(FB
của nhà cháu đang bị "đứa nào" bóp tương tác nên ít người vào đọc, vậy
ai coi được kỳ cuối này, nhà cháu thật hân hạnh chúc mừng. Thông)
Cuốn
“Nhãn đầu mùa” viết về cái gì mà đến nỗi hai tác giả Xuân Tùng - Trần Thanh bị
đánh lên bờ xuống ruộng? Đọc nó lâu lắm rồi, từ đầu thập niên 60 tới giờ đã hơn
60 năm, tôi không còn nhớ chi tiết nữa, nhưng vẫn mang máng rằng “Nhãn đầu mùa”
là chuyện về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Hưng Yên. Nơi này có đội nữ du kích
Hoàng Ngân (bà Ngân là cán bộ phụ nữ, bị quân Pháp bắt, quyết không khai, chịu
xử bắn. Sau khi bà Ngân mất, đội du kích nữ ở Hưng Yên lấy tên bà đặt cho đội)
chiến công lẫy lừng, giặc cũng phải khiếp sợ. Hưng Yên thời Pháp có bà Hoàng
Ngân, Hải Dương có bà Mạc Thị Bưởi (giờ ngay trung tâm Sài Gòn, quận 1, nối với
đường Đồng Khởi có đường Mạc Thị Bưởi, nghe đâu giá đất chục tỉ mỗi mét vuông),
Thái Bình có bà Nguyễn Thị Chiên “tay không bắt giặc”…
Cùng
sát cánh chiến đấu với đội nữ Hoàng Ngân là một đơn vị bộ đội vệ quốc, tất
nhiên đàn ông. Cứ có đàn ông đàn bà, lại trẻ nữa, là sinh chuyện. Yêu nhau, để
ý nhau, hẹn hò, tỏ tình. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Yêu nhau đâu có tội.
Trong chiến tranh, tình yêu thường đẹp đẽ và bi thương. Ông Nguyễn Đình Thi chả
viết “Anh yêu em/Và yêu khẩu súng trường trên vai em” là gì. Các tác giả “Nhãn
đầu mùa” kể về mối tình như vậy. Nói thật, chuyện của cô du kích Tý với anh bộ
đội, chỗ tả mùi mẫn nhất cũng chỉ là cái hôn nhè nhẹ lên… trán, là ôm nhau thấy
bộ ngực nóng bỏng phập phồng, rạo rực rạo rực. Chỉ tả bạo đến thế thôi, bọn trẻ
bây giờ mà đọc lại chẳng lăn ra cười, tưởng “trái cấm” thế nào, chứ văn chương
bây giờ đầy thứ gấp tỉ lần, còn đưa vào cả sách giáo khoa cho trẻ con học nữa,
gọi là giáo dục giới tính.
Nhưng
thời cách nay nửa thế kỷ trở về trước, yêu đương là điều cấm kỵ, cả trong đời lẫn
trên mặt giấy. Cấm, cấm tiệt. Không yêu iếc gì sất, tất cả trái tim khối óc phải
dành cho cuộc cách mạng, chiến đấu và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không được
riêng tư, yếu đuối, ủy mị, tình cảm trai gái. Yêu nhau quấn quít nhau thì lấy
ai ra trận, người cầm súng ngoài chiến trường làm sao “cuộc đời đẹp nhất là
trên trận tuyến đánh quân thù”. Ngọt ngào nhớ thương thì làm sao đánh giặc, yên
tâm về người ở hậu phương; người ở lại yên tâm chờ chồng, đảm đang gánh vác việc
HTX, việc nhà… Cứ cấm tiệt, trước hết trong văn nghệ. Có yêu nhau cũng phải
“Yên tâm vững bước mà đi hỡi người mà em yêu”, v.v..
Tất
cả những cuốn truyện bị cấm mà tôi đã kể ở kỳ trước đều có số phận na ná như
“Nhãn đầu mùa”. Đảng, tuyên giáo không cấm yêu nhưng suốt thời gian dài không
cho phép thể hiện tình yêu trai gái trong tác phẩm văn học. Những “Hai trận tuyến”,
“Mùa hoa dẻ”, “Sắp cưới”, “Đi bước nữa”, “Phá vây”… cùng chịu chung số phận khi
kể chuyện trai gái yêu nhau. Yêu cũng phải đúng đường lối, kiểu “Yêu nhau ta hẹn
cùng yêu nước/Xao xuyến lòng anh bao ý thơ” (Sóng Hồng), “Trái tim anh đó/Anh
dành riêng cho đảng phần nhiều/Phần cho thơ và phần để em yêu” (Tố Hữu). “Nhãn
đầu mùa” bị lên đoạn đầu đài là do vậy, chứ chả có gì ghê gớm, lại càng không
phải phản động, thù địch.
