Huỳnh Hữu Tuệ
Thứ
hai, 19 Tháng 11 2012 01:12
Xin
trân trọng giới thiệu một bài viết mới của Gs Huỳnh Hữu Tuệ. Anh ấy là chỗ quen
biết của tôi, và cũng là một “chứng nhân” cho sự thay đổi trong giáo dục đại
học trong thời gian gần đây. Anh Huỳnh Hữu Tuệ từng du học ở Canada, sau này về
Việt Nam tham gia giảng dạy trong đại học, và có thời làm hiệu trưởng Đại học
Quốc tế Bắc Hà. Nay thì anh là giáo sư của Trường Đại học Quốc tế trong Đại học
Quốc gia TPHCM. Anh Huỳnh Hữu Tuệ cũng có bài nói chuyện trong Hội thảo Giáo
dục Đại học Việt Nam trong thời đại toàn cầu hoá vừa được tổ chức hai tuần
trước. Trong bài này, bằng một văn phong thẳng thắn, anh Tuệ nói về những trải
nghiệm cá nhân của anh trong thời gian trên dưới 20 năm qua.
N.V.T
---------------------------
HIỆN TÌNH NỀN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM QUA KINH NGHIỆM THỰC TIỂN
VÀ LĂNG KÍNH CÁ NHÂN
Tóm
tắt:
Sau 10 năm hoạt động trực tiếp trong ngành giáo dục đại học (tất cả các cấp:
đại học và sau đại học) với một số trọng trách từ giảng dạy, nghiên cứu đến
quản lý, tác giả trình bày những kinh nghiệm cá nhân của mình và rút ra một số
nhận xét chủ quan về tình hình hiện nay của hệ thống giáo dục đại học tại Việt
Nam.
I.
Giới thiệu bối cảnh
Tôi
xuất thân từ Miền Nam, chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền giáo dục cổ điển của
Pháp, từ bản lĩnh, đạo lý đến phương pháp lý luận cũng như kiến thức tổng hợp.
Đi du học đầu những năm 60 của thế kỷ trước tại Canada; được đào tạo chính qui
ngành điện tử viễn thông; và sau đó, tiếp tục nghiên cứu đến mức độ tiến sĩ
khoa học (Sc.D.) trong lĩnh vực xử lý thông tin. Trong quá trình học tập và nghiên
cứu, tôi chịu ảnh hưởng của hệ thống giáo dục Bắc Mỹ; nhất là trau dồi kiến
thức và hoàn thiện phương pháp nghiên cứu thông qua rất nhiều cơ hội gặp gở để
trao đổi và học hỏi các nhà khoa học bậc thầy của thế giới tại các xơmina và
các hội nghị khoa học quốc tế quan trọng. Trong quá trình nghiên cứu và giảng
dạy, tôi lại may mắn có được nhiều đồng nghiệp giúp đở để hoàn thiện mình như
một nhà sư phạm và nhà tổ chức nghiên cứu. Do đó, tôi có một giấc mơ là làm thế
nào để chuyển tải tất cả những kinh nghiệm mà cá nhân tôi đã tích lũy được cho
thế hệ trẽ ở Việt Nam, như tôi đã từng được các bậc thầy trau dồi trong quá
khứ.
Từ
suy nghĩ đó, ngay sau ngày Việt Nam thống nhất, tôi đã quyết định thường xuyên
về Việt Nam, một mặt để tham gia vào quá trình giảng dạy và cộng tác với các
đồng nghiệp thực hiện một số nghiên cứu chung, mặt khác để quan sát những điểm
mạnh cũng như những điểm yếu trong hệ thống giáo dục của ta. Để hiểu rõ những
đặc điểm của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam, tôi đã đồng ý giảng dạy tại
khá nhiều trường đại học từ Bắc chí Nam ở tất cả các cấp đại học và sau đại
học, như Đại học khoa học tự nhiên Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Lê
Quí Đôn Hà Nội, Đại học kinh tế Quốc dân, Đại học Huế, Đại học Bách khoa Sài
Gòn.
Thông
qua trao đổi và giảng dạy trên một khoảng thời gian khá dài, từ năm 1979 đến
ngày hôm nay, tôi là một nhân chứng khách quan những biến động của nền giáo dục
đại học tại Việt Nam. Nhưng kinh nghiêm quí báu nhất là lúc tôi chấp nhận lãnh
đạo Đại học Quốc tế Bắc Hà từ năm 2007 đên cuối năm 2011. Với vai trò lãnh đạo một đại học
ở Việt Nam, tôi mới có dịp thấy hết những bất cập của hệ thống đào tạo ở bậc
đại học và số khía cạnh khác của xã hội.
