Châu Âu đã hết thời
gian để điều chỉnh chính sách quốc phòng
Norbert Röttgen
| Foreign Affairs
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2024/11/30/chau-au-da-het-thoi-gian-de-dieu-chinh-chinh-sach-quoc-phong/
Với sự
trở lại của Trump, lục địa già phải tự quản lý an ninh của mình – và phải nhanh
chóng làm vậy.
Suốt
hàng thập kỷ, liên minh xuyên Đại Tây Dương đã là nền tảng của an ninh châu Âu.
Nhưng ngày nay, quan hệ đối tác của châu Âu với Mỹ đang đứng trước một bước ngoặt
quan trọng. Với việc Donald Trump trở lại Nhà Trắng, thực sự có nguy cơ rằng sự
can dự của Mỹ vào châu Âu có thể giảm mạnh. Nếu Mỹ ngừng viện trợ quân sự cho
Kyiv, hậu quả sẽ rất sâu rộng, đối với cả cuộc chiến ở Ukraine lẫn hàng phòng
thủ còn lại của châu Âu chống lại các mối đe dọa bên ngoài, trong đó có một nước
Nga phục thù.
VIDEO
:
Châu
Âu đã hết thời gian để điều chỉnh chính sách quốc phòng
https://www.youtube.com/watch?v=VyVaLmOm1Yk&t=2s
Dù
nhiệm kỳ thứ hai của Trump nhiều khả năng sẽ mang lại một thay đổi triệt để hơn
so với chính sách trước đây của Mỹ, nhưng thực ra sự bất mãn đối với những đóng
góp của châu Âu vào quan hệ xuyên Đại Tây Dương đã tồn tại âm ỉ ở Mỹ trong nhiều
năm. Tuy nhiên, châu Âu đã lãng phí quãng thời gian mà họ đáng lẽ phải dành để
đầu tư nhiều hơn vào quan hệ này – bao gồm cả việc xây dựng hệ thống phòng thủ
của riêng mình. Cuộc xâm lược Ukraine của Nga vào năm 2022 đáng lẽ phải là lời
cảnh tỉnh cuối cùng, tạo ra động lực thực sự thúc đẩy nỗ lực của châu Âu nhằm
trở thành một tác nhân an ninh đáng tin cậy đúng nghĩa. Nhưng thay vào đó, một
lần nữa, họ lại để Mỹ dẫn đầu trong một cuộc chiến ở châu Âu. Giờ đây, lựa chọn
dự phòng đó có nguy cơ biến mất và các nhà lãnh đạo châu Âu không thể chỉ đổ lỗi
cho Washington về tình trạng khó khăn của họ.
Các
nhà lãnh đạo châu Âu phải hành động quyết đoán để thúc đẩy một chiến lược thống
nhất nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định cho châu lục. Họ phải nhanh chóng tăng cường
hỗ trợ kinh tế và quân sự cho Ukraine, bắt đầu nỗ lực nghiêm túc để tạo ra một
ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu được tích hợp, và chứng minh cho Mỹ thấy rằng
châu Âu đã sẵn sàng gánh vác trách nhiệm của mình trong quan hệ đối tác cùng có
lợi. Từ giờ trở đi, an ninh của châu Âu sẽ phải là của châu Âu – hoặc nó sẽ
không tồn tại.
KHÔNG
CÒN CÓ THỂ QUAY LẠI
Kể
từ khi Mỹ tham gia Thế chiến II, họ đã xem an ninh châu Âu là lợi ích cơ bản của
mình. Chỉ khi có sự hỗ trợ của một châu Âu ổn định và hòa bình, Mỹ mới có thể
thể hiện sức mạnh trên toàn cầu. Tuy nhiên, sự can dự của Washington với châu
Âu không chỉ là về chiến lược. Liên minh này cũng dựa trên các giá trị, dựa
trên cam kết chung là bảo vệ nền dân chủ chống lại chế độ chuyên chế. Trong Chiến
tranh Lạnh, quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương càng được củng cố hơn nữa. Việc
thành lập NATO vào năm 1949 đã tạo ra một “chiếc ô an ninh” Mỹ giúp châu Âu tái
thiết và phát triển, và quan hệ đối tác kinh tế và quân sự giữa Mỹ và châu Âu
trong những thập kỷ tiếp theo đã thành công rực rỡ.
