HÀ
NỘI 70 NĂM THỦ ĐÔ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 10.10.1954 – 2024
ĐƯỜNG CỘT
CỜ - ĐƯỜNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
Con
đường dài trong thăm thẳm lịch sử hình thành từ đầu thế kỷ 19 và trong suốt hơn
150 năm vẫn được người dân kẻ chợ Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội gọi tên là đường
Cột Cờ. Dịp kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954 – 1964, chính quyền
Hà Nội đã đổi tên đường Cột Cờ thành đường Điện Biên Phủ.
Ngày
ấy là lính trong thành cổ Cột Cờ Hà Nội tôi đã được chứng kiến buổi lễ đổi tên
đường diễn ra chiều thứ ba ngày 7.5.1964 ngay trên hè đường trước cổng bảo tàng
Quân Đội.
Đứng
trước hơn hai chục người đều là bô lão ngồi trên mấy chiếc ghế dài trên hè đường,
thị trưởng Hà Nội, bác sĩ Trần Duy Hưng nói vễ chiến thắng lẫy lừng Điện Biên
Phủ, về ý nghĩa một đường phố Hà Nội được mang tên Điện Biên Phủ. Trong tiếng vỗ
tay rời rạc, thị trưởng Hà Nội đi đến cây cột điện ngay sát cổng bảo tàng Quân
Đội, đưa hai tay kéo tấm lụa vàng phủ bảng tên đường treo trên cột điện. Tên đường
Điện Biên Phủ lộ ra. Lúc này tiếng vỗ tay mới đồng loạt rộ lên.
Lễ
đổi tên, trao cho một đường phố thủ đô mang tên vàng Điện Biên Phủ vào ngày lịch
sử chiến thắng Điện Biên Phủ là một cột mốc, một sự kiện lịch sử, văn hoá của
thủ đô đất nước mà tổ chức khá âm thầm, đơn sơ, buồn tẻ và lúi xùi như một sinh
hoạt thường ngày ở một tổ dân cư, như một việc làm chiếu lệ cho có. Buổi lễ diễn
ra ngay hè đường, không một băng vải, không một bảng chữ nêu tên buổi lễ.
Thị
trưởng Hà Nội, bác sĩ Trần Duy Hưng và những bô lão tham dự lễ đổi tên đường Cột
Cờ thành đường Điện Biên Phủ ngày đó nay đều đã là người thiên cổ nhưng sự kiện
buồn một con đường Hà Nội mang nặng dấu tích lịch sử Hà Nội bỗng phải bỏ cái
tên của khí thiêng đất Hà Nội, cái tên thân thiết trong cuộc sống hàng ngày và
lay động, gợi cảm trong hồn người Hà Nội để mang tên một mảnh đất của núi rừng
Tây Bắc xa xôi, một cái tên vang dội của lịch sử đương đại nhưng không cùng hồn
văn hoá, không cùng hồn lịch sử với mảnh đất đọng hồn lịch sử, hồn văn hoá kinh
kỳ Hà Nội.
Tên
vàng Điện Biên Phủ của trang lịch sử chống quân Pháp xâm lược xứng đáng được đặt
tên phố, tên quảng trường, tên trường học, tên công trình kiến trúc, xây dựng
nhưng tên Điện Biên Phủ cần đặt ở chỗ khác, thay thế những cái tên khác chứ
không thể đặt ở đường Cột Cờ, không thể thay tên Cột Cờ.
Không
thể tuỳ tiện, làm chính trị nông cạn lấy tên ông chủ tịch nhà nước công nông
Tôn Đức Thắng vốn là thợ cơ khí nhà máy sửa chữa tàu biển Ba Son bên sông Sài
Gòn thay cho tên phố Hàng Bột, làm mất tên Hàng Bột của lịch sử kẻ chợ ba mươi
sáu phố phường. Ở ngay đoạn đầu phố Hàng Bột có phố Hàng Cháo. Tên Hàng Bột,
Hàng Cháo ghi dấu lịch sử đời sống xã hội ở mảnh đất đã có thời người dân sống
bằng nghề xay bột, bán cháo. Vì phố Hàng Cháo rất ngắn nên tên Hàng Cháo vẫn
còn. Hàng Bột phố dài, đường rộng, tên phố Hàng Bột mang hồn Hà Nội ba mươi sáu
phố phường bị tên Tôn Đức Thắng chiếm mất rồi!
Không
thể vì phải có tên phố Nam Bộ mà làm mất đi tên phố Hàng Lọng, Hàng Cỏ gợi nhớ,
nhắc nhở về một thời Hà Nội ngựa xe dập dìu, võng lọng xênh xang.