Hồi
giữa năm nay, cu cháu tôi ấn tôi lên xe, bảo cháu chở bác sang chơi Ecopark. Chỗ
ấy tôi cũng từng đôi lần ghé. Đó là vùng đất đẹp của Hưng Yên. Quê nhãn đương
mùa, hương nhãn ngọt ngào thoang thoảng, như từng cảm thấy trên tóc ai. Nhưng cứ
nghĩ tới đô thị hiện đại đó là không dứt ra được sự rùng mình nhớ lại cuộc đàn
áp những người dân Văn Giang, chủ nhân bao đời của ruộng vườn, đất đai trù mật,
bỗng dưng bị giải tỏa để chính quyền trao đất vào tay đại gia. Dù cuộc chiếm đoạt
mang danh nghĩa thay đổi để phát triển, nhưng cứ nghĩ tới cảnh người nông dân
giang hai tay hai chân ôm đất, bị sai nha tới bắt khiêng đi, lại ngậm ngùi cái
cảnh anh Pha trong cuốn “Bước đường cùng” ngày xưa. Giờ thì chuyện đã nhạt, người
ta quên rồi, chỉ còn một Ecopark Văn Giang huy hoàng tráng lệ. Tất nhiên người
ngụ ở đó hầu hết không phải nông dân Văn Giang, Hưng Yên. Lại nhớ câu văn xưa
“Đất hỡi, ngươi ăn gì mà quá khát/Sao uống nhiều nước mắt, máu tươi”.
Nhắc
về Hưng Yên mà không có đôi nhời về bạn bè, quả không nên không phải. Nói theo
kiểu của cụ Nguyên Ngọc “các bạn tôi trên ấy”, ở đất Hưng Yên tôi được quen, học
chung, yêu mến nhiều bạn tốt, những người giỏi giang, tài hoa, tốt bụng, xinh đẹp.
Ra trường, xa nhau đã mém nửa thế kỷ, vậy nhưng những gương mặt thân yêu thời
hoa niên vẫn cứ như nguyên. Các bạn Lê Hồng Tư (về TTXVN), Đoàn Văn Tuyến (Báo
Hưng Yên, Đài PT-TH Hưng Yên), Cao Dung Hòa (ĐH sư phạm Hưng Yên), Lê Thanh Nga
(NXB Kim Đồng), rồi cả các bạn tỉnh Hải Hưng một thời với Trần Hải Bình (Đài
PT-TH Khánh Hòa), Đồng Văn Duyệt, Lãnh Thị Mẫn, Đỗ Quyết Tâm, Lê Ngọc Tân (Tân
loe)… Người còn kẻ mất, đã chấp chới mép tuổi trời, nhưng cái tình đèn sách,
chung thầy học đạo vẫn đậm tới bây giờ. Nhớ các bạn tôi nơi ấy.
Nguyễn
Thông
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02iauQUPjJYm2Tp5zEcLezV6MobVLmqhy7ch1CUUrxwmKwcDsvjEzHeN4NK5xgo3r8l&id=100024722048900
Ấy,
đã nhắc Hưng Yên thì chớ quên nhãn. "Dừa ngon Bình Định, Vĩnh
Long/Thanh trà xứ Huế, nhãn lồng Hưng Yên". Hồi dạy chúng tôi văn
học dân gian phần ca dao, thầy Chu Xuân Diên ví dụ câu "Hỡi cô cắt
cỏ bên sông/Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây" rồi giải thích
kiểu chơi chữ này chắc xuất phát từ vùng Hưng Yên bởi chỉ đất Phố
Hiến cũ mới có nhãn lồng.
Nhãn
lồng nức tiếng cả nước, nghe thiên hạ nói vậy, chứ ngay cả lúc há
hốc mồm nghe thầy Diên giảng, tôi cũng chưa được ăn nhãn lồng bao giờ.
