹ. Ông sẽ giải quyết các vấn đề như sự biến đổi
khí hậu và khôi phục tiến trình hòa bình Ixraen-Palextin. Sự thúc đẩy ngoại
giao của ông thậm chí mở rộng sang cả các kẻ thù của Mỹ. Trước sự sửng sốt của
những người chỉ trích ông, và ngay cả một số người ủng hộ ông, khi được hỏi
trong suốt chiến dịch tranh cử rằng liệu ông “có sẽ sẵn sàng gặp riêng mà không
có điều kiện tiên quyết… các nhà lãnh đạo của Iran, Xyri, Vênêxuêla, Cuba và
Bắc Triều Tiên, để lấp đầy khoảng cách đang chia rẽ những đất nước của chúng ta
hay không”, ông đã trả lời là “có”.
Mặc dù Obama đã nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc cộng tác với bạn bè cũng như kẻ thù, ông khẳng ‘định rằng ông sẽ hành
động về mặt quân sự ở nơi nó có ý nghĩa. Bên cạnh việc hứa hẹn sẽ cử thêm nhiều
quân đến Ápganixtan, ông đã khẳng định ông sẽ sử dụng các cuộc tấn công bằng
máy bay không người lái và các chiến dịch của Lực lượng Đặc biệt để tấn công
vào bên trong Pakixtan. Vào năm 2007, ông đã nói: “Nếu chúng ta có thông tin
tình báo có cơ sở về các mục tiêu khủng bố đáng giá và Tổng thống Musharraf
không hành động, thì chúng ta sẽ hành động”. Cả các đảng viên đảng Dân chủ lẫn các
đảng viên đảng Cộng hòa đã lên án tuyên bố này, với một số người lập luận rằng
ông đã “gợi ý xâm lược Pakixtan”.
Tuy nhiên, sự hăng hái đối với hành động
quân sự của Obama đã chấm dứt tình trạng thiếu sự can thiệp nhân đạo. Ông đã
ủng hộ việc rút quân đội Mỹ khỏi Irắc cho dù nạn diệt chủng đang diễn ra. Ông
đã nói tại một điểm dừng trong chiến dịch tranh cử: “Tốt thôi, hãy xem nếu đó
là tiêu chuẩn mà theo đó chúng ta ra các quyết định về việc triển khai các lực
lượng của Mỹ, thì bằng lập luận đó, bạn sẽ có 300.000 quân ở Cônggô ngay bây
giờ, nơi hàng triệu người bị tàn sát do hậu quả của cuộc xung đột sắc tộc, điều
mà chúng ta chưa làm”. Ông nói thêm rằng: “Chúng ta sẽ đơn phương triển khai và
chiếm đóng Xuđăng, việc mà chúng ta vẫn chưa làm”.
Tương tự, Obama đã lảng tránh việc đón nhận
“chương trình nghị sự tự do” của George W.Bush. Một phần, việc này đã phản ánh
một tính toán chính trị không khoan nhượng; Irắc đã làm cho sự thúc đẩy chế độ
dân chủ trở nên độc hại đối với nhiều người Mỹ. Nhưng nó cũng đã phản ánh đánh
giá của ông rằng sự thúc đẩy chế độ dân chủ đã đề cao các cuộc bầu cử mà ông
xem là những viên gạch xây dựng nên chế độ dân chủ – an ninh và cơ hội kinh tế.
Ông đã lưu ý rằng bài diễn văn “4 quyền tự do” nổi tiếng của Tổng thống
Franklin Roosevelt (FDR) đã hoàn toàn không đề cập đến các cuộc bầu cử. Lưu tâm
đến mối quan ngại của FDR về tình trạng không bị thiếu thốn và lo sợ, Obama đã
đề xuất tăng gấp đôi ngân sách viện trợ nước ngoài của Mỹ.
