Ấy,
đã nhắc Hưng Yên thì chớ quên nhãn. "Dừa ngon Bình Định, Vĩnh
Long/Thanh trà xứ Huế, nhãn lồng Hưng Yên". Hồi dạy chúng tôi văn
học dân gian phần ca dao, thầy Chu Xuân Diên ví dụ câu "Hỡi cô cắt
cỏ bên sông/Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây" rồi giải thích
kiểu chơi chữ này chắc xuất phát từ vùng Hưng Yên bởi chỉ đất Phố
Hiến cũ mới có nhãn lồng.
Nhãn
lồng nức tiếng cả nước, nghe thiên hạ nói vậy, chứ ngay cả lúc há
hốc mồm nghe thầy Diên giảng, tôi cũng chưa được ăn nhãn lồng bao giờ.
Miền Bắc những năm thập niên 60 - 70 là thế, vùng miền có đặc sản,
nhưng do chiến tranh, do đi lại khó khăn, nhất là nghèo không có tiền,
nên cứ tự cung tự cấp, tự sản tự tiêu. Trái cây ư, quê tôi quanh đi
quẩn lại cũng chỉ quả táo quả ổi quả bòng quả khế, người quê tôi
chả bao giờ (trừ số ít chả mấy khi) biết vải thiều Thanh Hà, nhãn
lồng Hưng Yên, cam Xã Đoài, táo Thiện Phiến, hạt dẻ Trùng Khánh...
Chúng chỉ xuất hiện trong sách giáo khoa, thơ văn, sách vở, lời kể,
nghe bảo ngon thì biết là ngon thôi.
Nhãn
lồng, hoặc vải thiều, cũng đã có nơi khác trồng thử, nhưng hầu hết
đều thất bại, quả không ngon như ở đất gốc Hưng Yên hoặc huyện Thanh
Hà (Hải Dương). Thì các cụ xưa chả bảo, cây cam trồng chỗ này thì
ngọt lịm, đánh sang chỗ khác cho quả chua loét đó sao. Vậy nên,
chuyện mấy huyện đất Bắc Giang, nhất là huyện Lục Ngạn, trồng vải
thiều, được hợp thổ nhưỡng, chỉ sau vài chục năm đã nổi tiếng thủ
phủ vải thiều cả nước, kể cũng là chuyện lạ. Chắc được giời
thương. Vải nhiều tới nỗi có năm thương lái Trung Quốc không chịu mua,
Bộ Công thương phải ra lời kêu gọi giải cứu vải, chả khác gì cụ Hồ
xưa kia kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Nhưng
năm cung không đủ cầu, nhà vải lại quên tiệt vừa được giải cứu, bán
giá cao ép người thèm ăn nghẹn cổ. Nói đâu xa, mùa vải năm nay 2024,
nhà tôi chả mua ký nào, rồi cũng chẳng chết ai. Thôi thì để thị
trường nó tự điều tiết, đừng có kêu gọi giải cứu hay giam cầm chi,
kệ nó.
Hưng
Yên và nhãn lồng gợi nhớ vụ án văn thời năm 1960 liên quan tới cuốn
tiểu thuyết "Nhãn đầu mùa". Mà những năm 60 rất khiếp. Bên
thắng cuộc ở miền Bắc, đứng đầu là Trường Chinh, Tố Hữu (còn có ai
đầu của đầu thì nhà cháu không rõ), sau khi đánh tan tác tả tơi nhóm
Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Phùng Quán,
Hoàng Cầm, Lê Đạt - còn bị gọi là nhóm Nhân văn giai phẩm, họ chuyển
sang đánh tiếp những "đồng chí" còn lại. Nhiều án văn lần
lượt được tuyên, nhiều nhà văn lên đoạn đầu đài đấu tố.
Chắc
những cụ tuổi U.80, U.70 còn nhớ các "bị cáo" Hà Minh Tuân
với mấy cuốn "Hai trận tuyến", "Vào đời", Phù Thăng
với "Phá vây", Xuân Tùng và Trần Thanh với "Nhãn đầu
mùa", Văn Linh với "Mùa hoa dẻ", Võ Huy Tâm với
"Những người thợ mỏ" (chứ không phải cuốn "Vùng
mỏ" ông viết từ thời đánh Pháp), Nguyễn Công Hoan với "Đống
rác cũ", v.v.. nhiều lắm. Đó là chưa kể những cuộc đánh hội
đồng nhẹ hơn như với "Sắp cưới" của Vũ Bão, "Mở
hầm" (Nguyễn Dậu), Đi bước nữa (Nguyễn Thế Phương)...