Câu
thơ của bà Huyện Thanh Quan viết về Thăng Long – Hà Nội “Dấu xưa xe ngựa hồn
thu thảo” còn đi về trong trí nhớ, trong hồn người, trong lịch sử văn học Việt
Nam, trong trang sách lịch sử, văn hoá Hà Nội thì tên phố Hàng Lọng còn phải được
giữ lại ở đường phố nơi đã từng bán ô, bán lọng.
Câu
ca dao lưu giữ bóng dáng con người kinh kì, lưu giữ hồn vía kinh kỳ Thăng Long
– Đông Đô một thời vàng son: “Nhong nhong ngựa ông đã về / Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa
ông ăn” Bồ Đề ở Gia Lâm. Cỏ Bồ Đề tốt tươi trên bãi bồi phù sa bờ Bắc sông Hồng
theo thuyền vượt sông vào họp phường, họp chợ cỏ ở phố Hàng Cỏ. Câu ca dao về
ngọn có Bồ Đề nuôi ngựa quan kinh kỳ còn mãi trong kho tàng văn học dân gian
thì tên mảnh đất họp chợ Hàng Cỏ là minh chứng của câu ca dao cũng cần được lưu
giữ như lưu giữ một mảnh hồn lịch sử Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Giữ tên
Hàng Lọng, Hàng Cỏ là giữ nét đặc sắc kinh kì, chỉ kinh kỳ mới có.
Không
phải chỉ một lần tuỳ tiện, vô lí, những người quản lí hành chính mảnh đất Hà Nội
không có hồn lịch sử Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, không có hồn văn hoá Hà Nội
đã tuỳ tiện lấy tên Nam Bộ thay cho tên Hàng Lọng, Hàng Cỏ. Rồi lại tuỳ tiện lấy
tên Lê Duẩn thay cho tên Nam Bộ.
Mảnh
đất nào cũng có lịch sử, có hồn của đất. Đất được gọi đúng tên là gọi lên hồn của
đất, là nhắc đến cả lịch sử thăm thẳm của đất. Nam Bộ dù là tên gọi miền đất
phương Nam ruột thịt của tổ quốc Việt Nam, dù là tên gọi thương nhớ trong lòng
người dân Việt Nam cũng không thể thay thế cho tên Hàng Lọng gợi nhớ đời sống
xã hội, gợi nhớ sinh hoạt một thời lịch sử của mảnh đất kinh kỳ Thăng Long, Hà
Nội. Tên Lê Duẩn lại càng không thể thay thế cho tên Hàng Lọng. Lê Duẩn là cái
tên đậm nét trong lịch sử Việt Nam thời đau thương nhất, là tên người đứng đầu
đảng cộng sản cầm quyền, người vạch sách lược và phát động cuộc nội chiến đẫm
máu thâu tóm giải đất miền Nam vào lãnh thổ cai trị của đảng cộng sản càng là
cái tên lạc lõng với đường phố đã từng in dấu xưa xe ngựa kinh kì.
Năm
con đường bao quanh thành cổ Hà Nội, Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Lý Nam Đế, Trần
Phú, Cột Cờ thì đường Cột Cờ mang nhiều chứng tích, nhiều dấu ấn lịch sử nhất của
mảnh đất nhiều thăng trầm, nhiều biến cố Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Tháp
Cột Cờ đỏ sẫm màu gạch cổ được xây trong bảy năm từ 1805 đến 1812, ngay sau khi
Chúa Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế năm 1802 trở thành vua Gia Long, dời kinh đô
vào Phú Xuân. Không còn là kinh đô, Gia Long đổi tên Đông Đô của nhà Lê thành
Hà Nội. Kinh kỳThăng Long, kinh kỳ Đông Đô mang tên Hà Nội từ đó và Cột Cờ Hà Nội
cũng có từ đó.
Giành
và thống nhất được giang sơn một dải từ Hà Giang tới Phú Quốc, Kiên Giang, dời
kinh đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Phú Xuân, Gia Long vẫn cho xây thêm
toà lầu Khuê Văn Các tuyệt đẹp ở kinh đô cũ Thăng Long. Xây tháp Cột Cờ ở kinh
đô mới Phú Xuân, Gia Long cũng cho xây tháp Cột Cờ ở Hà Nội ghi nhận kinh đô của
quá khứ. Đường Cột Cờ ngang qua trước tháp Cột Cờ hình thành từ đó. Con đường gắn
liền với một sự kiện của lịnh sử Hà Nội. Con đường trải dài trong không gian lịch
sử của kinh kỳ Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Cuối
đường Cột Cờ giáp quảng trường Ba Đình, xưa là đất tịch điền. Thời nhà Lý, thời
nhà Trần, kinh kỳ còn ở Thăng Long, thời nhà Lê, kinh kỳ còn ở Đông Đô, hàng
năm đến ngày lập xuân, vua Lý, vua Trần, vua Lê ra đất tịch điền theo bước chân
trâu, cày ruộng, mở đầu một năm người dân cả nước cầy cấy lao động sáng tạo làm
ra hạt lúa, hạt ngô, làm ra thái bình, thịnh vượng của đất nước. Thời nhà Nguyễn,
kinh đô chuyển vào Phú Xuân, quan Tổng đốc Hà Nội thay vua giữ nếp xưa, tổ chức
lễ tịch điền ở mảnh ruộng đã từng in dấu chân vua Lý, vua Trần, vua Lê cày ruộng.