Việc Obama miễn cưỡng đón nhận can thiệp
nhân đạo và sự lạnh nhạt của ông đối với thúc đẩy chế độ dân chủ đã gây ra
tranh luận rằng ông là một loài chim hiếm – một người theo chủ nghĩa thực tế về
chính sách đối ngoại của đảng Dân chủ. Những bình luận của chính Obama đã kích
động cuộc tranh luận này. Ông đã nói với các cử tri thuộc bang Pennsylvania:
“Sự thật là chính sách đối ngoại của tôi thực sự là một sự trở lại chính sách
thực tế lưỡng đảng truyền thống của Bush cha, của John F.Kennedy, theo cách nào
đó, của Ronald Reagan”. Nhưng một sự miêu tả chính xác hơn về việc Obama đã
nhìn nhận như thế nào chính sách đối ngoại là chủ nghĩa thực dụng thay vì chủ
nghĩa thực tế. Ông muốn có “một chiến lược không còn được định hướng bởi hệ tư
tưởng và hoạt động chính trị mà bằng thứ gì đó dựa trên một đánh giá thực tế về
những sự kiện nghiêm trọng trên thực địa và nhũng lợi ích của chúng ta trong
khu vực”. Ông hứa hẹn sẽ đánh giá tùng vấn đề theo đúng giá trị của nó, và rồi
cố gắng nghĩ ra một giải pháp.
Tầm nhìn trong chiến dịch tranh cử của
Obama về chính sách đối ngoại của Mỹ đã kích động người dân cả ở trong nước lẫn
ở nước ngoài. Kiệt sức sau 8 năm cầm quyền của George w. Bush, họ đã hy vọng
rằng vị thượng nghị sĩ 1 nhiệm kỳ này sẽ, mượn một động từ nổi tiếng là biến
đổi hoàn toàn chính sách đối ngoại của Mỹ. Bản thân ứng cử viên này đôi khi
thấy lạc quan về những gì mình làm: “Cái ngày tôi được bầu làm tổng thống, đất
nước này thấy mình khác biệt. Và đừng đánh giá thấp sức mạnh đó. Đừng đánh giá
thấp sự biến đổi đó”.
Những sự mong đợi đáp ứng được thực tế
Obama đã bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống của
mình bằng việc hiện thực hóa một cách có thứ tự những lời hứa hẹn của ông trong
chiến dịch tranh cử. Vào ngày thứ 3 cầm quyền, ông đã ra lệnh đóng cửa nhà tù
của Mỹ tại Vịnh Guantanamo, Cuba, trong vòng 1 năm và chấm dứt các cuộc thẩm
tra cưỡng bức. Vào giữa tháng 2, ông đã ra lệnh cử 17.000 binh lính Mỹ đến
Ápganixtan, tăng gần 50% so với 36.000 binh lính Mỹ đã ở đó. Vào cuối tháng 2,
ông đã ra lệnh rút tất cả các quân đội tham chiến khỏi Irắc vào tháng 8/2010 và
tất cả quân đội Mỹ còn lại vào tháng 12/2011. Vào tháng 3, ông đã gửi một đoạn
băng chúc mừng Iran nhân dịp năm mới của Iran, nói rằng “chính quyền của tôi
hiện nay cam kết với biện pháp ngoại giao giải quyết một loạt đầy đủ các vấn đề
trước mắt chúng ta”. Vào tháng 5, ông đã nói với Thủ tướng Ixraen Benjamin
Netanyahu rằng Ixraen phải ngừng tất cả các công trình xây dựng khu định cư.
Vào tháng 6, Hạ viện Mỹ đã thông qua dự luật cap-and-trade (giới hạn mức trần
và mua bán chỉ tiêu khí thải) mà Obama đã ủng hộ nhằm giảm khí thải hiệu ứng
nhà kính.
Obama đã khởi động nhiều sáng kiến ngoại
giao, nổi bật nhất là việc lật ngược chính sách của Bush trong việc cử các quan
chức Mỹ tham gia các cuộc đàm phán quốc tế với Iran về chương trình hạt nhân
của nước này. Ông đã công du khắp nơi để nói chuyện với các thính giả nước
ngoài, chỉ riêng năm 2009 ông đã đến thăm 21 quốc gia – một kế hoạch công du
tham vọng nhất của bất cứ một vị tổng thống nào vào năm đầu cầm quyền. Vào
tháng 4, ông đã hứa cổ vũ những đám đông ở Praha “tìm kiếm hòa bình và an ninh
từ một thế giới không có vũ khí hạt nhân”. Vào tháng 6, ở Cairô, ông đã nói về
khát vọng của ông “tìm kiếm một sự khởi đầu mới giữa Mỹ và những người Hồi giáo
trên khắp thế giới”. Vào tháng 9, ông đã nói với Đại hội đồng LHQ rằng ông đang
tìm kiếm “bằng lời nói và hành động, một thời đại mới của sự can dự với thế
giới”.