Tuy
nhiên, với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh và sự khởi đầu của một kỷ nguyên
đơn cực mới của Mỹ, một cảm giác tự mãn nguy hiểm đã xuất hiện ở cả hai bờ Đại
Tây Dương. Sự ổn định tương đối của giai đoạn này khiến nhiều quốc gia châu Âu
cắt giảm chi tiêu quốc phòng của họ, tin rằng chiến tranh đã biến mất khỏi lục
địa già mãi mãi. Hầu hết các đội quân châu Âu đều được tái cấu trúc để tập
trung vào các cuộc can thiệp ở nước ngoài và trong quá trình này đã bỏ bê khả
năng bảo vệ đất nước của chính họ. Trong khi đó, Mỹ cũng vướng vào các cuộc
xung đột tốn kém ở Trung Đông khiến các nguồn lực của họ dần cạn kiệt.
Trong
những năm đó, Châu Âu và Mỹ đã phớt lờ hoặc hạ thấp các mối đe dọa đang gia
tăng. Bắt đầu từ khoảng mười năm trước, những thách thức của Nga và Trung Quốc
đối với trật tự quốc tế do Mỹ lãnh đạo đã bắt đầu gia tăng. Năm 2014, Nga sáp
nhập Crimea và phát động chiến tranh ở khu vực Donbas của Ukraine. Sau khi Tập
Cận Bình lên nắm quyền lãnh đạo Trung Quốc, vào năm 2012, ông đã đại tu chính
sách kinh tế và đối ngoại của Trung Quốc và định vị nước này như một cường
quốc toàn cầu quyết tâm đứng ngang hàng với Mỹ. Trong khi đó, các nước phương
Tây lại vật lộn với những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, bao gồm suy thoái
công nghiệp, giảm khả năng cạnh tranh, xói mòn sự gắn kết xã hội, và bất mãn với
nguyên trạng chính trị.
Trong
chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ năm 2016, Trump đã truyền tải một cách hiệu
quả những bất bình của công chúng nảy sinh từ những vấn đề này. Nhiều người dân
Mỹ đã trở nên vỡ mộng với sự lãnh đạo toàn cầu, tức giận vì một lượng lớn tiền
thuế của họ đã được chi cho các hoạt động của Mỹ ở nước ngoài trong lúc một số
khu vực của đất nước đang phải vật lộn với khó khăn. Lời thề của Trump – đặt
“Nước Mỹ trên hết” – và việc yêu cầu các đồng minh phải trả tiền đã nhận được sự
ủng hộ. Điều mà nhiều người ở bên kia Đại Tây Dương hiểu ra quá muộn là: dù tiếng
nói của Trump có thể là lớn nhất, nhưng tình cảm cơ bản – chí ít là khi nhắc đến
châu Âu – đã lan rộng trong giới chính trị Mỹ. Ngay cả người tiền nhiệm của
Trump, Tổng thống Barack Obama, cũng kết luận rằng Mỹ nên giảm dấu chân của
mình ở châu Âu và Trung Đông để chuyển trọng tâm sang Ấn Độ Dương-Thái Bình
Dương.