Cứ
có chỉ đạo, lệnh của trên là hùa nhau phang thôi, mà người phang cũng
toàn cỡ gộc như Hà Xuân Trường, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Vũ
Đức Phúc, Bảo Định Giang... Nói gì thì nói, đó là một thời cực kỳ
ngu muội, tàn bạo, mất nhân cách, mất tình người, hủy diệt nền văn
nghệ dân tộc. Kiểu "còn đảng còn mình", nhắm mắt bịt tai
khóa óc bất cần biết phải trái, đúng sai.
Bằng
chứng, sau khi đất nước, nói chính xác là thể chế, có những đổi
thay quyết liệt, cởi mở, ít nhiều nhận ra sai lầm, gọi là thời đổi
mới, thì tất cả những tác phẩm bị đánh, cấm đoán, triệt hạ kia,
trong đó có "Nhãn đầu mùa" đều được chiêu tuyết, xóa án,
đều được in, xuất bản, thu hút bạn đọc, chả có gì phản động, độc
hại như từng bị tuyên án, quy kết. Cũng không thấy "đứa nào"
đứng ra nhận lỗi, đưa ra lời xin lỗi một cách tử tế. Xứ này xưa nay
là vậy. (còn tiếp)
Nguyễn
Thông
*****
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid022dF77VdMyR2YpdC9XtV4dGuKoVzjpsfecNy1bU4eCsTdcDHJH8dLh5hZnZ2poDjxl&id=100024722048900
Như
đã kể, công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải được coi là dòng sông nhân tạo lớn
nhất miền Bắc suốt mấy chục năm trước khi đất nước thống nhất (1975). Đó là kết
quả của ý chí “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, “thay trời chuyển đất làm lại
giang sơn” mà chính quyền luôn kêu gọi dân thực hiện. Cũng khiếp. Lúc đầu, người
ta (nhất là bộ máy tuyên truyền, báo Nhân Dân, đài Tiếng nói VN) gọi nó là
kênh, kênh Bắc Hưng Hải, sau thấy phải xứng với quy mô, sự đồ sộ, hoành tráng của
nó, gọi lại bằng tên kiểu Tàu, thành “đại thủy nông Bắc Hưng Hải”, còn dân thì
cứ giản dị “sông đào”, “kênh Bắc Hưng Hải”
.
*****
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid021TXfRVJ5zAXJVXFsuC8Pymf6AB6djDNy5RamiRbYiNjKotfaej7GKFVYXjHwLdsWl&id=100024722048900
Lại
nói, hai anh em cứ mải miết đạp xe để làm sao vào được nội thành Hà Nội trước 9
- 10 giờ tối. Ông đạp xe là anh họ, ông có nhà phố Triệu Việt Vương cũng anh họ.
Ông này cùng vợ con vẫn bám thủ đô, không đi sơ tán. Gan cóc tía. Phải tới sơm
sớm bởi nhà chỉ là nửa căn hộ, chia đôi với một gia đình khác, mỗi nửa độ chừng
hơn chục mét vuông. Anh tôi gia đình 5 - 6 người gói ghém trong diện tích chật
chội ấy, như cá hộp. Nếu tới muộn quá, cổng vào đầu hẻm bị khóa, họ đi ngủ cả
thì hai anh em chỉ có nước ngủ vườn hoa hoặc lề đường. Đang cuối thu, trời đêm
rất lạnh. Chưa năm nao mùa thu và mùa đông giá lạnh như năm 1972.
-----------------------------
Ai
đã từng từ Hải Phòng lên Hà Nội bằng xe khách Ba Đình những năm thập niên 60 -
70 chắc còn nhớ điều này. Đường số 5 nối 2 thành phố lớn nhất miền Bắc khi ấy
được xem như tuyến đường bộ đẹp nhất miền Bắc. Dài 104 cây số, nó chạy qua 3 tỉnh
thành Hải Phòng, Hải Hưng (sáp nhập Hải Dương + Hưng Yên) và Hà Nội. Quả thật
người Pháp đã xuất sắc về xây dựng đường sá, công trình giao thông, để lạo xứ
này di sản đáng nể, dùng tiếp cả trăm năm.
