Thursday, 15 December 2022

CUỘC TRANH LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỊA CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM BỎ SÓT ĐIỀU GÌ (Lan D. Ngo)

 



 

Cuộc tranh luận về định hướng địa chiến lược của Việt Nam bỏ sót điều gì

Lan D. Ngo

Bauxite Việt Nam dịch

16/12/2022

https://boxitvn.online/?p=82583

 

Việt Nam nên tiếp tục xây dựng lực lượng hải quân hay nên xoay trục về đất liền để đảm bảo an ninh tốt nhất? Ít ai nghi ngờ đó là một câu hỏi quan trọng cần được xem xét kỹ lưỡng. Là một cường quốc hạng trung mới nổi, Việt Nam đơn giản là không có đủ nguồn lực để cùng lúc theo đuổi một lực lượng hải quân hùng mạnh và một lực lượng lục quân hùng mạnh. Do đó, việc cân nhắc lựa chọn những chiến lược phù hợp là rất quan trọng để đảm bảo an ninh quốc gia.

 

https://drive.google.com/uc?id=1oSfLPI64GMOJFfaVQOuLcjYGpr0ByZYw

Ảnh: Bộ Quốc phòng.

 

Tuy nhiên, cuộc thảo luận gần đây trên diễn đàn này về định hướng địa chiến lược của Việt Nam, được khơi mào bởi bài viết của Khang Vũ, đã bỏ sót một điểm rất quan trọng. Việc tranh luận về việc quân đội Việt Nam nên tăng cường sức mạnh trên đất liền hay trên biển sẽ chẳng có giá trị gì nếu không xác định rõ ràng và chính xác kiểu Việt Nam bị đe doạ an ninh trong tương lai và kịch bản Việt Nam bị tấn công trong tương lai. Xét cho cùng, việc tăng cường trang bị cho quân đội của một quốc gia sẽ không cải thiện an ninh quốc gia nếu các hệ thống vũ khí được mua và học thuyết quân sự được phát triển không phù hợp với mối đe dọa có thể xảy ra nhất.

 

Trong bài báo của Euan Graham và Bich Tran trên Strategist, các tác giả về cơ bản lập luận rằng quân đội Việt Nam nên tiếp tục tập trung vào hàng hải hiện tại vì nền kinh tế định hướng xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc vào tự do hàng hải ở Biển Đông. Họ lo ngại rằng Việt Nam có thể bị tấn công bởi sự phong tỏa nếu Trung Quốc có “quyền kiểm soát không thể tranh cãi trong cái gọi là đường chín đoạn, và giành được quyền tiếp cận một căn cứ hải quân ở Campuchia”. Tuy nhiên, họ không chỉ rõ “quyền kiểm soát không thể tranh cãi” nghĩa là gì, và điều gì sẽ khiến Trung Quốc phong tỏa Việt Nam. Do đó, không rõ tại sao cuộc phong tỏa hải quân này lại là kịch bản ác mộng đối với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam và làm thế nào để lực lượng hải quân Việt Nam có thể ngăn chặn kết quả như vậy.

 

Trong khi Nguyễn Thế Phương đồng cảm với quan điểm của Graham và Trần rằng Việt Nam nên ưu tiên đầu tư vào khả năng hàng hải của mình, thì ông đã làm tốt hơn khi chỉ rõ những mối đe dọa nghiêm trọng mà Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt trong tương lai. Theo ông Nguyễn, Hà Nội nên lo ngại nhất về một cuộc xung đột quân sự ở Biển Đông, điều sẽ xảy ra sau các cuộc tấn công phủ đầu (có lẽ là của Trung Quốc) bằng vũ khí tầm xa và tấn công mạng. Kịch bản ác mộng khác sẽ là ‘phong tỏa hàng hải các tiền đồn của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa’. Rõ ràng bằng cách đầu tư vào năng lực hàng hải, Việt Nam có thể ngăn cản Trung Quốc dự tính hoặc thực hiện những hành động gây hấn như vậy. Tuy nhiên, như cuộc chiến tranh Nga-Ukraine đã cho thấy, khi bên tấn công mạnh hơn nhiều so với bên phòng thủ và quyết tâm gây chiến, có khả năng là không có hình thức răn đe hiệu quả nào ngoài răn đe hạt nhân.

 

Trái ngược với các tác giả trước, Vũ cho rằng Việt Nam nên ưu tiên lực lượng trên bộ, vì chiến đấu trong các cuộc chiến tranh trên bộ luôn quan trọng đối với an ninh của Việt Nam hơn là trên biển. Mặc dù tôi đồng ý với ông ấy rằng các mối đe dọa trên bộ rõ ràng gây ra mối nguy hiểm lớn hơn đối với an ninh Việt Nam, nhưng tôi không thể thấy việc đầu tư vào một đội quân trên bộ hùng mạnh sẽ ngăn cản Trung Quốc biến Lào và Campuchia chống lại Việt Nam như thế nào. Việc Việt Nam có thể đảm bảo rằng hai nước láng giềng vẫn duy trì các điều khoản thân thiện hay không là tùy thuộc vào chính sách đối ngoại và sự nhanh nhạy ngoại giao của Việt Nam, chứ không phải quân đội. Ngoài ra, không rõ ông Vũ đang tranh luận về điều gì trên thực tế. Giả định rằng các mối đe dọa từ đất liền nghiêm trọng hơn, các nhà lãnh đạo Việt Nam nên tập trung vào điều gì? Cụ thể hơn, quân đội Việt Nam nên trang bị loại sức mạnh quân sự nào và nhằm mục đích chiến lược nào?