Giáo sư Huỳnh Hữu
Tuệ
II.
Kinh nghiệm cá nhân
Từ
1979 đến 1984, tôi giảng dạy trong lĩnh vực “Xử lý dữ liệu ngẫu nhiên và áp
dụng”. Trong giai đoạn đấy, tình hình kinh tế rất khó khăn, nạn thiếu đói khá
phổ biến, nhưng sinh viên lại rất ham học. Đi học đúng giờ, ăn mặc giản dị
nhưng tươm tất, ăn nói lịch sự và lễ độ. Cũng trong giai đoạn ấy, tôi chưa bao
giờ đánh hỏng bất cứ sinh viên nào. Từ 1984 đến đầu những năm 1990, vì giới hạn
thời gian, tôi chỉ có dịp trinh bày những seminar và chuyên đề về nhưng vấn đề
chuyên môn cao và những kết quả nghiên cứu cá nhân của tôi. Đến giữa những năm
1990, tôi lại được mời giảng dạy một số lớp thạc sĩ và mãi đến đầu những năm
2000 tôi mới lại có dịp giảng một số môn học ở cấp đại học. Đồng thới, tôi cũng
đã tìm cách đưa một số sinh viên Việt Nam Nam sang làm nghiên cứu sinh ở Canada
và Mỹ. Tôi kể ra những chi tiết này để quí vị thấy rõ những điều tôi đề cập sau
đây dựa trên quan sát cá nhân những tình huống thực tiển có thực.
Kể
từ giữa những năm 1980, nhất là sau khi Việt Nam mở cửa, tình hình kinh tế càng
ngày càng khó khăn. Và kể từ giai đoạn đó, ngay cả sau khi nền kinh tế phát
triển mạnh, sinh viên tại Việt Nam càng ngày càng ít quan tâm đến học tập.
Phần lớn sinh viên ghi danh trong các
chương trình thạc sĩ đều không đủ trình độ và ít quan tâm đến học tập.
Phần lớn các luận văn nghiên cứu khoa
học ở cấp cử nhân chỉ là sao chép các tài liệu tải về từ mạng Internet. Các
luận văn thạc sĩ cũng ở trong tình trạng như vậy, mà lại còn dịch sai so với
tài liệu gốc.
Phần lớn các luận án tiến sĩ có nội
dung thấp, hoặc sao chép từ các công trình khác; một số luận án có chất lượng
lại do giáo sư hướng dẫn viết giúp.
Tuy
nhiên, may mắn là vẫn còn một số sinh viên học tập nghiêm túc, vẫn có một số
luận án tiến sĩ ngang tầm với các đại học lớn nước ngoài và vẫn có một số công
trình nghiên cứu có chất lượng được thực hiện tại Việt Nam.
Tuy
không nhiều nhưng đây chính là điểm sáng về sức mạnh trí tuệ Việt Nam, giúp ta
hy vọng một ngày nào đó, hệ thống giáo dục đại học sẽ được vực dậy để phát
triển nhằm bắt kịp các nước láng giềng và hơn thế nữa là bắt kịp các nước phát
triển.
Tình
hình này khác hẳn những gì tôi biết được về hệ thống giáo dục đại học của ta trước
đây, là một nền giáo dục thật sự có chất lượng, tuy chưa cao nhưng rất nghiêm
túc. Ngày hôm nay, nền giáo dục của chúng ta đã
đánh mất chất lượng cũng như bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm.
Cái gì đã làm nền giáo dục đại học Việt
Nam thay đổi nhanh chóng như vậy? Tôi xin đưa ra một số ý kiến, chưa hẳn là
chính xác hoàn toàn, nhưng nếu có điều kiện đề nghiên cứu, tôi thấy chắc cũng
không xa thực tế là bao nhiêu
“Một hệ thống giáo dục là tấm gương phản chiếu thực tế của xã
hội đó”.
Như thế, nếu xã hội suy thoái, thì hệ thống giáo dục cũng suy
thoái theo; nói một cách khác; hệ thống giáo dục là hệ quả của cơ chế tổ chức
xã hội và tình hình hiện tại của xã hội đó. Từ hơn 10 năm qua, năm nào chúng ta cũng tổ
chức nhiều hội thảo về tình hình giáo dục và nhất là tình hình của hệ thông
giáo dục cấp đại học. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một đánh giá thực sự về
những nguyên nhân gây ra tình hình không mấy tốt này.
