Tuesday, 27 November 2012

PHILIPPINES ĐÃ PHẠM SAI LẦM CHIẾN LƯỢC TẠI BÃI CẠN SCARBOROUGH (Trương Nhân Tuấn)




Nov 27, 2012 1:23 AM

Vài tháng trước đây người viết có viết bài “Tranh chấp Trung-Phi tại bãi cạn Scarborough” trong đó có nhấn mạnh việc chọn lựa qui chế pháp lý cho bãi này là một quyết định chiến lược, nếu vấn đề đưa ra một trọng tài phân giải. Theo bài báo này, ta thấy Phi đã đi sai nước cờ. Lập luận của Phi là bãi cạn Scarborough nằm trong vùng Kinh tế độc quyền (EEZ 200 hải lý) do đó thuộc quyền chủ quyền của Phi. Sai lầm vì Phi đã lựa chọn qui chế cho bãi cạn Scarborough như là một “bãi chìm”, không thể chiếm hữu, trong khi trên thực tế thì bãi này là một “bãi cạn”, có nhiều đá nổi cao hơn mặt nước, mà theo Luật Biển 1982 thì bãi này có thể chiếm hữu.

Việc sẽ đến, sai lầm của Phi sẽ đưa đến việc nhìn nhận bãi cạn Scarborough “có tranh chấp” với Trung Quốc. Đó cũng là sai lầm lớn lao mà lãnh đạo và học giả VNXHCN đã phạm liên tục từ nhiều thập niên nay.

Vài chi tiết tóm lược lại từ bài trước :

Bãi cạn Scarborough, cách đảo Luçon (Luzon) của Phi khoảng 115 hải lý (215 Km), cách bờ biển VN khoảng 900 Km, cách Hồng Kông 850 Km, tọa độ 15°08’ N – 117°46’ E, có hình thể một dãi san hô tam giác chìm dưới nước, dài khoảng 10 Km, có chu vi 46 Km, bao quanh một vùng biển lặng (lagon) diện tích tổng cộng khoảng 150 Km². Bãi cạn này có một số đá nổi trên mặt nước, trong đó lớn nhất là Đá Nam (South Rock – Nam Nham), nổi trên mặt nước khoảng 1,8 mét lúc thủy triều cao. Đá này tọa lạc ở góc đông-nam, kế cận cửa (passe) vào vùng biển lặng. Cửa (passe) có chiều dài 380 mét và độ sâu từ 9 đến 11 mét. Ngoài ra còn có Đá Bắc (North Rock – Bắc Nham) cùng với một số đá khác nổi trên mặt nước. Bãi cạn Scarborough ở về phía tây bãi Macclesfield, cách 318 Km. Hai bãi này được phía Trung Quốc gộp lại chung với tên “Trung Sa quần đảo – Zhongsha Qundao”.

Về tên gọi, phía Trung Quốc cũng đã tỏ ra thiếu thống nhất. Trong các tài liệu địa chí của Trung Quốc in trước năm 1935, bãi Scarborough được ghi bằng tên quốc tế, với ghi chú tiếng Hoa là “Nam Sa quần đảo”. Đến năm 1947 bãi này được đặt là “Dân Chủ đảo – Minzhu jiao”, thuộc về “Trung Sa quần đảo”. (Như thế đến năm 1935, cái mà Trung Quốc gọi là Nam Sa – tức Trường Sa của Việt Nam hiện nay, là bãi cạn Scarborough. Đến năm 1947 họ mới “đẻ” ra tên Trung Sa, gở nhãn Nam Sa dán lên quần đảo Trường Sa, sau đó ra mặt tranh chấp với Việt Nam. Trước đó là hai bên chỉ có tranh chấp về Hoàng Sa). Đến năm 1983 thì bãi này lại đổi tên thành “Hoàng Nham – Huangyan”, gộp chung với bãi Macclesfield để tạo thành “Trung Sa quần đảo”.

Việc Trung Quốc gộp chung bãi Macclesfield, bãi chìm dưới mặt nước, vào chung với bãi Scarborough, vốn là một bãi cạn, chỉ có vài đá nổi lên mặt nước, vào thành một  “quần đảo – archipel”, là hoàn toàn gượng ép trên quan điểm địa lý, địa mạo. Hai bãi này, một bãi là “bãi ngầm” chìm dưới mặt nước khoảng 50m, một bãi là ám tiêu, đá… không có “đảo” nào có thể được gọi là “đảo” theo qui ước của quốc tế. Mặt khác, hai bãi này hoàn toàn tách biệt nhau, cách nhau đến 318 Km, thiếu sự liên tục của thềm lục địa. Nó vừa không có tính “quần” lẫn tính “đảo”.

