Việt Nam muốn
lột xác ư? Chỉ thay đổi một cách làm là được…
04/10/2024
https://baotiengdan.com/2024/10/04/viet-nam-muon-lot-xac-u-chi-thay-doi-mot-cach-lam-la-duoc/
Ở
những nước đi theo chế độ XHCN, vì vốn dĩ bị quản lý/ điều hành xã hội bằng
phương thức lấy quyết định tập thể, nên từ cấp xã phường lên đến cấp trung
ương, người ta luôn họp hành liên miên. Từ thập niên 1920, nhà thơ Nga
Mayakovsky đã có bài thơ nổi tiếng “Những người cộng sản loạn họp” để mô tả
chuyện họp hành một cách hết sức bi hài. Trong bài có câu thơ, đại khái nói “Cần
có thêm một cuộc họp nữa, để triệt trừ tận gốc mọi thứ cuộc họp trên đời!”
(Theo Valentin Ovechkin, Chuyện thường ngày ở huyện, Chương 4, NXB Cầu Vồng).
Ở
những người CS loạn họp, không có một cuộc họp ít nhiều quan trọng nào mà lại
không có câu kết “Hội nghị đã thành công tốt đẹp”, rồi cùng nhau vỗ tay rầm rầm.
“Thành công tốt đẹp” rồi thì mạnh ai về nhà nấy, mỗi người đều tự cảm thấy an
tâm như đã hoàn thành được sứ mệnh/ nghĩa vụ cao cả đối với tập thể và đối với
nhân dân. Nhưng công việc thực tế tiếp theo tiến hành ra sao, khi còn khuyết điểm
thì cứ việc tổ chức họp tiếp để tìm phương giải quyết, sửa sai, nhưng thường là
lấy cái sai này chữa cho cái sai khác để tiếp tục trượt dài, vì nền tảng của mọi
sai lầm, khuyết điểm là do ở thể chế chính trị độc tài toàn trị gây nên…
Đối
với một số cán bộ lãnh đạo các cấp, đi làm việc nước cũng có nghĩa là xách cặp
đi họp, chu toàn bổn phận…. Việc làm thường xuyên này đã tạo ra cho họ hai trạng
thái tâm lý rất tế nhị, đó là an tâm và ngụy tín (mal
foi/ tin giả, đức tin xấu). An tâm là thái độ nhân danh để
hành động, do đã có tập thể bảo kê mà mình tin là sáng suốt lãnh đạo chịu trách
nhiệm hết cả; còn ngụy tín là thái độ tự lừa dối chính họ mà họ
không hay biết. Nghĩa là khởi đầu họ tin là thật một điều gì đó biết là không
thật, nhưng cứ đóng kịch mãi rồi quên mất mình giả vờ, đóng kịch, cuối cùng tin
thật vào những điều mình giả vờ, đóng kịch, cho đến khi tỉnh ngộ mới nhận ra được.
Xét
về mặt đạo đức thì an tâm và ngụy tín là
không có tội, nhưng nếu xét về tác dụng khách quan thì trong một nền chính trị
thối nát bất ổn, những người đóng góp tích cực nhất theo lề lối có sẵn mà không
hề phản biện/ phản tỉnh có khi chính là người hại dân, hại nước nhiều nhất…
Cách
nay đúng 35 năm, trong một bài báo đăng trên diễn đàn báo chí mà tôi đã từng viết,
nay còn thấy đúng nên xin trích lại một đoạn: “Thói quen soạn thảo quá nhiều
kế hoạch, chỉ tiêu cũng là một trong những biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu
bàn giấy rất nguy hiểm. Nó có thể tạo nên tâm lý an tâm giả tạo cho một số cấp
lãnh đạo, tưởng rằng nhiệm vụ của mình đã được hoàn thành sau khi đã thảo trọn
và công bố trước tập thể cùng quốc dân những bản chương trình đồ sộ; nó khiến
cho một số người khác say sưa lặn hụp trong một đống danh từ trống rỗng mà quên
đi trách nhiệm thực tế”. (Trần Khuyết Nghi, “Nghị quyết, phương hướng hay
quyết định cụ thể?” – Tuổi Trẻ, ngày 29.10.1989).