Ta
cứ tìm mục giáo dục trong bất cứ tờ báo nào, cũng thấy nhan nhản những cái tựa
lố bịch, thể hiện trình độ nhận thức méo mó về giáo dục, nhưng đắng cay thay,
chúng cũng chứa đựng thực tế của nền giáo dục Việt Nam. Tôi xin dẫn sau đây một
số ví dụ nhỏ để minh họa cho những suy nghĩ của tôi.
Báo Pháp Luật
Việt Nam,
cơ quan của Bộ Tư pháp, ngày 04/09/2012 đã chạy một cái tít đầy khinh mạn “Khi bà lao công quan trọng hơn ông
tiến sĩ”. Thật ra bài báo này muốn đã phá tình hình xấu xa của
một số cơ quan nghiên cứu, trong đó ông giám đôc lợi dụng khả năng nghiên cứu
của các thành viên để kiếm tư lợi cho mình; nếu có ai đó không để ông lợi dụng,
thì ông giám đốc cay cú trả đủa ngay:
“Ở
cơ quan ông T. có một bà lao công già rất nhiều lời. Cứ thành lệ, bốn giờ chiều
là bà xua mọi người đi về để tắt đèn, đóng cửa, vệ sinh hành lang. Nhưng ông T.
thường xuyên ở lại quá giờ đó khi là để tìm kiếm thêm tài liệu trên mạng, khi
là để dịch nốt mấy trang nghiên cứu còn đang dở. Nhưng bà lao công đã đứng oang
oang ở cửa: “Này anh kia, anh điếc hay mù mà không biết mấy giờ rồi? Về mau cho
tôi còn đóng cửa, chứ không tí nữa giày anh làm bẩn hành lang tôi mới lau thì
chết với tôi”. Nhịn một lần, hai lần nhưng đến lần thứ ba thì ông T. đem câu chuyện
này ra trong cuộc họp công đoàn. Nào ngờ lãnh đạo của ông thản nhiên giải
thích: “Bà ấy già rồi chấp gì, với lại công việc bà ấy cũng quan trọng ấy chứ,
trực tiếp làm ra sản phẩm chứ đâu… nghiên cứu vẩn vơ(!)”.
Sự
thực này cho thấy xã hội Việt Nam vẫn chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng của
nghiên cứu khoa học. Và xa hơn một mức nữa là trí tuệ chưa được coi trọng đúng
mức trong cơ chế hiện nay.
Báo Dân Trí, ngày 14/09/2012 đã
chạy một cái tít đầy kịch tính “Học sinh bị lưu ban vì không đi học
thêm?”. Bài báo này kể chuyện tại một làng quê nghèo ở Thanh
Hóa, ban giám hiệu một trường tiểu học đã tuyên bố nếu học sinh không đi học
thêm vào mùa hè thì phải ở lại lớp.
Sự
thực này cho thấy, ngân sách dành cho giáo dục chưa đủ để bảo đãm một cuộc sống
tươm tất cho các nhà giáo. Họ đành phải phá bỏ cương thường để tìm ra con đường
sống cho mình. Và đây là lý do tại sao đạo đức càng ngày càng bị thui chột
trong xã hội ta.
Báo Người Lao
Động,
ngày 7/09/2012 đã chạy một cái tít rất dễ gây hiểu nhầm “Công nghệ cao, nhân lực thấp?”.
Bài báo khởi đầu với một cái ý rõ ràng “Hơn 70% là lao động phổ thông khiến
nguồn nhân lực Khu Công nghệ Cao TPHCM khó đáp ứng cho sự phát triển”.
Phải
hiểu thực tiễn này như thế nào? Lao động phổ thông là lao động không có tay
nghề, không được đào tạo chính qui. Như thế loại lao động này chỉ thích hợp với
các công nghê đơn giản như dệt may, dày dép, v.v…
Trong
lúc đó, các công ty công nghệ cao lúc tuyển nhân viên,về thực chất, họ chỉ đánh
giá bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm của nhân viên; nếu đáp ứng được các tiêu
chí này thì sẽ được công ty đào tạo cho dây chuyền sản xuất công nghệ cao của
công ty. Nếu các công ty công nghệ cao than phiền là thiếu nhân lực, không phải
vì người thợ không có tay nghề, mà chính ví người thợ không có bản lĩnh và
thiếu tinh thần trách nhiệm. Đây là những yếu tố quan trọng mà một nền giáo dục
nghiêm túc phải bảo đảm là rèn luyện sinh viên cho đến nơi đến chốn.