Về chủ quyền của Trung Quốc tại “Trung Sa quần đảo”, tuyên bố năm 1951 của Chu Ân Lai, bên lề hòa ước San Francisco, nói rằng : “Quần đảo Tây Sa và đảo Nam Uy cũng như các quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Đông Sa, là lãnh thổ của TQ”.

Điều đáng lưu ý là phía TQ không trưng dẫn bất kỳ bằng chứng nào, về việc khám phá hay chiếm hữu, kèm theo tuyên bố này. Tuyên bố “bên lề” này do đó mang tính “bảo lưu” hơn là một tuyên bố chủ quyền có giá trị pháp lý. Dầu vậy nó cũng được Liên Xô và các nước phe XHCN ủng hộ.

Năm 1958 Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải: “Độ rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý. Qui định này áp dụng cho tòan lãnh thổ Trung Hoa, bao gồm phần đất trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi… quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa…”.

VNDCCH, vì đứng trong khối XHCN, trước đó đã ủng hộ tuyên bố của Chu Ân Lai năm 1951, dịp này lại ra tuyên bố ủng hộ tuyên bố về lãnh hải của TQ.

Về phía Phi, theo Hiệp ước an ninh ký kết với Hoa Kỳ năm 1951, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hải quân Hoa Kỳ đóng ở Subic Bay, bãi cạn Scarborough được xem như là một tiền trạm, do vùng biển lặng của bãi này khá rộng và sâu. Tàu chiến HK thường xuyên neo ở đó. Hình thái địa lý bãi cạn này (nếu không bị chìm) thì giống như là đảo Diego Garcia ở Ấn Độ Dương, là một đảo của Anh nhưng có hợp đồng cho quân đội HK mướn dài hạn, có tầm chiến lược rất quan trọng cho chiến lược đại dương của Hoa Kỳ. Người ta ví nó là Guam thứ hai. (Guam ở Thái Bình Dương, Diego Garcia ở Ấn Độ Dương, cùng với các vị trí quân sự mới khai triển tại Úc, cho phép HK bảo vệ chặt chẽ vòng đảo thứ nhứt). Như thế, gián tiếp Hoa Kỳ đã công nhận bãi cạn này thuộc phạm vi ảnh hưởng của Phi. Ngoài ra năm 1991, nhà cầm quyền Phi có cho xây một đèn pha trên bãi, nhưng sau đó bị sập (không hiểu lý do), không còn sử dụng nữa. Điều đáng tiếc là phía nhà nước Phi không có hành vi chính thức nào nhằm tuyên bố chủ quyền của mình tại bãi này, trong khi từ 1951, phía TQ đã nhiều lần lên tiếng (đòi chủ quyền) mặc dầu chưa bao giờ họ chiếm hữu hay quản lý trên thực tế.

Một số điều cơ bản về tập quán quốc tế về biển cần nên nói ở đây. Cái gọi là “Trung Sa quần đảo” có thể xem như là một « lãnh thổ » để có thể chiếm hữu hay không ?

Về bãi Macclesfield, là một bãi ngầm chìm sâu dưới mặt nước, không có điều ước quốc tế nào, hay bất kỳ một tập quán quốc tế nào, chính thức cho phép một quốc gia được phép chiếm hữu. Điều này hàm ý, bãi ngầm này nếu nằm trong vùng lãnh hải, vùng Kinh tế độc quyền (ZEE) hay thềm lục địa của một quốc gia nào thì sẽ thuộc quyền tài phán của quốc gia đó. Từ đó, quốc gia này có thể xây dựng các đảo nhân tạo, các nhà giàn (như VN xây dựng tại các bãi Tư Chính và vùng kế cận), nhưng các kiến trúc nhân tạo này không có hiệu lực đảo (theo điều 121 của Luật Biển 1982) như là một đảo tự nhiên.

Về bãi Scarborough, là một bãi có phần chìm, có phần nổi, có phần lúc chìm, lúc nổi. Tập quán và Luật quốc tế có quan niệm gì về các cấu trúc địa lý này ?

Chiếu theo án lệ sau đây, ta có thể lấy ra một kết luận. Đó là án lệ của Tòa Án Công Lý Quốc Tế (CIJ - Cour Internationale de Justice) về tranh chấp giữa Tân Gia Ba và Mã Lai về chủ quyền của các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge qua phán quyết ngày 23-5-2008.