 

Do Việt Nam nằm trên lục địa châu Á nhưng có đường bờ biển dài, nên về lâu dài chắc chắn Việt Nam phải chuẩn bị cho cả hai loại mối đe dọa. Tuy nhiên, do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông sẽ không sớm kết thúc và Việt Nam đã đạt được bước tiến lớn trong việc phân định biên giới trên đất liền với tất cả các nước láng giềng, nhiều khả năng các cuộc xung đột vũ trang trong tương lai gần sẽ là ở trên biển hơn là trên đất liền. Do đó, những câu hỏi quan trọng là: xung đột như vậy có thể bùng phát trong hoàn cảnh nào, và nó sẽ như thế nào?

 

Trong nghiên cứu năm 2008 về cách tiếp cận của Trung Quốc đối với các tranh chấp lãnh thổ, M. Taylor Fravel chỉ ra rằng Bắc Kinh có thói quen hành động hung hăng trong các tranh chấp lãnh thổ để ngăn chặn sự suy giảm khả năng thương lượng của mình đối với các bên khác. Nói cách khác, chúng ta nên lo lắng nhất về việc Trung Quốc tiến hành các cuộc xung đột vũ trang khi Bắc Kinh cảm thấy bất an vì sức mạnh của họ đang suy giảm đến mức không còn có thể thực thi yêu sách lãnh thổ của mình, hoặc vì các quốc gia khác đang có những hành động quyết liệt nhằm mở rộng quyền kiểm soát của họ đối với các vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Logic này giải thích tại sao Trung Quốc kiềm chế không xâm lược Đài Loan nhưng luôn phản ứng mạnh mẽ trước bất kỳ dấu hiệu nào về nền độc lập của Đài Loan. Dựa trên suy nghĩ này, cách phòng thủ không tìm cách giảm bớt sự kiểm soát của Trung Quốc đối với một phần lãnh thổ tranh chấp sẽ có khả năng thành công hơn trong việc ngăn chặn hoặc ít nhất là trì hoãn xung đột.

 

Giả sử rằng có sự xung đột vũ trang nào đó trong tương lai giữa Trung Quốc và Việt Nam diễn ra trên Biển Đông, rất có thể nó sẽ nổ ra khi Bắc Kinh cảm thấy họ đang mất quyền kiểm soát đối với một số đảo tranh chấp vì quần đảo này đã bị suy yếu hoặc vì các bên khác đang liên kết với nhau để giải quyết các tranh chấp của họ mà không có sự tham gia của Trung Quốc. Và nếu Trung Quốc khơi mào xung đột do bất an, thì nước này có thể sẽ hướng tới một việc đã rồi xảy ra một cách nhanh chóng thay vì một cuộc hải chiến quy mô lớn. Ví dụ, Trung Quốc có thể chiếm một hoặc hai hòn đảo do quốc gia khác kiểm soát và sau đó thách thức bên phòng thủ leo thang xung đột và có nguy cơ khơi mào chiến tranh để chiếm lại lãnh thổ đã mất. Điều đó sẽ cho phép Trung Quốc khẳng định chủ quyền và sự thống trị khu vực với chi phí và rủi ro thấp hơn, tương tự như việc Nga sáp nhập Crimea.

 

Do đó, thách thức chính đối với Việt Nam không phải là ngăn chặn một cuộc chiến tranh trên biển mà là phát triển đúng loại năng lực hàng hải cho phép Việt Nam chiến đấu hiệu quả trong vùng xám. Chính xác hơn, Việt Nam cần một lực lượng dân quân hải quân mạnh mẽ để có thể không cho phép Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn bất kỳ hòn đảo tranh chấp nào mà không công khai leo thang xung đột đến mức chiến tranh. Tên lửa và máy bay chiến đấu sẽ không hữu ích ở đây. Radar và một đội tàu tuần tra được trang bị tốt có thể phản ứng nhanh chóng và mạnh mẽ sẽ đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc duy trì hiện trạng. Mục tiêu chiến lược là không cho phép diễn ra một sự việc đã rồi và tạo không gian cho ngoại giao để xoa dịu khủng hoảng.

 

Chính vì những điều cụ thể này mà chúng ta nên tiếp tục tranh luận về các lựa chọn chiến lược của Việt Nam. Sự lựa chọn mở rộng cả hai giữa trọng tâm hướng vào đất liền và định hướng trên biển là không hiệu quả. Điều quan trọng là quân đội phải sẵn sàng chiến đấu và chiếm ưu thế trong các loại xung đột có thể nổ ra, dù trên đất liền hay trên biển.

 

L.D.N.

*

Lan D. Ngo là nghiên cứu sinh tiến sĩ khoa Chính trị tại Đại học Brandeis ở Massachusetts.

 

NGUỒN : What the debate on Vietnam’s geostrategic orientation misses, The Strategist, 5 Dec 2022





No comments:

Post a Comment

View My Stats