Tôi xin kể một câu
chuyện vừa buồn cười, vừa cay đắng: lúc tôi đang làm Hiệu trưởng Đại học Quốc
tế Bắc Hà. Bộ phận hành chính của trường yêu cầu một công ty đến lắp đặt một hệ
thống theo dõi các chuyển động trong văn phòng của tôi. Một buổi sáng nọ, có
hai thanh niên xin vào phòng làm việc của tôi để lắp đặt hệ thống. Thật ra
không có gì phức tạp, chỉ là một camera hồng ngoại. Chỉ cần cắm nó vào cái đế
đã được gắn chặt vào vách tường trước đó. Điều này có nghĩa là bất cứ ai cũng
có thể cắm camera vào cái đế này. Bỗng dưng tôi nhìn ra một người là sinh viên
cũ của tôi tại một đại học có tiếng tăm ở Hà Nội. Tôi hết sức ngạc nhiên hỏi
cậu ta “Anh là kỹ sư sao công ty lại giao cho anh làm cái việc cỏn con này?”.
“Việc này không phải một mình em làm đâu. Theo lệnh của lãnh đạo công ty, em
cùng đến đây với một anh bạn, là cựu sinh viên của một đại học tiếng tăm khác ở
Hà Nội; hai anh em được giao trách nhiệm lắp đặt này”.
Một
công ty giao trách nhiệm cho 2 kỹ sư tốt nghiệp các đại học hàng đầu của Việt
Nam, đi gắn một cái camera hồng ngoại vào một cái chân đế! Câu chuyện này xảy
ra năm 2008. Điều này cho thấy tình thình thực tiển của nền công nghiệp Việt
Nam và các công ty công nghệ đang thật sự có trình độ như thế nào.
Trên trang Vietnamnet, ngày 3 tháng 7 năm
2012, có một bài báo mang tựa đề “Hơn 9000 giáo sư sao không có bằng
sáng chế?”; nội dung bài báo muốn đề cập đến vấn đề nghiên cứu
khoa học ở Việt Nam; các tác giả dựa trên các dữ liệu thống kê để kết luận tính
yếu kém trong nghiên cứu khoa học. Các tác giả đã nêu rõ ý kiến sau: “Cũng
cần nói thêm rằng Việ tNam chưa có một cơ chế để hỗ trợ và phụ trách đăng kí
sáng chế. Theo chúng tôi biết, Việt Nam còn thiếu những luật sư có kinh nghiệm
trong việc đăng kí bằng sáng chế và sở hữu trí tuệ. Nhà khoa học thì chưa chắc
có khả năng tài chính để tự đăng kí, mà dù cho có khả năng tài chính thì không
có luật sư cũng khó làm được. Trong khi đó, các đại học còn chưa quan tâm đến
nghiên cứu khoa học, thì họ đâu có thì giờ quan tâm đến việc đăng kí bằng sáng
chế ».
III.
Một số nhận xét
Từ
kinh nghiệm cá nhân và với những ví dụ đơn giản vừa được nêu ra, ta thấy rõ một
số đặc trưng của nền giáo dục đại học hiện nay ở nước ta.
Tiền nào của ấy : đây không những là
ý kiến của bà Nguyễn Thị Kim Tiến (hiện nay là Bộ trưởng Bộ Y tế) tại Hội nghị
toàn quốc về chất lượng giáo dục ĐH tổ chức ngày 5/1/2008 tại Trường ĐH Sư phạm
Kỹ thuật TPHCM, khi nói về mối quan hệ giữa đầu tư và chất lượng hiện nay, mà
còn là ý kiến của đông đảo quan sát viên trong và ngoài nước. Đặc biệt là đối
với các đại học nghiên cứu, chất lượng đào tạo và nghiên cứu phụ thuộc rất
nhiều vào vấn đề ngân sách. Chỉ cần xem ví dụ 2 và 4 là ta thấy rõ mối quan hệ
này. Mặt khác, ngân sách giáo dục của Việt Nam đã vượt 20% ngân sách quốc gia.
Như thế, ngân sách dành cho giáo dục khó có thể nâng cao vượt bực trong vài năm
tới như mong muốn, mà phải cần thời gian và một chiến lược thích hợp để thay
đổi tình hình suy thoái hiện nay
Phương pháp giảng dạy : hiện nay, trong hầu
hết các lớp học ở tất cả các cấp, người thầy lên lớp chép bài lên bảng; học
sinh sinh viên chép lại bài của thầy giáo vào vở của mình. Hầu như giữa thầy và
trò không có mối liên hệ về trí tuệ, không trao đổi, không thảo luận; tất cả
đều thụ động cả thầy lẫn trò. Tôi từng là nhân chứng một sự kiện thật khó quên;
người thầy mở máy casette phát bài cho sinh viên chép tại một lớp học kỹ sư.
