Hành
trình 75 năm đưa Trung Quốc « vĩ đại trở lại »
Chi Phương - RFI
Đăng
ngày: 08/10/2024 - 14:50 - Sửa đổi ngày: 08/10/2024 - 15:39
Hồi
đầu tháng này, ngày 01/10/2024, Trung Quốc kỷ niệm ngày quốc khánh, tròn 75 năm
đảng Cộng Sản cầm quyền. Chính sách cai trị độc đảng tại Trung Quốc của Tập Cận
Bình, với tầm nhìn « phục hưng Trung Quốc » dù không có nhiều điểm
chung, nhưng nếu nhìn sâu xa, lại là sự tiếp nối của một bộ nguyên tắc về chính
trị và kinh tế từ 75 năm qua.
HÌNH
:
Ảnh
của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bảo tàng đảng Cộng Sản Trung Quốc, Bắc
Kinh, Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 12/11/2021. AP - Ng Han Guan
RFI
xin giới thiệu bài phân tích của nhà nghiên cứu Elizabeth Economy tại
Hoover Institution, đăng trên The Diplomat ngày 01/10/2024.
Theo
The Diplomat, đảng Cộng Sản cai trị Trung Quốc trong suốt 75 năm qua mà không
có sự phản đối “đáng kể” nào kể. Từ một quốc gia nghèo đói, bị
chiến tranh tàn phá, trở thành một đại cường, Trung Quốc khiến thế giới kinh ngạc
về quá trình chuyển đổi hiện đại. Trên trường quốc tế Cộng Hoà Nhân Dân Trung
Hoa đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, có vị trí trung tâm trên bàn
cờ quốc tế, có quân đội mạnh, và đi đầu trong nhiều lĩnh vực công nghệ quan trọng,
từ xe điện, 5G cho đến Trí tuệ nhân tạo (AI).
Đối
với lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình, những thành tựu mà Trung Quốc đạt được là những
dấu hiệu quan trọng để thực hiện tầm nhìn “phục hưng đất nước”, khiến
Trung Quốc “vĩ đại trở lại”. Kể từ khi lên nắm quyền vào năm
2012, Tập Cận Bình đã đưa ra nhiều sáng kiến để trẻ hóa đất nước, như Sáng kiến
Một Vành Đai Một Con Đường, Made in China 2025, …, xây dựng một nền kinh tế hiện
đại có thể cạnh tranh với Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển khác, có
quân đội hùng mạnh để có thể thực hiện các tham vọng về chủ quyền và có được vị
thế trung tâm trên trường quốc tế.
Không
chỉ riêng ông Tập mà hầu hết các lãnh đạo của Trung Quốc kể từ khi lập quốc đều
đưa ra tầm nhìn để phục hưng Trung Quốc. Dưới thời Mao Trạch Đông, cố lãnh đạo
Trung Quốc coi việc tạo dựng một hệ thống chính trị theo chủ nghĩa xã hội (sau
đó là cộng sản) là ưu tiên. Mao Trạch Đông cũng tìm cách thống nhất Đài Loan,
theo một mô hình cho phép Đài Loan tự chủ về các vấn đề chính trị nội bộ, kinh
tế, và cả quân đội, nhưng Hoa Lục vẫn duy trì kiểm soát về chính sách đối ngoại.
Đây chính là khởi nguồn của lập trường “một đất nước hai chế độ” mà
Đặng Tiểu Bình người kế nhiệm ông Mao noi theo.
Tuy
nhiên Đặng Tiểu Bình lại đưa ra một khái niệm khác về việc phục hưng Trung Quốc,
tập trung vào việc phục hồi kinh tế và sức mạnh quân sự, qua việc hiện đại hoá
nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng và khoa học công nghệ. Ông Đặng cũng kêu gọi
vốn nước ngoài vào hỗ trợ hiện đại hóa đất nước, bắt đầu quá trình hội nhập,
tham gia vào nhiều thể chế và thỏa thuận quốc tế. Ông Đặng ủng hộ chính sách đối
ngoại kín đáo của Trung Quốc, để tạo ra một môi trường quốc tế ổn định, tập
trung vào phát triển kinh tế trong nước.
Các
nguyên tắc được thiết lập ngay từ khi lập quốc
Nếu
về bề nổi, Trung Hoa thời Tập Cận Bình khác với thời của Mao Trạch Đông và Đặng
Tiểu Bình, nhưng khi xét kỹ, theo nhà phân tích lizabeth Economy, thuộc Hoover
Institution, chiến lược “phục hưng Trung Quốc” của ông Tập, được bắt nguồn từ
các nguyên tắc được thiết lập ngay từ khi lập quốc. Đảng Cộng Sản duy trì quyền
kiểm soát tối cao, trong mọi lĩnh vực, kinh tế, chính trị xã hội, tư pháp, truyền
thông, giáo dục….