Việc đi theo hoạt động ngoại giao của Obama
đã khiến ông được yêu mến ở nước ngoài và khôi phục hình ảnh của Mỹ trên toàn
cầu. Những mong đợi về điều ông sẽ hoàn thành đang tăng vọt. Ông đã đoạt giải
Nobel hòa bình năm 2009. Hội đồng giải thưởng này đã không đề cập đến một thành
tựu nào trong lời biểu dương giải thưởng của mình; thay vào đó họ chúc mừng ông
vì mang lại cho người dân trên thế giới “niềm hy vọng cho một tương lai tốt đẹp
hơn” với “hoạt động ngoại giao của ông… được tìm thấy trong khái niệm rằng
những người sẽ lãnh đạo thế giới phải tiếp tục làm như vậy trên cơ sở các giá
trị và thái độ được đa số người dân trên thế giới chia sẻ”.
28 tháng cầm quyền đầu tiên của Obama đã
tạo ra một số thành tựu nổi bật. Vào tháng 6/2010, Hội đồng bảo an LHQ đã áp
đặt những biện pháp trừng phạt mới đối với Iran trong một nỗ lực loại bỏ chương
trình hạt nhân bắt đầu phát triển của nước này. Động thái này mang ý nghĩa to
lớn không chỉ bởi vì nó gia tăng áp lực lên Têhêran mà bởi vì nó giành được sự
ủng hộ của hai thành viên có quyền phủ quyết trong Hội đồng bảo an mà trước đây
đã phản đối những biện pháp trừng phạt là Trung Quốc và Nga. Sự ủng hộ của Nga
phản ánh sự thành công trong nỗ lực của Obama nhằm “khởi động lại” mối quan hệ
với Mátxcơva. Vào tháng 9/2009, ông đã điều chỉnh lại chính sách phòng thủ tên
lửa của Mỹ, loại bỏ hệ thống phòng thủ tên lửa tầm xa mà Bush đã bắt đầu và
người Nga phản đối để ủng hộ một hệ thống dựa trên những máy bay đánh chặn tầm
ngắn hơn khiến Mátxcơva ít lo ngại hơn. Sự thay đổi chính sách đó đã tạo điều
kiện cho việc ký kết và cuối cùng là thông qua hiệp ước “START Mới” cũng như
tạo thuận lợi cho sự hợp tác của Mátxcơva trong việc vận chuyên nguyên liệu qua
Trung Á đến Ápganixtan. Vào tháng 3/2001, Obama đã một lần nữa làm việc với Anh
và Pháp để đảm bảo sự hợp tác của Trung Quốc và Nga tại Hội đồng bảo an, lần
này là nhằm thông qua một giải pháp cho phép hành động để bảo vệ dân thường
Libi khỏi những cuộc tấn công của các lực lượng của Muammar Gaddafi.
Obama cũng thành công trong một vài mục
tiêu ạn ninh then chốt. Quân chiến đấu của Mỹ đã rời khỏi Irắc vào tháng 8/2010
như đã hứa, và việc rút 50.000 quân không chiến đấu còn lại theo kế hoạch được
hoàn thành vào hạn chót là tháng 12/2011. Ông đã tăng số các cuộc tấn công bằng
máy bay không người lái có vũ trang lên gấp 5 lần nhằm vào những nơi ẩn náu khả
nghi của các phần tử khủng bố ở Pakixtan và những nơi khác. Và đáng chú ý nhất
là vào tháng 5/2011, Biệt đội Hải quân SEALS của Mỹ đã tiêu diệt Osama bin
Laden trong một cuộc đột kích đầy rủi ro vào Abbottabad ở Pakixtan, được tiến
hành mà Chính phủ Pakixtan không hề hay biết.
Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Obama
thiếu tính chuyển biến về phương diện khiến chính sách đối ngoại của Mỹ thành
công hơn. Phần lớn những sáng kiến mang dấu ấn của ông hoặc đều bị ngừng lại
hoặc thất bại. Sự phản đối trong nước cuối cùng đã buộc ông phải thay đôi hoàn
toàn quyết định của mình đóng cửa nhà tù tại Guantanamo. Ixraen từ chối ngừng
xây dựng khu định cư, và vào cuối năm 2010, Obama đã từ bỏ yêu cầu của mình.
Tương tự, ông đã từ bỏ những nỗ lực của mình nhằm thiết lập một hệ thống giới
hạn mức trần và mua bán chỉ tiêu khí thải cho khí thải do hiệu ứng nhà kính.
“Các nhà lãnh đạo Iran đã dứt khoát từ chối những lời đề nghị ngoại giao của
ông”. Chưa đầy 2 tháng sau bài diễn văn của Obama ở Praha, Bắc Triều Tiên đã
thực hiện vụ thử hạt nhân thứ hai. Bắc Kinh đã không đáp lại những động thái
hòa giải của ông, và vào cuối năm 2010, ông đã áp dụng một thái độ quyết đoán
hơn đối với Trung Quốc.
Những nỗ lực của Obama nhằm bình ổn
Ápganixtan đã kéo Mỹ vào một sự ràng buộc sâu sắc hơn so với ông dự tính. Việc
tăng quân của ông vào tháng 2/2009 đã không thể biến thành cơn thủy triều nhấn
chìm Taliban như ông đã hy vọng. Bất chấp sự chỉ đạo rõ ràng của chính quyền
đối với các quan chức quân đội cấp cao rằng ông không muốn nghe thấy những yêu
cầu tiếp thêm nhiều quân hơn trong ít nhất là 1 năm, vị tướng chỉ huy của Mỹ
vào tháng 8/2009 đã cảnh báo với tư cách cá nhân về “nhiệm vụ thất bại” nếu
không cử thêm đáng kể quân và chiến lược đã thay đổi. Báo cáo này đã nhanh
chóng bị rò rỉ, gây ra tình trạng náo động. Obama đã khởi xướng một sự xem xét
mới mẻ về chính sách Ápganixtan mà đã lên đến đỉnh điểm trong quyết định phái
thêm 30.000 quân, với mục đích bắt đầu rút quân vào tháng 7/2011. Khi hạn chót
đó tới gần, các điều kiện quân sự đã cải thiện nhưng ‘tình hình chính trị ở
Ápganixtan vẫn đầy nguy hiểm.
Những hạn chế đối với sự thay đổi
Sự thất bại của Obama trong việc thay đổi
chính sách đối ngoại của Mỹ có một vài căn nguyên. Một là số lượng rất lớn và
tính phức tạp của các vấn đề mà ông kế thừa. Đứng đầu danh sách này là cuộc
khủng hoảng tài chính. Obama đã dành phần lớn 6 tháng đầu nhiệm kỳ của mình làm
việc để ngăn chặn sự sụp đổ của nền kinh tế Mỹ và cùng với nó là hệ thống tài
chính quốc tế. Những thách thức chính sách đối ngoại thuần túy mà ông phải đối
mặt – có thể kể đến một số là tiến trình hóa bình Trung Đông, biến đổi khí hậu
và phổ biến vũ khí hạt nhân – là các vấn đề lộn xộn, có lẽ là nan giải, không
thể sửa đổi theo các giải pháp đơn phương của Mỹ hoặc ngay cả các giải pháp đa
phương. Và những sự kiện đó không dễ chịu chút nào đối với Obama. Cho dù đó là
“Phong trào Xanh” ở Irắc hay Mùa Xuân Arập, những thách thức chính sách đối
ngoại của ông đã tăng lên thay vì thu hẹp lại. Và trong khi các cuộc khủng
hoảng này có thể đã mang lại cho Obama những cơ hội, thì những sự can dự tốn
kém của Mỹ ở Irắc và Apganixtan và tình trạng tài chính ảm đạm của Chính phủ Mỹ
đã hạn chế những phản ứng có thể có của ông.