Hy
vọng sai lầm mà nhiều nhà lãnh đạo châu Âu đã ấp ủ kể từ năm 2016, rằng châu Âu
chỉ cần chờ đợi nhiệm kỳ tổng thống của Trump kết thúc, phải bị ném vào thùng
rác của lịch sử. Dù cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine đã khiến chính quyền
Biden phải ưu tiên an ninh châu Âu, nhưng đây chỉ là một sự chệch hướng tạm thời,
chứ không phải là một thay đổi bao trùm trong chiến lược của Mỹ. Ngày nay,
không phải nhà lãnh đạo Mỹ nào cũng sẽ nhanh chóng rút lại cam kết của
Washington đối với châu Âu – hoặc nói về liên minh với giọng điệu gay gắt – như
Trump thường làm. Nhưng bỏ qua những khác biệt này, họ có lẽ vẫn đồng ý với yêu
cầu cơ bản của Trump rằng châu Âu phải chịu trách nhiệm lớn hơn đáng kể đối với
an ninh của chính mình.
Và
đối với châu Âu, không còn thời gian để lãng phí. Trump đã nhiều lần bày tỏ sự ủng
hộ của mình đối với việc dừng ngay lập tức mọi viện trợ quân sự của Mỹ cho
Ukraine, và châu Âu phải chuẩn bị cho khả năng rằng lần đầu tiên kể từ Thế chiến
II, họ sẽ là bên chủ chốt, được giao nhiệm vụ chấm dứt một cuộc xung đột lớn
trên lục địa. Một rủi ro thậm chí còn lớn hơn là Trump có thể theo đuổi một thỏa
thuận với Tổng thống Nga Vladimir Putin để đóng băng giao tranh. Putin hiểu rằng
một khi Trump tham gia đàm phán, ông sẽ phải đối mặt với áp lực trong nước để đạt
được một thỏa thuận – một ràng buộc mà Putin không chia sẻ. Sự mất cân bằng này
tạo ra đòn bẩy cho Putin, và bất kỳ thỏa thuận nào xuất hiện từ các cuộc đàm
phán như vậy sẽ rất khó có thể bao gồm các biện pháp bảo vệ đầy đủ cho Ukraine
– và rộng hơn là cho châu Âu – chống lại sự xâm lược trong tương lai của Nga.
Việc Washington đáp ứng các mục tiêu chiến tranh của Moscow sẽ làm suy yếu
nghiêm trọng uy tín của NATO, theo đó làm rung chuyển nền tảng của cấu trúc an
ninh châu Âu.
XÂY
DỰNG NĂNG LỰC
Châu
Âu hiện không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tự quản lý an ninh của mình. Rõ
ràng là họ có tiềm năng kinh tế để làm như vậy; GDP kết hợp của Liên minh châu
Âu cao gấp khoảng mười lần so với Nga. Điều kìm hãm châu Âu là thiếu ý chí
chính trị. Sự thiếu ý chí đó đã được minh chứng trong việc hỗ trợ quân sự cho
Ukraine: dù lạc hậu về công nghệ và suy yếu về kinh tế, nhưng trong năm qua,
Triều Tiên ước tính đã cung cấp cho Nga số lượng đạn pháo cao hơn toàn bộ EU
cung cấp cho Ukraine trong cùng kỳ. Tình trạng đáng thương này đã nảy sinh bất
chấp việc EU có một cơ sở công nghiệp vững mạnh và có bốn trong mười nước xuất
khẩu vũ khí lớn nhất thế giới trong số các thành viên của mình.
Châu
Âu cần tăng cường năng lực phòng thủ của mình – và phải làm việc đó nhanh
chóng. Nhưng dự án này đòi hỏi khả năng lãnh đạo chính trị, mà hiện tại rất khó
có được. Ở Đức, chính phủ liên minh đã sụp đổ, và các chính trị gia của nước
này sẽ dành những tháng tới để bận rộn với các cuộc bầu cử sớm, dự kiến diễn ra
vào ngày 23/02 và quá trình xây dựng liên minh sẽ diễn ra sau đó. Ở Pháp, Tổng
thống Emmanuel Macron đã mất thế đa số trong quốc hội vào mùa hè này, khiến ông
suy yếu về mặt chính trị. Trong khi đó, quan hệ của EU với Anh, một trong những
cường quốc quân sự đáng gờm nhất châu Âu, vẫn còn căng thẳng, ngay cả khi hai
bên đều nỗ lực chân thành để cải thiện việc hợp tác.