Bản
thân Tập Cận Bình cũng nhấn mạnh rằng một lãnh đạo Trung Quốc là người phải biết
củng cố nền tảng do người tiền nhiệm thiết lập, và sau đó tự đặt ra chương
trình nghị sự của riêng mình. Trong một triển lãm vào năm 2012, với tên gọi
“con đường trẻ hóa, phục hưng”, ông Tập vừa mới nhậm chức, đã kêu gọi các đảng
viên “kế thừa quá khứ, mở ra tương lai”.
Tại
Đại hội đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ 19, vào năm 2017, ông Tập đã mô tả
Trung Hoa đã « đứng lên, trở lên giàu có và mạnh mẽ”, ngụ
ý rằng, Mao Trạch Đông đã giúp đất nước đứng lên vào năm 1949, lãnh đạo cuộc
cách mạng của đảng Cộng Sản thành công; ông Đặng Tiểu Bình thì giúp đất nước
phát triển, qua cải cách và mở cửa, và đến ông Tập, sẽ là người đưa Trung Quốc
trở lên hùng mạnh.
Xây
dựng chế độ độc đảng vững mạnh
Theo
The Diplomat, “trân trọng quá khứ”, những tiền đề lịch sử giúp
các lãnh đạo Trung Quốc hợp pháp hoá một hệ thống chính trị, không cần giải
trình cho người dân về bầu cử hay những lỗi lầm trong quá khứ. Do đó, Tập Cận
Bình đã nỗ lực để lịch sử của đảng Cộng Sản là một « con đường
liên tục chứ không phải là một tập hợp các tư tưởng và chính sách ».
Yếu
tố cốt lõi trong chiến lược phục hưng Trung Quốc của Tập Cận Bình là xây dựng
chế độ độc đảng vững mạnh. Khi lên nắm quyền, ông Tập đã xác định các yếu tố,
các thách thức đối với khả năng tồn tại liên tục của đảng Cộng Sản, chẳng hạn
như nhiều đảng viên không còn duy trì ý thức hệ, chuyển sang tư tưởng chính trị
và kinh tế cá nhân. Các giá trị phương Tây xâm nhập vào Đảng và xã hội Trung Quốc,
và tham nhũng là một trong những đe dọa lớn nhất.
Để
giải quyết những điểm yếu này, ông Tập đã áp dụng một số chính sách từ thời Mao
Trạch Đông, loại bỏ kiểu lãnh đạo tập thể do Đặng Tiểu Bình lập ra, thanh trừng
các đối thủ chính trị, gia hạn nhiệm kỳ lãnh đạo của chủ tịch nước, chủ tịch Đảng,
đồng thời thúc đẩy chủ nghĩa sùng bái cá nhân, mà theo đó, « bất kể lời
nói, hành động của ông Tập đều có thể chi phối đời sống chính trị Trung Quốc ».
The
Diplomat nhắc lại cuộc đàn áp những người bất đồng chính kiến dưới thời Mao Trạch
Đông, với cuộc Cách mạng Văn hoá, đẩy quốc gia vào tình trạng hỗn loạn.
Đọc
thêm : Cách Mạng Văn Hóa Trung Quốc : tháng 08/1966, mùa hè đỏ máu đầu
tiên
Mặc
dù ông Tập phủ nhận tình trạng hỗn loạn do cuộc Cách mạng Văn hoá gây ra, nhưng
coi đảng Cộng Sản Trung Quốc đang tham gia vào cuộc đấu tranh “dữ dội”,
và “liên tục” chống lại các giá trị và tư tưởng không đúng đắn.
Tập Cận Bình đã phát động chiến dịch “chỉnh đốn tư tưởng”, tại
các trường đại học, các tổ chức tư vấn học thuật khoa học, các phương tiện truyền
thông và doanh nghiệp nhà nước. Ví dụ, các trường đại học cấm sách giáo khoa
phương Tây, học sinh được khuyến khích báo cáo các giáo viên có những “phát
ngôn không phù hợp”. Tư tưởng của ông Tập được giảng dạy từ tiểu học
cho đến đại học.
Về
cuộc chiến chống tham nhũng, ông Tập đã viện dẫn các tôn chỉ của Mao Trạch Đông
về việc “bắt hổ” - những quan chức cấp cao tham gia các hoạt động
tham nhũng quy mô lớn, và “bắt ruồi” – các quan chức cấp thấp.
Tuy nhiên không giống như dưới thời ông Mao, các chiến dịch mà ông Tập phát động
được thực hiện liên tục trong hơn một thập kỷ, và vượt xa tất cả các chiến dịch
chống tham nhũng trước đó về quy mô và phạm vi, và chưa biết khi nào mới chấm dứt.