Hoạt động chính trị nội bộ cũng không ủng
hộ Obama. Mặc dù các đảng viên đảng Dân chủ ban đầu kiểm soát cả Hạ viện lẫn
Thượng viện, nhưng những quy tắc đặc biệt trong Thượng viện đã cho phép thiểu
số phe đảng Cộng hòa trì hoãn nếu không muốn nói là ngăn chặn toàn bộ các sáng
kiến chính sách đối ngoại như quy chế giới hạn mức trần và mua bán chỉ tiêu khí
thải đòi hỏi phải có sự đồng thuận của Quốc hội. Obama đã giành được sự tán
thành của Thượng viện đối với Hiệp ước START Mới, nhưna chỉ sau một cuộc chiến
chính trị gây đau đcvn đã tiêu phí sự chú ý của Nhà Trắng trong một vài tháng.
Bài học là rõ ràng: việc thông qua quy chế chính sách đối ngoại sẽ đòi hỏi phải
có những cam kết mạnh mẽ về thời gian và năng lượng vốn khan hiếm.
Những sai lầm của chính Obama đã cản trở sự
nghiệp của ông. Nhiều đặc phái viên ông bổ nhiệm đã tạo ra sự nhầm lẫn về ai là
người chịu trách nhiệm về chính sách nào, và cố vấn an ninh quốc gia đầu tiên
của ông, Tướng James Jones, đã vật lộn ở vị trí của mình. Obama đã không thể dự
tính rằng yêu cầu của ông đòi ngừng hoạtđộng định cư của Ixraensẽ củng cố thêm
địa vị của Thủ tướng Benjamin Netanyahu ở trong nước. Sự phản ứng chậm chạp của
Obama trước phong trào phản kháng vào ngày 12/6 ở Iran đã tiếp thêm sinh lực
cho những người chỉ trích ông và đã làm những người ủng hộ ông mất tinh thần.
Những cử chỉ hòa giải của ông đối với Trung Quốc đã khuyến khích thay vì khuất
phục Bắc Kinh. Ông đã phớt lờ các mối quan hệ với các cường quốc dân chủ đang
nổi lên như Braxin, Ấn Độ và Inđônêxia trong năm đầu cầm quyền cúa mình, và
cách xử lý thường là vụng về của ông về các mối quan hệ cá nhân với các nhà
lãnh đạo nước ngoài lần lượt gây khó chịu và lo ngại đối với ngay cả các đồng
minh thân cận nhất.
Nhưng chiến lược chính sách đối ngoại của
Obama đã phải gánh chịu một vấn đề cơ bản hơn: nó dựa trên một tiền đề quá lạc
quan. Ông đã cho rằng nếu Mỹ dịu giọng điệu của mình, chìa tay với các thủ đô
nước ngoài, nhấn mạnh các lợi ích chung và rồi quyết định lãnh đạo, thì các
nước khác sẽ đi theo. Theo đánh giá này thì Bush đã thất bại không hẳn bởi vì
các vấn đề là phức tạp, hay các nước bất đồng về việc phải làm gì và làm như
thế nào, hay bởi vì các thủ đô nước ngoài có những ưu tiên khác nhau, mà bởi vì
ông đã lãnh đạo một cách tồi tệ. Obama thay vào đó sẽ phục hồi trọng trách
ngoại giao của Franklin Roosevelt, Harry Truman và John Kennedy.
Tuy nhiên, Obama đã trở thành tổng thống
trong bối cảnh địa chính trị hoàn toàn khác so với bất cứ vị tổng thống tiền
nhiệm nào. Không một nước nào đóng vai trò của Liên Xô, thúc đẩy các nước gạt
những sự bất đồng sang một bên để tập trung xung quanh Mỹ. Sự tăng trưởng kinh
tế nhanh chóng ở các thị trường mới nổi đã thay đổi cán cân sức mạnh kinh tế
toàn cầu và tạo ra những mạng lưới xuyên quốc gia mới cả bên trong lẫn giữa các
khu vực bỏ qua Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 đã làm suy yếu hơn nữa
khả năng lãnh đạo của Mỹ, những tai họa kinh tế của nước này được mọi người
trong và ngoài nước xem là bằng chứng cho thấy sự suy thoái của Mỹ.