Thật không thể tin nổi! Lớp học không có sinh khí, làm cho người ta dễ chán nản
đối với một môi trường đào tạo như thế. Tình hình này làm thui chột tư duy và
trí tuệ của con người.
Phương pháp học tập : sinh viên vào lớp
nghe giảng một cách thụ động; không động não để có thể tổng hợp nhanh chóng các
kiến thức mới. Sinh viên không dám trao đổi thảo luận với thầy giáo để làm rõ
những vấn đề vẫn còn khúc mắc. Sinh viên học chỉ nhằm làm thế nào để thi đổ
thành công môn học, mà không thèm để ý đến những hiệu quả, hậu quả của cách học
của mình. Do đó, vấn đề sao chép tài liệu, sao chép bài của nhau được xem
là bình thường, dẫn đến tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu tự trọng
và thiếu cả tinh thần tôn trọng luật pháp.
Tất cả những gì tôi quan sát được dẫn đến những mô tả về đặc
trưng của nền giáo dục của ta hiện nay thật ra không có gì mới. Tuy nhiên, ta
thấy ngay những điều cần điều chỉnh để có thể có một nền giáo dục tốt hơn. Tôi
xin trích lại đây ba nhiệm vụ chính của một đại học theo quan điểm của Marcus
Storch, Chủ tịch Hội đồng Quỹ Nobel: Là ký ức của xã hội, Là mũi nhọn của xã
hội, và Là tấm gương phê phán của xã hội. Cả ba trách nhiệm này đòi hỏi trí
tuệ phải là yếu tố hàng đầu
Muốn
đạt được các mục tiêu đó, môi trường đào tạo đại học phải được xây dựng thế nào
để sinh viên được phát triển tối đa tư duy tự do và tư duy phản biện.
Có
tư duy tự do mới có khả năng đóng vai trò ký ức của xã hội; có tư duy phản biện
mới có thể là tấm gương phê phán của x ãhội. Có tư duy tự do và tư duy phản
biện mới có cơ hội để phát triển tư duy sáng tạo nhằm làm mũi nhọn của xã hội.
Trong
xã hội ta vẫn còn một số sinh viên học tập nghiêm túc, vẫn có một số luận án
tiến sĩ ngang tầm với các đại học lớn nước ngoài và vẫn có một số công trình
nghiên cứu có chất lượng được thực hiện tại Việt Nam. Tuy không nhiều nhưng đây
chính là điểm sáng khẳng định rõ ràng tiềm năng trí tuệ của xã hội chúng ta.
Như
thế, để nâng cao chất lượng đào tạo đại học và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam,
điều kiện tiên quyết quan trọng nhất chúng ta đã có sẵn; đấy là tiềm năng trí
tuệ của con người Việt Nam. Để thật sự phát huy tiềm năng này, những điều cần
thực hiện ngay là:
Bảo
đảm cơ sở vật chất đầy đủ để hoạt động giảng dạy và nghiên cứu thật sự có hiệu
quả;
bảo đảm điều kiện tài chánh thích hợp để giảng viên và nghiên cứu viên có cơ
hội tập trung làm việc, nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu.
Xây
dựng một môi trường đào tạo thế nào để sinh viên có đủ điều kiện phát huy tư
duy tự do và tư duy phản biện, giúp sinh viên xây dựng bản lĩnh làm
người và tinh thần trách nhiêm đối với xã hội; xây dựng lòng tự tin của cá nhân
trước những vấn đề phức tạp cần giải quyết.
Trong
tình hình hiện nay, thực hiện các điểm đề ra là một vấn đề tuy không nan giải
nhưng đầy dẫy khó khăn. Vì thế, ta thấy 10 năm trước mắt, khó có thể nâng cao
chất lượng của hệ thống một cách rộng rãi. Về đường trường, nếu ta có một chiến
lược quyết liệt và thích hợp, mà nếu toàn bộ hệ thống thực hiện nghiêm túc nhằm
đạt mục tiêu chung, chúng ta có quyền hy vọng một tương lai tốt đẹp cho nền
giáo dục của nước nhà./.
Huỳnh
Hữu Tuệ
Tin
liên quan:
No comments:
Post a Comment