Pedra Branca (tiếng Bồ Đào Nha) hoặc Batu Puteh (tiếng Mã Lai) có nghĩa là "đá trắng". Đây là một hòn đảo đá granite, chiều dài 137 mét và chiều rộng trung bình 60 mét, diện tích khoảng 8560 mét vuông khi thủy triều xuống. Nằm ở phía đông eo biển Malacca, có tọa độ 1° 19' 48" vĩ độ bắc và 104° 24' 27 " kinh độ đông. Đảo cách khoảng 24 hải lý về phía đông của Singapour, cách 7,7 hải lý về phía nam tiểu bang Johor của Malaisie và cách 7,6 hải lý về phía bắc của đảo Bintan của Indonesie. Trên đảo có ngọn hải đăng Horsburgh được dựng lên vào giữa thế kỷ XIX.

Middle Rocks và South Ledge là hai đảo nhỏ khác kế cận Pedra Branca / Pulau Batu Puteh. Middle Rocks cách 0,6 hải lý về phía nam, bao gồm hai hòn đá nhỏ cao khoảng 0,6-1,2 m trên mặt biển, cách nhau khoảng 250 mét. South Ledge là một đảo đá chỉ thấy khi thủy triều thấp, cách Pedra Branca / Pulau Batu Puteh 2,2 hải lý về phía nam-tây nam.

Về hình thể địa lý, ta thấy bãi cạn Scarbourough có những điểm gần giống với quần thể các đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge, nói chung là các đảo đá, có đảo nổi, có đảo lúc nổi lúc chìm tùy theo thủy triều.

Trên phương diện lịch sử, tất cả các đảo trên, kể cả lãnh thổ Singapour và Mã Lai hiện nay, đều thuộc về vương quốc Johor (từ thế kỷ 15). Tức về lịch sử, Mã Lai đã chứng minh được chủ quyền và tính liên tục quốc gia trên các đảo đó. Tuy vậy, phán quyết của CIJ cho rằng Singapour có chủ quyền ở đảo Pedra Branca. Các lý lẽ đã khiến cho Mã Lai mất đảo này là vì thái độ thụ động của quốc gia  trong việc hành sử chủ quyền. Nguyên nhân khác, quan trọng hơn hết, là tấm « công hàm » 1953 của vương quốc Johor. Công hàm này có nội dung phủ nhận chủ quyền của tiểu quốc Johor tại đảo Pedra Branca, trong khi các bằng chứng đã trình bày cho thấy điều này không đúng. Điều đáng ghi nhận, người ký công hàm thuộc về một « chính phủ lâm thời », lý ra không có thẩm quyền ký nhận.
Về đá Middle Rocks (và South Ledge), Singapour vịn lý do vì các đảo này nằm trong vùng lãnh hải của đảo Pedra Branca, nếu đảo này thuộc Singapour thì các đảo kia cũng thuộc nước này. Singapour dựa lên tính liên tục địa lý. Tuy vậy, Tòa phán rằng đá này thuộc về Mã Lai (có chủ quyền lịch sử do tính liên tục quốc gia) trong khi bãi chìm South Ledge, Tòa phán rằng, đảo này nằm ở vùng lãnh hải nước nào thì sẽ thuộc chủ quyền của nước đó.

Điều đáng chú ý, về tình trạng pháp lý của đá South Ledge (lúc chìm lúc nổi), tòa đã nhắc lại án lệ tranh chấp giữa Qatar c. Bahreïn (Qatar đơn phương kiện Bahreïn lên CIJ), theo đó : “luật pháp quốc tế im lặng về tình trạng pháp lý của các bãi lúc chìm lúc nổi, các bãi này có thể xem như là một “lãnh thổ” hay không ? luật pháp hiện hành cũng không thể xác định là các bãi đó có thể xem như là một lãnh thổ tương đương với “đảo” hay không”.

Điều này cho thấy, các đá nổi thường trực lên mặt nước thì có thể chiếm hữu, và có thể hưởng qui chế đảo theo điều 121, như đá Middle Rocks và đảo Pedra Branca.

Về trường hợp đá South Ledge (lúc chìm lúc nổi), luật pháp quốc tế hiện hành không có ý kiến gì về tình trạng pháp lý của nó.