Không một điều nào trong số đó làm Obama
ngạc nhiên. Ông đã thường nói trong chiến dịch vận động tranh cử về sự toàn cầu
hóa đang tái tạo thế giới như thế nào. Nhưng ông đã không theo đuổi phân tích
của ông về những xu thế toàn cầu để đưa ra kết luận lôgích. Một thế giới trong
đó sức mạnh phân tán nhiều hơn và các mạng lưới xuyên quốc gia mới đã phát
triển là một thế giới ngày càng khó lãnh đạo. Thay vì khát khao có được sự lãnh
đạo của Mỹ, nhiều nước thờ ơ với nó. Họ không nhìn nhận Oasinhtơn đang đưa ra
nhũng giải pháp giải quyết được những mối quan ngại hàng đầu của họ. Chính vì
vậy họ theo đuổi những lợi ích của mình ở nơi khác. Đôi khi ngay cả những bạn
bè và đồng minh truyền thống cũng như các cường quốc mới nổi cũng tranh giành
quyền lãnh đạo của Mỹ. Trung Quốc đã tìm cách sắp xếp lại cán cân quyền lực ở
châu Á và tái tạo cấu trúc tài chính toàn cầu trên một mô hình theo ý muốn của
nước này hơn. Braxin và Thổ Nhĩ Kỳ đã cố gắng làm trung gian một thỏa thuận với
Iran về chương trình vũ khí hạt nhân của nước này. Ấn Độ đã tự coi mình là một
cường quốc chi phối từ Ađen đến Eo biển Malắcca, chứ không phải là một đối tác
non nớt đối với Oasinhtơn. Việc điều hòa những tham vọng, những lợi ích và
những sự ưu tiên cạnh tranh nhau là một nhiệm vụ làm nản chí, có lẽ là một
nhiệm vụ nặng nhọc và không bao giờ kết thúc.
Obama đã sớm nhận ra vấn đề này trong nhiệm
kỳ tổng thống của mình. Ông đã lưu ý rằng: “Nếu chỉ có Roosevelt và Churchill
ngồi trong một căn phòng với một chai rượu brandy thì đó là một cuộc đàm phán
dễ dàng. Nhưng đó không phải là thế giới chúng ta đang sống”. Ông đã tính toán
rằng nếu Mỹ chịu lắng nghe hơn và nhấn mạnh những lợi ích chung thì “ở bên lề,
họ (những nước khác) có khả năng muốn hợp tác hơn là không hợp tác”. Đây là
những gì một cố vấn không có khả năng phân tích chính xác về chính trị của
Obama đã gọi là “lãnh đạo sau hậu trường”. Nhưng vấn đề then chốt vẫn còn không
được hỏi đến và không được trả lời là liệu hợp tác “nhiều hơn” có được hiểu là
hợp tác “đủ” hay không. Kết quả là, Obama đã từ chối điều chỉnh những mục tiêu
chính sách đối ngoại của mình, và đấu tranh để đề ra một chiến lược thúc đẩy
những lợi ích của Mỹ trong một thế giới nơi những cường quốc khác, cả lớn lẫn
nhỏ, đều bận bảo vệ chính họ. Ông đã giữ nguyên tiến trình, đánh dấu và vẽ lên
những đường nét, chỉ để chứng kiến việc nhiều người trong số họ phớt lờ.