Kể từ năm 2012, Trung Quốc đã ghi nhận hơn 5 triệu vụ tham nhũng liên quan đến
các đảng viên Cộng Sản.
Tập
Cận Bình và tấm áo "nhà cải cách"
Nếu
ông Tập lựa chọn cách tiếp cận chính trị theo đường lối của Mao Trạch Đông, thì
về kinh tế, lãnh đạo Trung Quốc khoác lên mình chiếc áo của Đặng Tiểu Bình, coi
mình là “nhà cải cách”, theo đuổi các chính sách đổi mới Trung Hoa ngay từ đầu
nhiệm kỳ.
Khi
nền kinh tế bị chững lại, lòng tin bị suy giảm, đầu tư cũng giảm, đảng Cộng Sản
Trung Quốc tiếp tục sử dụng hình ảnh của Đặng để đánh bóng uy tín của ông Tập.
Báo chí của Nhà nước, vào tháng 03/2024, đã gọi Tập Cận Bình là “một
nhà cải cách xuất sắc khác, sau Đặng Tiểu Bình”, so sánh “nhiệm vụ hiện đại
hoá” đất nước của ông Đặng và “sứ mệnh của ông Tập” ngày nay.
Tuy
nhiên, theo The Diplomat, các chính sách của Tập Cận Bình chỉ ra rằng ông không
phải là một người kế nhiệm tự nhiên của ông Đặng, bởi “không khoan dung” với những
điều không chắc chắn, mất quyền kiểm soát Đảng, và bất bình đẳng thu nhập. Cải
cách kinh tế đầu tiên mà Tập Cận Bình đưa ra vào năm 2013, hứa hẹn rằng thị trường
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc, và quyền sở hữu công vẫn
là ưu tiên.
Theo
các nhà quan sát, nhiệm kỳ của Tập Cận Bình đượ
c
đánh dấu bởi xu hướng “Nhà nước tiến lên, khu vực tư nhân thụt
lùi”, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã tăng gấp đôi trong giai đoạn
2012-2022. Vai trò của đảng Cộng Sản trong các doanh nghiệp tư nhân cũng được
tăng cường, để “phù hợp với các mục tiêu của Đảng”.
Cách
tiếp cận của Tập Cận Bình đối với “thịnh vượng chung”, phản
ánh sự kết hợp giữa tầm nhìn của cả Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Ông Đặng
cho rằng, một số khu vực và nhóm người nhất định sẽ trở lên giàu có trước, và
thúc đẩy kinh tế, đóng góp vào thịnh vượng chung của đất nước. Tuy nhiên, giống
như Mao Trạch Đông, ông Tập phản đối việc tạo ra quá nhiều của cải, và coi việc
phân phối của cải là cách để giải quyết sự bất bình đẳng về thu nhập hiện nay ở
Trung Quốc.
Trong
bối cảnh kinh tế suy thoái hậu Covid, lãnh đạo Trung Quốc từ chối hỗ trợ các
doanh nghiệp tư nhân và người tiêu dùng vì e sợ sẽ thúc đẩy “chủ nghĩa
phúc lợi”, để tránh xảy ra tình huống người dân làm biếng, không muốn
làm việc vì nhận được hỗ trợ từ chính phủ. Về vấn đề thất nghiệp ở người trẻ,
ông Tập đã gợi ý các thanh niên nên chấp nhận cay đắng, xuống các vùng nông
thôn phục vụ nhân dân, làm liên tưởng đến cuộc Cách mạng Văn hoá dưới thời Mao
Trạch Đông.
Liên
quan đến việc đổi mới và công nghệ, ông Tập tỏ ra ít cam kết với việc đưa Trung
Quốc hội nhập vào cộng đồng khoa học quốc tế như Đặng Tiểu Bình, mà ông ủng hộ
hơn các chính sách thúc đẩy tự lực công nghệ, giảm phụ thuộc vào quốc tế. Khái
niệm tự lực giáo dục cũng được đưa ra, thay vì gửi sinh viên đến các trường đại
học nước ngoài, ông Tập kêu gọi thành lập các trường địa học tại Hoa Lục “đẳng
cấp thế giới”, không chỉ để thu hút những tài năng tại Trung Quốc mà cả các
sinh viên có thành tích cao từ khắp nơi trên thế giới.
-----------------------------
Các
nội dung liên quan
TRUNG
QUỐC - ĐÀI LOAN
Mỹ
chưa sẵn sàng đối phó chiến tranh kinh tế của Trung Quốc chống Đài Loan
TRUNG
QUỐC - VŨ KHÍ HẠT NHÂN
Thấy
gì từ vụ Trung Quốc bắn thử tên lửa đạn đạo xuyên lục địa ra Thái Bình
Dương ?
TRUNG
QUỐC - BIỂN ĐỒNG
Philippines
lên án Trung Quốc tấn công ngư dân Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa
No comments:
Post a Comment