Góc
đường Cột Cờ – Hoàng Diệu xưa là Võ Miếu. Chiều ngày 25 tháng tư, năm 1882,
khói kho thuốc súng trong thành Hà Nội bị kẻ làm phản đốt còn mù mịt trên tán
cây ở Võ Miếu thì Tổng đốc Hoàng Diệu tìm đến treo tấm vải điều lên cành cây rổi
kết thúc cuộc đời bằng tấm vải điều, tuẫn tiết cùng toà thành Hà Nội vừa bị mất
vào tay quân Pháp.
Phía
trước cửa Hướng Minh của Cột Cờ xưa là bãi có, xum xuê bóng cổ thụ và hồ nước.
Từ thời vua Lê, từ khi chưa có tháp Cột Cờ, chiều chiều lính quản tượng dắt voi
từ chuồng ở góc Đông Nam thành cổ ra thả voi xuống hồ, cho voi được đằm mình
trong nước, trở về với tự nhiên, đùa rỡn với nước, để dân kinh kỳ kéo đến xem
voi hút nước phun lên tán cây cao bên hồ. Từ đó hồ nước có tên hồ Voi. Hồ Voi
nay đã là vườn cây cổ thụ xum xuê nhưng tên Hồ Voi cùng tên đường Cột Cờ vẫn
còn mãi trong dân gian, trong hồn kinh kỳ Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Con
đường Cột Cờ gắn liền với những sự kiện lịch sử trên đất Cột Cờ. Tên đường Cột
Cờ không phải chỉ đi vào lịch sử mà còn đi vào tâm trí con người, đi vào hồn
dân gian, đi vào ca dao. Tôi xin kể mẩu chuyện tên đường Cột Cờ trong ca dao
dân gian.
Bạn
lính của tôi, sau là nhà thơ Phạm Đức, phó giám đốc nhà xuất bản Thanh Niên có
bà cô là Phạm Thị Tuyết vợ hoạ sĩ Lưu Văn Sìn tốt nghiệp cao đẳng Mĩ Thuật Đông
Dương cùng khoá với những hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn. Có tranh được
lưu giữ trong bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam, tên tuổi hoạ sĩ Lưu Văn Sìn còn mãi
trong lich sử mỹ thuật Việt Nam. Cô chú Phạm Thị Tuyết – Lưu Văn Sìn chỉ có đứa
con duy nhất là Lưu Văn Đạt. Chiến tranh đang đi đến đỉnh điểm ác liệt. Những
người phát động cuộc nội chiến Nam Bắc đã tạo được cho người dân niềm tin rằng
cuộc chiến tranh thâu tóm miền Nam, mở rộng lãnh thổ cai trị cho đảng cộng sản
là cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, giải phóng miền Nam thoát khỏi ách xâm
lược Mỹ, là công cuộc giải phóng dân tộc hào hùng vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Cả nước rầm rập ra trận. Năm 1966 tốt nghiệp trung học phổ thông, Lưu Văn Đạt
không thi đại học mà viết đơn xin nhập ngũ, trở thành lính pháo phòng không rồi
vào thẳng Tây Quảng Bình đánh trả máy bay Mỹ bắn phá cung đường Trường Sơn và Đạt
hi sinh cuối năm 1966. Hai vợ chồng già hiu quạnh trong căn nhà âm thầm ở ngõ
21 phố Tây Sơn gần gò Đống Đa nên Đức thường rủ tôi đến thăm cô chú Phạm Thị
Tuyết – Lưu Văn Sin. Một lần trong câu chuyện Đức nhắc đến đường Cột Cờ nơi
chúng tôi hàng ngày đi về, cô Tuyết liền đọc bài ca dao về con đường hình thành
từ đất hoàng thành Thăng Long đi vào hồn dân gian. Bài ca dao hay quá, tôi phải
lẩm nhẩm đọc lại, ghi vào trí nhớ rồi về ghi vào quyển sổ trong đáy ba lô lính:
Húng
Láng thơm đất sông Tô
Thanh
lịch thơm tự đầu Ô thơm về
Ba
mươi sáu phố phường nghề
Tài
hoa khắp chốn tìm về đất thơm
Dập
dìu xe ngựa sớm hôm
Cột
Cờ thơm những mảnh hồn ngàn năm.