Miền Bắc những năm thập niên 60 - 70 là thế, vùng miền có đặc sản,
nhưng do chiến tranh, do đi lại khó khăn, nhất là nghèo không có tiền,
nên cứ tự cung tự cấp, tự sản tự tiêu. Trái cây ư, quê tôi quanh đi
quẩn lại cũng chỉ quả táo quả ổi quả bòng quả khế, người quê tôi
chả bao giờ (trừ số ít chả mấy khi) biết vải thiều Thanh Hà, nhãn
lồng Hưng Yên, cam Xã Đoài, táo Thiện Phiến, hạt dẻ Trùng Khánh...
Chúng chỉ xuất hiện trong sách giáo khoa, thơ văn, sách vở, lời kể,
nghe bảo ngon thì biết là ngon thôi.
*****
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid022dF77VdMyR2YpdC9XtV4dGuKoVzjpsfecNy1bU4eCsTdcDHJH8dLh5hZnZ2poDjxl&id=100024722048900
Như
đã kể, công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải được coi là dòng sông nhân tạo lớn
nhất miền Bắc suốt mấy chục năm trước khi đất nước thống nhất (1975). Đó là kết
quả của ý chí “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, “thay trời chuyển đất làm lại
giang sơn” mà chính quyền luôn kêu gọi dân thực hiện. Cũng khiếp. Lúc đầu, người
ta (nhất là bộ máy tuyên truyền, báo Nhân Dân, đài Tiếng nói VN) gọi nó là
kênh, kênh Bắc Hưng Hải, sau thấy phải xứng với quy mô, sự đồ sộ, hoành tráng của
nó, gọi lại bằng tên kiểu Tàu, thành “đại thủy nông Bắc Hưng Hải”, còn dân thì
cứ giản dị “sông đào”, “kênh Bắc Hưng Hải”
.
*****
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid021TXfRVJ5zAXJVXFsuC8Pymf6AB6djDNy5RamiRbYiNjKotfaej7GKFVYXjHwLdsWl&id=100024722048900
Lại
nói, hai anh em cứ mải miết đạp xe để làm sao vào được nội thành Hà Nội trước 9
- 10 giờ tối. Ông đạp xe là anh họ, ông có nhà phố Triệu Việt Vương cũng anh họ.
Ông này cùng vợ con vẫn bám thủ đô, không đi sơ tán. Gan cóc tía. Phải tới sơm
sớm bởi nhà chỉ là nửa căn hộ, chia đôi với một gia đình khác, mỗi nửa độ chừng
hơn chục mét vuông. Anh tôi gia đình 5 - 6 người gói ghém trong diện tích chật
chội ấy, như cá hộp. Nếu tới muộn quá, cổng vào đầu hẻm bị khóa, họ đi ngủ cả
thì hai anh em chỉ có nước ngủ vườn hoa hoặc lề đường. Đang cuối thu, trời đêm
rất lạnh. Chưa năm nao mùa thu và mùa đông giá lạnh như năm 1972.
*****
Ai
đã từng từ Hải Phòng lên Hà Nội bằng xe khách Ba Đình những năm thập niên 60 -
70 chắc còn nhớ điều này. Đường số 5 nối 2 thành phố lớn nhất miền Bắc khi ấy
được xem như tuyến đường bộ đẹp nhất miền Bắc. Dài 104 cây số, nó chạy qua 3 tỉnh
thành Hải Phòng, Hải Hưng (sáp nhập Hải Dương + Hưng Yên) và Hà Nội. Quả thật
người Pháp đã xuất sắc về xây dựng đường sá, công trình giao thông, để lạo xứ
này di sản đáng nể, dùng tiếp cả trăm năm.
*****
Vụn về Hưng Yên (Kỳ 4) - Tiếng Dân
Bởi
AdminTD -19/09/2024
https://baotiengdan.com/2024/09/19/vun-ve-hung-yen-ky-4/
Đầu
tháng 10.1972, tôi nhận được giấy báo nhập học. Khoa văn sơ tán tuốt tận ven
sông Cầu, nằm rải rác ở hai huyện Yên Phong và Hiệp Hòa, tỉnh Hà Bắc; muốn từ
huyện này qua huyện kia phải lụy phà Đông Xuyên (nghe đâu giờ đã có cầu Đông
Xuyên đẹp lắm). Cái tên tỉnh thực ra chẳng gắn gì với tên hai tỉnh cũ Bắc Ninh,
Bắc Giang nhập lại. Đơn giản nó ở phía bắc Hà Nội nên gọi là Hà Bắc thôi, nghe
người nhớn bảo vậy.