Thành công trong một thế giới toàn cầu hóa
Sự kiện 11/9 đã xác định lại chính sách đối
ngoại của Mỹ. George w. Bush tin rằng các cuộc tấn công ngày hôm đó đã mang lại
một nguyên tắc định hướng mới cho chính sách đối ngoại của Mỹ và cho phép một
sự phản ứng hung hăng của Mỹ. Trong khi tiến hành cuộc chiến chống khủng bố,
ông đã tìm cách tái tạo khung cảnh toàn cầu theo hình thức có lợi hơn cho an
ninh Mỹ. Nhưng chống khủng bố đã tỏ ra là một trọng tâm quá hẹp đối với chính
sách của Mỹ. Mỹ đơn giản là đã có quá nhiều lợi ích khác vượt ra ngoài đường
biên siới của mình. Cuộc chiến chống khủng bố của Bush cuối cùng đã cho thấy
những hạn chế của sức mạnh Mỹ và đã dồn gánh nặng cho người kế nhiệm ông với
hàng đống vấn đề chính sách đối ngoại lộn xộn.
Obama hiểu rằng sự toàn cầu hóa đã tái tạo
địa hình địa chính trị. Sức mạnh được phân tán không chỉ khắp một loạt rộng lớn
hơn các nước mà còn sang các nhân tố phi nhà nước. Những ngày khi Mỹ có thể áp
đặt các giải pháp, nếu chúng từng tồn tại, không còn có thể như vậy nữa. Việc
định hướng thế giới phức tạp hơn này đòi hỏi phải có sự lắng nghe các nước khác
và cho “họ lợi ích trong việc gìn giữ trật tự quốc tế”. Những gì Obama vấp phải
không phải là sự chẩn đoán mà là một đơn thuốc: cho dù Oasinhtơn lãnh đạo một
cách khôn ngoan và đồng cảm thì những nước khác cũng có thể không theo. Các
cuộc tham khảo ý kiến có thể không đảm bảo có được sự đồng thuận. Các chính phủ
có thể và đã bất đồng về những vấn đề nào tạo ra mối đe dọa và những cơ hội, họ
cần có sự ưu tiên nào, và chúng cần phải được giải quyết ra sao và ai là người
gánh trách nhiệm giải quyết chúng. Một kết quả quá thường xuyên là sự thiếu
hoạt động hoặc sự trì trệ.
Thách thức của Obama là một thách thức mà
những người kế nhiệm ông cũng có thể phải đối đầu: làm thế nào để thúc đẩy
những lợi ích của Mỹ trong một thế giới mà thường không tự động đáp ứng sự lãnh
đạo của Mỹ cho dù Mỹ vẫn là nước hùng mạnh và có nhiều ảnh hưởng nhất duy nhất.
Điều đó có thể đòi hỏi những chiến lược mới – hay, như có thể, một định nghĩa
hẹp hơn về những mục tiêu của Mỹ ở nước ngoài và những sự lựa chọn khó khăn
giữa những sự ưu tiên. Sự tìm kiếm đó sẽ đầy đau đớn. Phần lớn thế giới trông
chờ vào sự lãnh đạo của Mỹ ngay cả khi nước này nổi giận trước điều đó. Nỗ lực
của Obama nhằm chuyển gánh nặng chiến đấu ở Libi sang các nước khác thuộc NATO
đã thất bại bởi vì họ vừa không quen với việc đó vừa không nhất thiết phải chịu
trách nhiệm về nó.
Nhiệm vụ của Obama thậm chí có thể sẽ còn
làm nản chí hơn ở trong nước. Các nước, cũng như con người, sống trong quá khứ,
hoan nghênh những chiến thắng cũ và phớt lờ sự tiến triển của sự việc. Các tổ
chức trong nước sẽ chống lại sự thay đổi ngay cả khi những tai họa tài chính
của Chính phủ Mỹ tạo ra những áp lực chính trị căng thẳng buộc phải giảm bớt
nhũng cam kết chính trị của mình ở nước ngoài. Những đề xuất suy nghĩ lại các
chính sách cũ sẽ gặp phải những tuyên bố được làm mới lại rằng Obama không tin
vào chủ nghĩa ngoại lệ Mỹ. Nhưng trừ khi Obama tìm ra một cách thức để liên kết
những đơn thuốc chính sách đối ngoại của ông với những xu hướng toàn cầu đang
phát triển, khoảng cách giữa những tham vọng và những thành quả của Mỹ sẽ tăng
lên, và những triển vọng lãnh đạo toàn cầu thành công của Mỹ sẽ còn mờ mịt
hơn./.
No comments:
Post a Comment