Thật
ra, ở bất kỳ quốc gia văn minh nào, kể cả những nước phi XHCN, việc lãnh đạo,
điều hành đất nước đều mang tính tập thể, qua việc tổ chức các nghị viện… Kể cả
thời phong kiến, các vua chúa tuy độc tài nhưng vẫn thường xuyên có những cuộc
họp cấp triều đình để bàn chính sự. Bên cạnh vua còn có những cơ quan giám sát,
có các gián quan (gọi là ngự sử) để phòng khi vua có những suy nghĩ, hành động
quá lố hoặc sai trái…
Riêng
phương thức lãnh đạo tập thể XHCN thì đặc biệt hơn nhiều. Có một số ưu điểm nhất
định, tất nhiên, nhưng tất yếu cũng dễ dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm tập thể,
cha chung không ai khóc, kết quả là… huề cả làng khi mọi việc bị vỡ lở!
Một
số năm gần đây, lãnh đạo Việt Nam có sự sửa đổi tiến bộ bằng cách quy trách nhiệm
cho người đứng đầu, vẫn theo tinh thần của công thức “tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách”… Nhưng ngặt nỗi, chỉ có người đứng đầu ở các cấp trung gian là có thể
bị kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, cho được thôi chức, cho “vào lò”…), còn người
“đứng đầu của đứng đầu” thì không sao cả.
Cũng
ở Việt Nam và những nước có cùng thể chế chính trị, cuộc họp lớn nhất, quan trọng
nhất, để đưa ra quyết sách/ quốc sách tập thể chính là Đại hội Ban chấp hành
Trung ương toàn quốc, cứ 5 năm tổ chức một lần, từ đó đọc bản báo cáo chính trị
và đưa ra một bản nghị quyết, lấy đó làm căn cứ cho phương hướng, nhiệm vụ xây
dựng và phát triển đất nước trong vòng 5 năm của một nhiệm kỳ cầm quyền. Gần
đây, ngoài 5 năm, người ta còn nêu thêm “tầm nhìn” tới năm 30, 45 này khác nữa,
liên quan những điều chưa thể khẳng định một cách chắc chắn được.
Báo
cáo chính trị in thành sách thường dài cả trăm trang, nghị quyết ngắn hơn nhưng
cũng vài ba chục. Về nội dung, trừ Nghị quyết VI (1986) chứa đựng một số nội
dung đột phá về đổi mới cơ chế kinh tế, còn nội dung các nghị quyết sau này, về
cơ bản là giống nhau. Trừ một số cán bộ tuyên giáo chuyên nghiệp bắt buộc phải
học thuộc để tuyên truyền, có lẽ không ai chịu đọc hay muốn đọc kỹ để nghiền ngẫm
vì đọc rất chán, không có gì mới.
Nội
dung đại khái như, sau khi kiểm điểm lại các mặt ưu khuyết điểm trong việc thi
hành nghị quyết 5 năm của kỳ Đại hội trước, với ưu điểm thì nhiều, tồn tại khuyết
điểm thì chỉ một số, người ta lại đưa ra nhận định về tình hình và nhiệm vụ mới;
rồi cũng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cũng kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục hoàn thiện đi lên CNXH; cũng tiếp tục đấu tranh
phòng chống tham nhũng; cũng hội nhập quốc tế sâu rộng nhưng phải coi chừng âm
mưu “diễn biến hòa bình” của “các thế lực thù địch”; cũng đảng lãnh đạo nhà nước
quản lý nhân dân làm chủ; cũng đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản
lý; cũng phát triển kinh tế tư nhân/ doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng quốc doanh vẫn
là chủ đạo; cũng kinh tế thị trường định hướng XHCN…
Khổ
nỗi, chỉ toàn lý thuyết suông được chuyển tải bằng những câu chữ sáo mòn mà phần
lớn đều dùng uyển ngữ (như chưa hoàn thành thì nói “cơ bản hoàn thành”, khắp
nơi xảy ra tiêu cực thì nói “có lúc có nơi vẫn còn…”, đa số thì nói “một số
không nhỏ”…). Trên thực tế, chưa bao giờ có một bản nghị quyết nào được thi
hành đúng và đủ, nếu không muốn nói ngược lại: Quốc nạn tham nhũng và tệ nạn xã
hội ngày một gia tăng, hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng giãn rộng, môi trường
thiên nhiên bị tàn phá khốc liệt; văn hóa, đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng;
công ty, xí nghiệp phá sản hàng loạt, nạn thất nghiệp gia tăng đáng ngại; y tế
và giáo dục cải cách trong vòng luẩn quẩn, chưa đáp ứng được nhu cầu của người
lao động có thu nhập thấp…
Lênin
đã từng nói, đại ý rằng, “nếu còn có thể hối lộ được thì người ta không có
cái điều kiện tối thiểu để làm chính trị, và trong trường hợp đó, mọi nghị quyết,
mọi pháp lệnh và biện pháp đều lơ lửng trên không trung” (xem “Về chủ
nghĩa quan liêu”, NXB Sự Thật, Hà Nội).