*****
Nguyễn Thông cùng với Nguyễn Thông Cào.
Thời
thập niên 70 thế kỷ trước (thêm chữ thế kỷ vào nghe xa xôi quá nhưng thực ra
cách nay mới hơn 50 năm), từ Hải Phòng quê tôi lên Hà Nội có 2 cách (2 lối) là
đường sắt và đường bộ (đường số 5). Đường sắt, đi riết nhớ tên từng ga, nếu
tính từ Hà Nội về Phòng qua các ga Hàng Cỏ, Long Biên, Gia Lâm, Phú Thụy, Như
Quỳnh, Lạc Đạo, Cẩm Giàng, Cao Xá, Hải Dương, qua một số ga trên đất Hải Dương
nữa thì tới đất Phòng với Dụ Nghĩa, Chợ Hỗ, Vật Cách, Thượng Lý, rồi đích cuối
là ga Hải Phòng trên đường Lương Khánh Thiện, đường này từ thời Pháp dân quen gọi
phố ga. Trên đất Hưng Yên, tàu hỏa chỉ dừng ở 2 ga Như Quỳnh, Lạc Đạo, mươi
phút rồi lại xọc xạch xọc xạch đi, có nhẽ vì thế hiểu biết của tôi về vùng đất
nhãn cũng chả được nhiều.
*****
.
Nguyễn Thông cùng với Nguyễn Thông Cào.
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid036NZrWTtoSU9WubJrm32sqbL7BXRiUQ9VNgR8i6EV8hNfPDrkEQfCAMrkkQS8ZgZVl&id=100024722048900
Không
phải chỉ có các cụ văn nghệ sĩ như Khương Hữu Dụng, Nguyễn Văn Tý, Tú Mỡ Hồ Trọng
Hiếu nhắc nhỏm về Hưng Yên. Trong thơ văn nhạc miền Bắc thời trước 75 người ta
vẫn biết tới Huy Cận với bài “Cô gái Hưng Yên đi mở mang Tây Bắc” (bài này được
đưa vào sách Trích giảng văn học, tức sách giáo khoa bây giờ), với Chế Lan Viên
chỉ vài câu thoáng qua thôi nhưng khá ấn tượng “Ong bay khu nhà Tỉnh ủy Hưng
Yên/Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em” (một tay bạn tôi thời lớp 10, anh Vũ
Trường Thành, có lần bảo tao mà biết làm thơ ngọt như ông Chế, tao tán thì khối
con chết), rồi thơ về chị Phạm Thị Vách “giỏi thay con gái đàn bà mà ghê” chiến
sĩ thi đua toàn quốc ngành thủy lợi, sau được phong anh hùng lao động… Hưng Yên
tuy “nhỏ nhưng có võ” chứ không nhàn nhạt như nhiều tỉnh miền Bắc.
*****
Nguyễn Thông cùng với Nguyễn Thông Cào.
Bây
giờ mà nhắc tới Hưng Yên, thiên hạ gọi là “đu trend”, nhưng bài này đã ủ trong
ký ức nhà cháu lâu rồi, giờ mới biên ra thôi. Ai rảnh thì đọc, nhất là cuối tuần
không đi đâu chơi.
Do
nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long nên vùng Hưng Yên, Hải Dương xưa được gọi
là xứ đông, tỉnh đông. Tôi nhớ hồi còn bé học cấp 1, hình như lớp 4, được học
bài thơ “Nhi đồng Nguyễn Văn Bảo” của cụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Cụ Tú ca ngợi em
thiếu nhi tên Bảo người tỉnh đông, “Nguyễn Văn Bảo mới lên mười tuổi/Quê quán
em ở dưới tỉnh đông/Em là con một nhà nông/Cha mẹ vất vả sống trong bần hàn/May
nhờ có bình dân học vụ/Em Bảo ta cũng đủ học hành/Người lanh lợi trí thông
minh/Em là một cậu học sinh hoàn toàn”… Những ai sinh thập niên 50 ở miền Bắc
mà có đi học đều thuộc bài này.
No comments:
Post a Comment