Như thế, Scarborough là một bãi cạn, có đá nổi thường trực trên mặt nước, do đó có thể chiếm hữu và có lãnh hải. Điều quan trọng nhất ở đây là bãi cạn này có thể có vùng kinh tế độc quyền (ZEE) và thềm lục địa hay không ? Tùy theo hiệu quả của việc này mà việc tranh chấp hai bên Trung-Phi có “enjeu” rất quan trọng.

Vài thí dụ về hiệu lực các đảo: Luật Quốc tế về Biển không phân biệt đảo lớn hay đảo nhỏ mà chỉ qui định rằng đảo nào có thể cho người sinh sống và tạo được một đời sống kinh tế tự túc là có thể có vùng ZEE và thềm lục địa đến 200 hải lý.

Đảo Clipperton: có diện tích khoảng 6 Km², không có người ở, tọa lạc ở phía đông Thái Bình Dương, cách bờ Mễ Tây Cơ 1.120 Km, mang tên Clipperton là tên của một tên cướp biển nổi tiếng, lẩn trốn trên đảo. Năm 1858 Pháp tuyên bố chủ quyền ở đảo này. Năm 1897 Mễ chiếm đảo và tuyên bố chủ quyền. Năm 1931, Pháp đưa tranh chấp ra tòa án quốc tế, được xử thắng kiện. Năm 1979 Pháp tuyên bố vùng kinh tế độc quyền ZEE và thềm lục địa cho các đảo thuộc Pháp, trong đó có Clipperton. Năm 2009, Pháp đệ trình hồ sơ thềm lục địa mở rộng cho cả đảo này và không gặp phản đối của nước nào. Đảo này chỉ là một đảo san hô, không có người ở, hoạt động kinh tế duy nhất là đánh cá.

Các đá St-Pierre và St-Paul: Đây là một tập hợp 12 đá nhỏ do núi lửa cũ cấu thành, ở phía đông Brésil. Đá cao nhất 22,5 mét. Đá lớn nhất có kích thuớc 350 mét X 200 mét, diện tích khoảng 10.000 m². Một ngọn hải đăng được dựng nơi đây. Đá này còn nhỏ hơn bất kỳ đá nào ở TS, nhưng nó được đầy đủ vùng ZEE và thềm lục địa. Năm 2004, Brésil đệ trình hồ sơ thềm lục địa mở rộng, xác định vùng biển và thềm lục địa tại hai đá này. Hồ sơ không bị bác, với 15 phiếu thuận và 2 phiếu chống.

Các đảo McDonald và Herald của Úc: Các đảo này không có người sinh sống cũng như không có hoạt động kinh tế nào. Tuy vậy đệ trình của Úc về thềm lục địa mở rộng vẫn tính hiệu lực hai đảo này.

Đảo Okinotorishima của Nhật: Đảo này thực ra là một đảo đang chìm, chỉ còn nổi lên mặt ba hòn đá nhỏ. Nhật ra sức củng cố đảo để không cho nó chìm xuống. Năm 2008, Nhật đã đệ trình hồ sơ thềm lục địa mở rộng, trong đó đảo này được tính đầy đủ hiệu lực.

Nếu vấn đề đưa ra một trong tài quốc tế:

Các thí dụ ở trên cho thấy một đảo, đá, không có người sinh sống và nền kinh tế tự túc, đôi khi vẫn có hiệu lực đầy đủ về ZEE và thềm lục địa. Nếu so sánh các đảo HS và TS (có người sinh sống), thậm chí bãi cạn Scarborough, với các đảo trên, đồng thời xét qua các án lệ về chủ quyền và tình trạng pháp lý của các đảo, ta thấy các đảo HS, TS hay bãi cạn Scarborough có thể được xem là “lãnh thổ”. Từ đó một nước có thể chiếm hữu, có thể đòi hiệu lực về ZEE và thềm lục địa.

Ý thức được điều này, ta sẽ thấy việc lựa chọn để đưa ra trọng tài phân xử trong trường hợp tranh chấp Scarborough là một lựa chọn chiến lược, có nhiều “options” riêng biệt:

1/ Dựa trên ZEE và thềm lục địa. Bãi Scarborough là một bãi đá không có giá trị “lãnh thổ” để có thể chiếm hữu như đảo. Bãi này tọa lạc trong vùng kinh tế độc quyền 200 hải lý của Phi, do đó thuộc quyền tài phán của Phi.