Mấy
điều vừa nói trên đây, cho thấy, việc đưa ra nghị quyết 5 năm một lần đã được
thực hiện theo một tập quán lạc hậu, sáo mòn, cũ rích, không có tác dụng thực tế.
Nếu có tác dụng thì tác dụng đó chẳng qua chỉ là chất keo gắn kết giữa những phần
tử trong tổ chức đảng phái để kiểm soát lẫn nhau về quan điểm, lập trường, nhằm
duy trì quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, đồng thời tạo ra hiệu ứng phụ là bắt
bẻ lẫn nhau trong nội bộ về quan điểm, lập trường để tranh giành quyền lực. Còn
đời sống của nhân dân có được cải thiện trong những năm gần đây trên thực tế
hay không, không phải nhờ vào sự soi sáng đường lối từ những bản nghị quyết sáo
mòn này, mà chính là do sự năng động của nhân dân (gồm cả các nhà doanh nghiệp
đầy thông minh sáng tạo), sự “vượt rào” đối với các loại rào cản do nghị quyết
đưa ra, và khả năng điều chỉnh tự nhiên của xã hội.
Trên
thực tế, Trung Quốc, Việt Nam không còn đặc điểm nào gọi là CNXH nữa cả mà đã
đi theo hẳn theo CNTB từ khá lâu rồi. Nhưng CNTB ở hai nước này lại là một thứ
CNTB thân hữu và CNTB cuồng nhiệt, gây nên tình trạng tham nhũng và bất công xã
hội kéo dài (gần giống CNTB man rợ thế kỷ 19).
Lịch
sử cũng đã chứng minh, CNXH trong cách thể hiện lệch lạc của nó chỉ đưa đến sự
nghèo mạt và bất công (như đã thấy CNXH ở miền Bắc trước 1975, và chung cho cả
nước 10 năm sau đó; như ở Cuba, Bắc Triều Tiên…). Và mục tiêu của CNXH trên thực
tế chỉ có thể đạt được bằng phương thức vận hành của nền kinh tế thị trường tự
do có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, song song với sự kiểm soát vừa bằng hệ
thống luật pháp chặt chẽ, vừa bằng đạo đức kinh doanh tự giác của những phần tử
tham gia vào nền kinh tế. Suy ra, thị trường đã có quy luật hoạt động của nó,
mà nếu cố gắn thêm cái đuôi định hướng XHCN, chắc chắn sẽ làm cho hoạt động của
nó bị méo mó đi.
Muốn
được người ta công nhận mình là kinh tế thị trường, thì tiếc gì không xóa bỏ
cái đuôi XHCN đó trong các bản nghị quyết? Còn như muốn tạo sự công bằng xã hội
để vẫn bảo đảm bản chất tốt đẹp của CNXH (như mong muốn, một thứ CNXH thật sự
chứ không phải giả danh), nhà nước chỉ cần cải cách mạnh việc phân phối tiền
lương theo hướng “thưởng phạt công minh” và thực thi tốt hơn nữa các chính sách
về an sinh xã hội, tập trung cho dồng bào các vùng nông thôn, miền núi và dân
nghèo thành thị…
Đại
hội và Nghị quyết Đại hội thiếu giá trị thực chất như đã mô tả ở trên, sao người
ta cứ rầm rộ chuẩn bị nó với hai nội dung cho là quan trọng nhất, qua việc tổ
chức hai tiểu ban chính, gọi là tiểu ban nhân sự và tiểu ban văn kiện?