.
KỲ
4 ?
..
Nguyễn Thông cùng với Nguyễn Thông Cào.
Thời
thập niên 70 thế kỷ trước (thêm chữ thế kỷ vào nghe xa xôi quá nhưng thực ra
cách nay mới hơn 50 năm), từ Hải Phòng quê tôi lên Hà Nội có 2 cách (2 lối) là
đường sắt và đường bộ (đường số 5). Đường sắt, đi riết nhớ tên từng ga, nếu
tính từ Hà Nội về Phòng qua các ga Hàng Cỏ, Long Biên, Gia Lâm, Phú Thụy, Như
Quỳnh, Lạc Đạo, Cẩm Giàng, Cao Xá, Hải Dương, qua một số ga trên đất Hải Dương
nữa thì tới đất Phòng với Dụ Nghĩa, Chợ Hỗ, Vật Cách, Thượng Lý, rồi đích cuối
là ga Hải Phòng trên đường Lương Khánh Thiện, đường này từ thời Pháp dân quen gọi
phố ga. Trên đất Hưng Yên, tàu hỏa chỉ dừng ở 2 ga Như Quỳnh, Lạc Đạo, mươi
phút rồi lại xọc xạch xọc xạch đi, có nhẽ vì thế hiểu biết của tôi về vùng đất
nhãn cũng chả được nhiều.
.
Nguyễn Thông cùng với Nguyễn Thông Cào.
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid036NZrWTtoSU9WubJrm32sqbL7BXRiUQ9VNgR8i6EV8hNfPDrkEQfCAMrkkQS8ZgZVl&id=100024722048900
Không
phải chỉ có các cụ văn nghệ sĩ như Khương Hữu Dụng, Nguyễn Văn Tý, Tú Mỡ Hồ Trọng
Hiếu nhắc nhỏm về Hưng Yên. Trong thơ văn nhạc miền Bắc thời trước 75 người ta
vẫn biết tới Huy Cận với bài “Cô gái Hưng Yên đi mở mang Tây Bắc” (bài này được
đưa vào sách Trích giảng văn học, tức sách giáo khoa bây giờ), với Chế Lan Viên
chỉ vài câu thoáng qua thôi nhưng khá ấn tượng “Ong bay khu nhà Tỉnh ủy Hưng
Yên/Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em” (một tay bạn tôi thời lớp 10, anh Vũ
Trường Thành, có lần bảo tao mà biết làm thơ ngọt như ông Chế, tao tán thì khối
con chết), rồi thơ về chị Phạm Thị Vách “giỏi thay con gái đàn bà mà ghê” chiến
sĩ thi đua toàn quốc ngành thủy lợi, sau được phong anh hùng lao động… Hưng Yên
tuy “nhỏ nhưng có võ” chứ không nhàn nhạt như nhiều tỉnh miền Bắc.
.
Nguyễn Thông cùng với Nguyễn Thông Cào.
Bây
giờ mà nhắc tới Hưng Yên, thiên hạ gọi là “đu trend”, nhưng bài này đã ủ trong
ký ức nhà cháu lâu rồi, giờ mới biên ra thôi. Ai rảnh thì đọc, nhất là cuối tuần
không đi đâu chơi.
Do
nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long nên vùng Hưng Yên, Hải Dương xưa được gọi
là xứ đông, tỉnh đông. Tôi nhớ hồi còn bé học cấp 1, hình như lớp 4, được học
bài thơ “Nhi đồng Nguyễn Văn Bảo” của cụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Cụ Tú ca ngợi em
thiếu nhi tên Bảo người tỉnh đông, “Nguyễn Văn Bảo mới lên mười tuổi/Quê quán
em ở dưới tỉnh đông/Em là con một nhà nông/Cha mẹ vất vả sống trong bần hàn/May
nhờ có bình dân học vụ/Em Bảo ta cũng đủ học hành/Người lanh lợi trí thông
minh/Em là một cậu học sinh hoàn toàn”… Những ai sinh thập niên 50 ở miền Bắc
mà có đi học đều thuộc bài này.
No comments:
Post a Comment