2/ Dựa lên chủ quyền của Phi tại bãi cạn Scarborough, đồng thời vùng biển chung quanh thuộc về vùng kinh tế độc quyền của Phi. Bãi cạn này, theo hình thể địa lý của nó, theo các án lệ quốc tế và luật quốc tế về Biển, là một “lãnh thổ” như là đảo, có thể chiếm hữu. Từ lâu Phi đã hành sử chủ quyền và quyền tài phán tại bãi cạn này, qua việc cho phép hải quân Hoa Kỳ đóng tại đây cũng như việc xây hải đăng (không thành) trong quá khứ.

Theo tuyên bố của nhà chức trách Phi, hiện nay nước này có vẻ chú tâm nhiều tới “Option 1”, lấy hứng từ tổ hợp luật sư Covington & Burling ở Washington, qua hồ sơ Việt Nam tại bãi Tư Chính, phía TQ gọi là Vạn An Bắc, vào thập niên 90, khi phía TQ ngang nhiên ký giấy phép cho các công ty nước ngoài khai thác khu vực này. Lập luận của các luật sư này, qua hồ sơ “Những yêu sách đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực bãi ngầm Tư Chính và Thanh Long trong biển Đông” do Brice M. Claget thành lập, theo đó bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa của VN, không liên quan đến Trường Sa. Tuy vậy, nếu Phi áp dụng phương pháp này sẽ phạm nhiều sai lầm chiến lược : a) Phi không bị mất tố quyền (forclusion) như trường hợp Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và sự khác biệt giữa hai khu vực một bên là bãi cạn, một bên là bãi ngầm. b) Bãi ngầm Tư Chính không thể chiếm hữu, do đó không thể đòi hỏi ZEE và thềm lục địa. Trong khi bãi cạn Scarborough thì có thể xem như  là lãnh thổ, có thể chiếm hữu và có thể đòi hỏi lãnh hải, ZEE và thềm lục địa.

Theo “option 1”, Phi gián tiếp không nhìn nhận tình trạng pháp lý bãi cạn Scarborough như địa mạo của nó đã được tập quán quốc tế công nhận, lại xem nó như là một bãi ngầm. Trong khi TQ tận dụng yếu tố pháp lý này, lợi dụng sự ngập ngừng của Phi về bãi cạn Scarborough, để đặt căn bản đòi vùng biển của họ. Phía TQ đã lập lại những gì họ đã làm đối với VN ở khu vực Tư Chính từ hai thập niên trước, cho Phi ở khu vực Scarborough hiện nay.

Lập trường phía TQ : đòi quyền quản lý biển mà không cần chứng minh quyền chủ quyền các “lãnh thổ” từ đó sinh ra vùng biển (mà họ đòi quản lý). Lập trường của Phi (và VN) : ám thị từ bỏ các quyền của mình tại các vùng biển phát sinh từ các lãnh thổ trên biển mà mình có thể dễ dàng chứng minh chủ quyền, đặt lập luận trên quyền quản lý biển từ lãnh thổ trên đất liền.

Việc này làm yếu đi tư thế của Phi (cũng như của VN tại TS). Tranh chấp trên bề mặt là tranh chấp về biển sẽ che khuất tranh chấp chủ quyền các “lãnh thổ” trên biển. Phía TQ chỉ chờ có bấy nhiêu để nhân dịp đó để tuyên truyền chủ quyền của họ ở các “lãnh thổ trên biển”. Bởi vì, khi hai bên chấp nhận là có tranh chấp về biển, tức là hai bên mặc nhiên đồng ý “lãnh thổ” sinh ra “vùng biển đang tranh chấp” cũng có tranh chấp.

Vài điều nói thêm:

Vấn đề, lẽ ra chỉ là việc “bảo vệ chủ quyền” lại trở thành việc giải quyết  “tranh chấp chủ quyền”.

Hành động của TQ tương tự một tên cướp, vào nhà người ta đòi chia hai ngôi nhà với chủ.

Trường hợp này chủ nhà sẽ “bảo vệ” chủ quyền ngôi nhà của mình hay là tìm phương pháp giải quyết “tranh chấp” với kẻ cướp ? Dĩ nhiên là “bảo vệ”. Nếu bảo vệ bằng sức không được thì bảo vệ bằng công lý của Tòa án.

Việc này Phi đang làm. Nhưng nếu hồ sơ của Phi nhìn nhận “có tranh chấp” ở bãi cạn Scarborough, theo kinh nghiệm của nhiều bản án mẫu của CIJ, bãi này sẽ chia hai. Khôn hay dại chỉ đường tơ kẻ tóc.







No comments:

Post a Comment

View My Stats