Tiểu
ban nhân sự thì nhiều lần chứng tỏ trớt quớt lắm rồi, mà cụ thể là trong kỳ Đại
hội XIII hiện hành, BCH Trung ương đảng đã bầu lên, nếu không phải mấy
ông giáo điều Mác-Lê hạng nặng, thì đa số cũng là những kẻ gian tham đạo đức giả
lên giữ đến các chức bộ trưởng, thứ trưởng, chủ tịch các tỉnh thành, thậm chí cả
đến hàng tứ trụ mà một số bị lột chức hoặc vào tù đã buộc phải công khai (một
phần) cho mọi người dân thấy rõ, trong điều kiện tệ hại của bộ máy cầm quyền đến
mức không thể giấu giếm theo truyền thống giữ bí mật, hoặc tốt khoe xấu che như
trước nữa! Điều này cũng chứng tỏ cả cái BCH Trung ương 200 người và Quốc hội
500 nhân vật do “đảng cử dân bầu” cũng chẳng ra gì trong cái việc biểu quyết chọn
các nhà lãnh đạo chủ chốt!
Vậy
nghị quyết về cơ cấu nhân sự sáng suốt, được thực hiện một cách hết sức thận trọng,
đúng quy trình, đúng khoa học… là ở chỗ nào? Hỏi như vậy, tức đã có câu trả lời
sẵn rồi.
Còn
về tiểu ban văn kiện, thật ra chỉ cần một hai viên thư ký hạng giỏi/ giàu kinh
nghiệm là đủ làm rồi, trên cơ sở tổng hợp ý kiến từ một số kỳ Hội nghị Trung
ương giữa kỳ, cộng với ý kiến đóng góp từ các cấp chính quyền địa phương đưa
lên trước kỳ Đại hội, tham khảo thêm bài viết phản biện chính trị-xã hội của
công chúng lên tiếng công khai trên các báo, đài, mạng xã hội….
Nếu
không muốn nói, chỉ cần lấy bản báo cáo và nghị quyết cũ chỉnh sửa lại, bằng
cách lược bớt những chỗ trùng phức, rồi thêm vào một số ý mới quan trọng nhất/
cần thiết phải nhấn mạnh nhất, là được… Điều cốt lõi là ở những ý mới mang tính
cải cách và có tính đột phá dựa trên tình hình mới thực tế, chứ không phải ở những
câu chữ dài dằng dặc với phần nhiều là sáo rỗng, mà một cán bộ tuyên truyền cấp
xã, thôn nào cũng vanh vách nói được…
Chúng
ta không thể đòi hỏi những người CS (thật ra nhiều người trong số họ đã trở
thành tư sản đỏ) từ bỏ ngay những điều họ không thể từ bỏ được. Như Đại hội XIV
sẽ diễn ra vào đầu năm 2026, lỡ chuẩn bị thì phải làm thôi. Nhưng có thể gợi ý
rằng: Bản báo cáo chính trị viết ngắn lại (còn khoảng 20-30 trang giấy in sách
khổ A5) và bản nghị quyết (còn khoảng 8-10 trang); rút ngắn thời gian họp; và đặc
biệt không nên đánh trống múa lân, cờ hoa rực rỡ, rợp trời với hàng vạn biểu ngữ,
pano, áp phích, khẩu hiệu giăng dán đầy, chào mừng đại hội các đảng bộ địa
phương trước kỳ Đại hội, cũng như cả đối với Đại hội Ban chấp hành Trung ương
toàn quốc. Chưa kể hàng vạn cuộc thi đua được tổ chức mọi nơi, mọi cấp, mọi
ngành nghề, để hưởng ứng chào mừng Đại hội.
Còn
nhớ, hồi năm 2021, trước Đại hội XIII, đã có một tỉnh nọ chi ngân sách đến gần
1 tỉ đồng để dựng tấm pano hoành tráng, đặt ở một vị trí trên cao để chào mừng
Đại hội…
Lâu
nay, việc chuẩn chi tiền thuế của dân một cách xả láng để phục vụ Đại hội được
ngầm coi là chính đáng, hợp lệ, vì luôn được hiểu là chi cho “ĐCSVN quang
vinh muôn năm, bách chiến bách thắng, là người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam”, qua đó rất nhiều cá nhân, đơn vị cũng được ăn theo một cách hồ hởi
và danh dự 5 năm mới có một lần!