Tên
Cột Cờ không phải chỉ để gọi tên ngọn tháp tám cạnh đưa lá cờ nước phấp phới
lên cao chót vót trên trời xanh Hà Nội, tên Cột Cờ còn đương nhiên chỉ con đường
thênh thang ngang qua tháp Cột Cờ. Nhà thơ Xuân Diệu làm thơ khoe ngôi nhà bên
đường Cột Cờ, khoe niềm vui có nhà ở đường Cột Cờ. Thơ Xuân Diệu còn mãi với thời
gian thì tên đường Cột Cờ trong thơ Xuân Diệu cũng còn mãi với thời gian.
Nhà
tôi hăm bốn Cột Cờ
Ai
thân thì đến, hững hờ thì đi.
Tháp
Cột Cờ xây dựng đầu thế kỷ mười chín. Con đường ngang qua trước cửa Hướng Minh
tháp Cột Cờ có từ đó liền được người dân gọi là đường Cột Cờ. Đến cuối thế kỷ
mười chín, chiếm xong ba nước Đông Dương, Pháp xây dựng Hà Nội thành thủ đô
Đông Dương, mở đường Cột Cờ thênh thang, hiện đại dẫn đến phủ Toàn quyền Đông
Dương được Pháp đặt tên đường là Boulevard Puginier. Paul Francois Puginier
(1835 – 1892) là giám mục cai quản giáo dân cả xứ đàng ngoài, người đã cho xây
dựng Vương Cung Thánh Đường Sở Kiện ở Hà Nam nơi giáo dân đông nhất xứ đàng
ngoài. Tên đường Puginier nhưng trong ngôn ngữ hàng ngày, cả trong chữ viết
trên sách báo, con đường vẫn được người dân gọi bằng tên Cột Cờ. Đến hôm nay thế
kỷ hai mươi mốt đường Cột Cờ vẫn là đường phố đẹp, phong quang, hiện đại, lung
linh nhất Hà Nội.
Nẻo
đường đi qua tháp Cột Cờ mang tên Cột Cờ là lẽ đương nhiên. Có thể thay đổi
dòng chảy của suối, thay đổi dòng chảy của sông. Có thể thay đổi thói quen của
con người. Có thể thay đổi cả số phận. Nhưng không thể thay đổi cái đương
nhiên. Không thể đánh đổi làm mất tên đường Cột Cờ của lịch sử Hà Nội, của lòng
dân Hà Nội bằng bất kỳ tên nào khác.
Vừa
trở thành người đứng đầu chính quyền thủ đô, đổi ngay tên đường Pierre Pasquier
thành đường Hoàng Diệu là việc làm rất văn hoá, rất lịch sử, việc làm của niềm
tự hào dân tộc có tầm chính trị rất cao, rất đẹp của thị trưởng Trần Duy Hưng,
một trí thức Hà Nội. Nhưng mười năm sau, năm 1955, con đường ở cạnh Đông Nam
thành cổ Hà Nội có tên Hàm Nghi bị thị trưởng Trần Duy Hưng đổi tên thành đường
Trần Phú thì không còn thấy con người trí thức, con người dân tộc ở vị bác sĩ
con đẻ của mảnh đất văn hiến Hà Nội mà chỉ thấy con người cán bộ của nhà nước
công nông. Mười chín năm sau, năm 1964, vẫn vị thị trưởng Hà Nội có bằng bác sĩ
Tây học lại đổi tên đường Cột Cờ thành đường Điện Biên Phủ! Dù là trí thức, dù
là thị trưởng thủ đô nhưng là quan chức chính quyền cộng sản, hồn dân tộc cũng
không còn nữa!
Với
việc đổi tên phố, tên đường, Hàng Bột thành Tôn Đức Thắng, Hàng Lọng thành Nam
Bộ, rồi Lê Duẩn, Cột Cờ thành Điện Biên Phủ . . . là bằng chứng về tầm vóc
chính trị, văn hoá nhỏ bé, thấp kém, hồn Việt Nam trống rỗng của những người quản
lí hành chính, tổ chức đời sống, điều hành hoạt động xã hội Hà Nội hôm nay,
không đủ tầm, không xứng đáng là những người chủ kinh kỳ lịch sử Thăng Ling –
Đông Đô – Hà Nội.
Trích
trong bản thảo tập sách Dấu Chân Thời Gian
Ảnh PĐT
:
. Thời khắc
tên đường Cột Cờ thay bằng tên Điện Biên Phủ
https://www.facebook.com/photo?fbid=2496954197172612&set=pcb.2496955527172479&locale=vi_VN
. Đường Cột
Cờ - Điện Biên Phủ hôm nay
https://www.facebook.com/photo?fbid=2496954347172597&set=pcb.2496955527172479&locale=vi_VN
No comments:
Post a Comment