May
mắn thay, các thành viên EU khác như Ba Lan, các quốc gia Baltic, và các nước Bắc
Âu sẵn sàng dẫn đầu. Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk hiện đang cố gắng tập hợp các
quốc gia NATO hàng đầu châu Âu để cải thiện sự phối hợp về vấn đề Ukraine và
tăng cường hỗ trợ cho Kyiv. Nhưng bất kỳ sự tăng cường quốc phòng đáng kể nào
cũng cần sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị của Đức để thành công, điều đó
có nghĩa là chính phủ mới ở Berlin sẽ cần phải nghiêm túc giải quyết các thách
thức an ninh của châu lục và sẵn sàng bỏ tiền ra cho một nỗ lực rộng lớn hơn của
châu Âu.
Đứng
trước khả năng Mỹ rút viện trợ, Châu Âu cũng cần tăng đáng kể sự hỗ trợ tài
chính và quân sự cho Ukraine. Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế Thế giới Kiel, tổng
viện trợ quân sự mà Đức, Pháp, và Anh đã cung cấp cho Ukraine kể từ khi bắt đầu
cuộc chiến toàn diện chỉ bằng một nửa số tiền mà Mỹ đã đóng góp. Dù việc lấp đầy
ngay lập tức và hoàn toàn khoảng trống mà Mỹ để lại có thể không khả thi, nhưng
mục tiêu là phải thu hẹp khoảng trống càng nhiều càng tốt. Trước tiên, các nước
EU sẽ cần chuyển hướng sang các thị trường quốc tế, bao gồm cả Mỹ, để mua các hệ
thống vũ khí và đạn dược mà Châu Âu hiện chưa thể tự sản xuất với số lượng đủ
nhiều. Riêng người Đức cũng nên thực hiện các bước đã bị họ trì hoãn quá lâu: gửi
tên lửa Taurus tầm xa đến Ukraine và gỡ bỏ các hạn chế còn lại đối với việc
Kyiv sử dụng vũ khí phương Tây để tấn công các mục tiêu quân sự sâu bên trong
nước Nga. Gần đây, Mỹ đã dỡ bỏ các hạn chế kiểu này đối với việc sử dụng tên lửa
ATACMS của mình, và Pháp cùng với Anh, những nước đã chuyển giao tên lửa hành
trình của riêng họ cho Ukraine, dường như cũng đang làm theo.
Trong
trung hạn đến dài hạn, EU sẽ cần phải cải tổ năng lực quốc phòng và ngành công
nghiệp quốc phòng của mình nếu châu Âu muốn tự bảo vệ an ninh của họ một cách
có ý nghĩa. Hiện tại, châu Âu đang mua phần lớn vũ khí từ nước ngoài, nhưng hoạt
động này phải chấm dứt. Một nhà cung cấp an ninh đáng tin cậy phải có khả năng
đáp ứng hầu hết các nhu cầu quốc phòng của chính mình. Châu Âu sẽ phải vượt qua
các lợi ích quốc gia vốn xem các ngành công nghiệp quốc phòng chỉ là sự mở rộng
của chính sách công nghiệp trong nước. Thay vào đó, các ngành công nghiệp này
phải được định hình lại để phục vụ cho các lợi ích an ninh chung của châu Âu.
Điều này sẽ đòi hỏi các cường quốc quân sự hàng đầu của châu lục – Pháp, Đức,
Ý, Ba Lan, và Anh – phải dẫn đầu việc phát triển một chiến lược chung cho toàn
châu Âu. Trên thực tế, quá trình này sẽ bao gồm việc mở rộng quy mô sản xuất và
cắt giảm chi phí bằng cách tích hợp mọi khâu của chu trình sản xuất, từ lập kế
hoạch năng lực đến phát triển và mua sắm. Nếu quá trình tích hợp này được quản
lý thành công, ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu có thể cạnh tranh ở cấp độ
của ngành quốc phòng Mỹ.