Thời
gian gần đây, chính trường Việt Nam đang có sự biến đổi độc đáo chưa từng thấy
trong lịch sử, với sự đi lên nắm đại quyền trong tay của một viên tướng xuất
thân từ ngành công an. Công luận trong nước và thế giới đang theo dõi sát sao từng
lời nói, việc làm của nhân vật quan trọng này, đặc biệt trong các chuyến đi
thăm ngoại giao nước ngoài của ông, trước mắt được đánh giá là có nhiều triển vọng
theo hướng cởi mở, thực tế, ít giáo điều hơn so với người tiền nhiệm vừa qua đời.
Như vậy, người đời nên động viên, lên dây cót tinh thần cho ông, thay vì tìm
cách soi vào những câu nói vẫn còn hạn chế về mặt tư tưởng mà nhất thời trong
hoàn cảnh cụ thể nội bộ chính trị Việt Nam, ông chưa thể nào thoát khỏi ra ngay
được…
Trong
thời kỳ quá độ này,
mấy nội dung thấu tình đạt lý mà tổng bí thư, kiêm chủ tịch nước phát biểu đây
đó, (như: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; tháo gỡ những vướng mắc trói buộc về
thể chế, mở rộng dân chủ; hòa giải hòa hợp dân tộc và với những nước cựu thù;
thay đổi phương thức lãnh đạo của Đảng bằng cách giao quyền cho địa phương,
không có sự chồng lấn trách nhiệm giữa Đảng và Chính phủ; quyền làm chủ của dân
được đưa lên hàng đầu [dân làm chủ, nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo], thời thế
thay đổi thì cách làm cũng phải thay đổi; chống tham nhũng không gây trở ngại
cho phát triển kinh tế; phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế kỹ thuật số; Việt
Nam phát triển theo xu thế chung của thế giới và không đi ngược với nền văn
minh nhân loại…), thì nên bổ sung ngay vào Nghị quyết của Đại hội 14, sẽ diễn
ra đầu năm 2026.
Tuyệt
đối bãi bỏ việc tổ chức lấy ý kiến dân để bổ sung vào nội dung nghị quyết, vì
đây chỉ là hình thức giả trang vô bổ, có tính chất trình diễn nhiều hơn là giá
trị thực chất.
Nhưng
kể từ nhiệm kỳ tới nữa (thời gian giả định tương đương Đại hội 15 năm
2031), nên chăng đặt ra vấn đề kiên quyết dứt khoát dẹp bỏ loại Đại hội 5 năm
và các bản báo cáo chính trị, nghị quyết kèm theo; đương nhiên điều này cũng có
nghĩa là sẽ không còn các cái tiểu ban gọi là nhân sự hay văn kiện gì nữa.
Thay
vào đó, bộ sậu lãnh đạo các ngành các cấp vẫn tổ chức họp hành nhưng là họp cho
từng chủ đề cụ thể để giải quyết những vấn đề sinh động, cụ thể, thực tế phát
sinh trong từng lúc, từng giai đoạn đặc thù, chứ không lấy nghị quyết 5 năm làm
tiêu chí chung bàn luận giải quyết vấn đề. Sau đó thì cũng vẫn cho ra những luật,
những nghị quyết, chỉ thị, thông tư… thích hợp cho từng việc để điều hành các
loại hoạt động, nhưng không phải là nghị quyết 5 năm.
Về
bổ nhiệm nhân sự, nên lấy từ những cán bộ địa phương đề bạt lên, chọn trong số
những người có thành tích tốt được tập thể và nhân dân kỳ vọng. Ý này không mới:
Cuối năm 2020, trong một cuộc hội thảo tổ chức tại Ban Kinh tế Trung ương về vấn
đề liên quan, đã có một quan chức cấp ủy viên trung ương chủ trì hội thảo lên
tiếng phê bình thẳng tính cách bất công vô lý của phương thức bổ nhiệm nhân sự
theo quy hoạch-cơ cấu từ Đoàn TNCS hoặc từ cái gọi là “cấp ủy”.
Thay
cho nghị quyết 5 năm đã sáo mòn và gần như vô dụng, giờ đây chính là bản Hiến
pháp 2013 cũng do chính ĐCSVN dựng ra, chứ chẳng phải ai khác, với một vài điểm
tu chính, nếu cần, đặc biệt về vấn đề quyền sở hữu đất đai, vốn đã gây nên tình
trạng bất mãn lớn trong dân từ rất nhiều năm nay. Trong bản Nghị quyết của Đại
hội 2026 sắp tới, cần in đậm dòng chữ “Sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật”, nhưng đặc biệt thêm câu: “Áp dụng một cách thực chất
về các quyền công dân đã ghi trong Hiến pháp”, như các quyền về tự do
bầu cử, ứng cử (bãi bỏ việc cơ cấu theo quy hoạch, nhất là theo kiểu con ông
cháu cha), tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu tình, tự do tín ngưỡng…
đã ghi trong Hiến pháp.
Phải
coi Hiến pháp đúng với bản chất, vai trò, chức năng của nó là bộ luật khung căn
bản cao nhất, chi phối toàn bộ hoạt động của quốc gia mà tất cả mọi thành viên
không phân biệt địa vị, chức tước trong xã hội, đều phải nghiêm túc chấp hành.
Nếu thực thi đúng Hiến pháp thì mọi công dân hội đủ điều kiện về tuổi tác, sức
khỏe đều được tham gia bầu cử và ứng cử, không có nạn cơ cấu-quy hoạch sẵn bằng
hai ba vòng xét duyệt…
Làm
được như vậy, Quốc hội mới thật sự có chất lượng và thực quyền, không còn những
ông/ bà nghị gật, để các ông/ bà nghị xứng đáng là đại biểu của dân. Khi đã đạt
được chất lượng nhờ bầu, cử ứng cử tự do này rồi, người đại biểu của dân có thể
bỏ phiếu thông qua những điều luật hợp lòng dân, hoặc bác bỏ những dự án luật
do hành pháp đưa ra mà không phù hợp.
Chỗ
tiện gọn không mất thời gian biên soạn là Hiến pháp đã có sẵn (thực tế cũng do
đảng cầm quyền làm ra), chỉ cần tùy thời tu chính cho ngày một thêm sát hợp với
tình hình thực tế của đất nước. Điều cần thêm có lẽ là, phải xây dựng một tòa
án hiến pháp, để xét xử tất cả những trường hợp vi hiến.
Như
trên đã phân tích, tựu trung chỉ đơn giản thay đổi cơ bản về cách làm thôi,
theo hướng biến cái giả thành cái thật. Trong trường hợp này, vai
trò lãnh đạo của Đảng và CNXH vẫn còn y nguyên như đã ghi trong Hiến pháp, chẳng
cần nói gì đến mấy cụm từ kị huý như đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập, xã
hội công dân… Làm được như vậy, anh đại Hán láng giềng TQ cũng không bắt bẻ, chỉ
trích gì được, vì mỗi nước đều có quyền quyết định vận dụng sáng tạo CNXH theo
đặc điểm riêng của mình. Trái lại, cách làm sáng tạo độc đáo này còn có tác dụng
nêu gương để ĐCS và nhân dân Trung Quốc noi theo. Một cách thoát Trung khôn
ngoan về mặt chính trị, bằng cách đi trước một bước mà không cần phải có một
câu chữ nào sử dụng để chống Trung…
Mấy
ý kiến nêu ra trên đây trông có vẻ lạ lẫm và đột xuất, e rằng khó thực hành
theo ở một số chỗ, khả năng có thể sẽ bị một số người chỉ trích, cho là điên rồ,
chân đi không chấm đất…. Nhưng thiết nghĩ, một con người cũng giống như một đất
nước, một xã hội, nếu không biết tự diễn biến, tự chuyển hóa để tự thay đổi tư
duy thích ứng theo thực tế đời sống, thì cũng đừng trông mong gì có thể tiến bộ
để thực hiện “kỷ nguyên vươn mình lên của dân tộc” cho được…
No comments:
Post a Comment