ĐẢM
BẢO TƯƠNG LAI CỦA CHÂU ÂU
Việc
không ưu tiên các nỗ lực phòng thủ ngay bây giờ sẽ khiến châu Âu dễ bị tổn
thương sâu rộng trước sự xâm lược liên tục của Nga. Hơn nữa, bất kỳ sự chần chừ
nào trong việc gánh vác thêm gánh nặng phòng thủ của lục địa sẽ gây căng thẳng
cho quan hệ xuyên Đại Tây Dương vào thời điểm quan trọng. Việc đảm bảo rằng Mỹ
vẫn sẽ là đối tác an ninh chắc chắn là tốt cho lợi ích của châu Âu. Nhưng để
làm như vậy, châu Âu cần phải chủ động, kêu gọi Washington cùng xây dựng một
cân bằng trách nhiệm mới và thảo luận về các mục tiêu an ninh chung.
Điều
này bao gồm việc cải thiện hợp tác xuyên Đại Tây Dương trong các vấn đề ngoài
châu Âu. Trước hết, Liên minh châu Âu – bao gồm cả Ủy ban châu Âu và các quốc
gia thành viên – và Mỹ phải thống nhất các chiến lược của họ để giải quyết “trục
thù địch” đang tìm cách thách thức trật tự quốc tế. Trung Quốc, Iran, và Triều
Tiên đang hỗ trợ cuộc chiến của Nga ở Ukraine bằng cách cung cấp vũ khí và hàng
hóa lưỡng dụng, trong khi Nga tìm cách hỗ trợ lực lượng Houthi do Iran hậu thuẫn
ở Yemen. Trên hết, Trung Quốc đã lợi dụng sự mất tập trung của phương Tây để mở
rộng ảnh hưởng của mình ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và xa hơn nữa. Bắc Kinh
đang xem xét kỹ lưỡng phản ứng của phương Tây ở Ukraine, xem cuộc xâm lược của
Nga là bản kế hoạch tiềm năng cho một cuộc tấn công vào Đài Loan. Sẽ là thiển cận
nếu Mỹ và châu Âu xem xét những mối đe dọa này một cách biệt lập, hoặc cố gắng
chống lại chúng một mình. Nếu các nhà lãnh đạo ở cả hai bờ Đại Tây Dương muốn
trật tự tự do quốc tế tồn tại lâu dài, với Mỹ là cốt lõi, họ phải cùng nhau giải
quyết những thách thức này.
Giờ
đây, người châu Âu phải phát huy hết tiềm năng của châu lục như một tác nhân an
ninh đáng tin cậy, qua đó cứu vãn quan hệ xuyên Đại Tây Dương và kiểm soát tham
vọng đế quốc của Nga. Nếu nỗ lực này thất bại – và nếu sự ủng hộ của Mỹ giảm
sút – thì cái giá phải trả sẽ rất đắt. Nếu không có hàng phòng thủ vững chắc cản
đường, thì Putin sẽ không có lý do gì để dừng lại ở Ukraine. Sau nhiều thập kỷ
tương đối hòa bình, chiến tranh một lần nữa có thể trở thành một đặc điểm cố định
của chính trị châu Âu.
---------------------
Norbert
Röttgen là thành viên Quốc hội Đức và Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. Ông từng
giữ chức Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại từ năm 2014 đến năm 2021 và là Bộ trưởng
Liên bang về Môi trường, Bảo tồn Thiên nhiên, và An toàn Hạt nhân từ năm 2009 đến
năm 2012.
Nguồn: Norbert
Röttgen, “Europe Has Run Out of
Time,” Foreign
Affairs, 22/11/2024
No comments:
Post a Comment