40 năm thành lập
Giáo Hội Nhà nước : chuyện vẫn còn rướm máu
Thứ Năm, 11/18/2021 - 05:36 — tuankhanh
https://www.rfavietnam.com/node/7028
Tháng 11-2021, nhân kỷ niệm 40 ngày Giáo Hội
Phật giáo phục vụ Nhà nước ra đời, báo Giác Ngộ có bài viết mang tên “Tiến
trình vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam” để mô tả lại câu chuyện mang tính
lịch sử, là sau năm 1975, chính quyền vô thần đang cầm quyền muốn tổ chức thống
nhất mọi chùa chiền, tăng ni, phật tử về một mối, dưới sự kiểm soát của Ban tôn
giáo chính phủ và quan điểm chính trị của Nhà nước.
Câu chuyện là lịch sử của chính Phật giáo và
dân tộc, với đủ mọi tình huống đã diễn ra trước và sau đó, bao gồm những án tù,
chết chóc, tịch thu, bắt bớ… nhưng không hiểu sao, một tờ báo như Giác Ngộ
đã “tập hợp có hệ thống các tài liệu và sưu khảo từ những ngày đầu tiên
công cuộc thống nhất Phật giáo diễn ra” nhưng hoàn toàn có những chi tiết không
đúng với sự thật, nếu không nói là lừa dối.
Nhiều chi tiết đọc trong bài báo này, khiến bất
kỳ ai hiểu biết đều ngạc nhiên về sự che đậy đến rợn người. Nhưng đáng nói nhất,
đó là sự mô tả về sự đồng thuận của hai bậc trí giả của Phật Giáo Việt Nam Thống
nhất là hòa thượng Thích Trí Thủ và Thích Đôn Hậu.
Thống nhất Phật giáo trong giai đoạn đó là gì?
Sau năm 1975, chính quyền mới nhận ra hệ thống hành chính, tổ chức và nhân lực
của Giáo hội Phật giáo Thống nhất là một mối lo, không khác gì như môt tổ chức
hùng mạnh nằm ngoài đảng trị. Việc thống nhất Phật giáo là một cách để kiểm
soát, cùng với loại trừ những gì bị coi là nguy hiểm.
Thật ra, từ vĩ tuyến 17 vào Nam, chỉ có Phật
giáo là còn tổ chức và hoạt động liên kết. Còn từ đó ra Bắc, nói theo nhận định
của ông Đỗ Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo từ Trung Ương, được giao nhiệm vụ để
theo dõi và vấn đề thống nhất Phật giáo năm 1981, phản tỉnh năm 1994, đã viết
trong hồi ký cúa mình là “Hầu hết chùa, nhà thờ ở miền Bắc mà tôi đã đến thăm đều
rêu phong tàn tạ. Các nhà sư (sư ông, sư bà) lẩm cẩm sợ sệt một báo cáo cụ, hai
báo cáo cụ. Các linh mục, giám mục đóng kín cửa lạc hậu với thời cuộc. Phật tử
gần như không còn gì nữa, chỉ ẩn hiện dưới dạng mê tín cúng bái linh tinh và rất
e dè trước khách lạ. Cán bộ Tôn giáo vận ở trung ương và các tỉnh miền Bắc văn
hóa thấp kém, chính trị non nớt, nghiệp vụ chuyên môn giáo điều cũ kỷ và
tổ chức bộ máy tôn giáo vận xộc xệch quê mùa. Như vậy làm sao đối ứng nổi với bộ
máy hiện đại của các tôn giáo ở miền Nam. Cho nên rốt cuộc chỉ áp dụng “chuyên
chính vô sản”.
Bốn chữ “chuyên chính vô sản” sau tháng 4-1975
mà ông Đỗ Trung Hiếu dè dặt mô tả, thực tế là vô số đất đai, chùa chiền, cơ sở
giáo dục của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã bị tịch thu
vô lý, vô cớ. Nhiều vụ tự thiêu ở Sài Gòn và Cần Thơ của tăng ni, phật tử để phản
đối đàn áp tôn giáo. Nhiều vị Đại đức ở toàn miền Nam đã bị bắt giam, bỏ tù
không án. Các hòa thượng như Thích Thiện Minh, Thích Trí Thủ, Thích Thiện Ân…
thì đột tử bất minh có liên quan đến công an và việc bắt đi, điều tra, giam lỏng.
Diễn đạt lướt qua tình hình, để nhằm nói rõ
thêm về cách điễn đạt ngọt ngào của bài báo Giác Ngộ, để thấy mọi thứ hôm nay
không thể nói ngược, bóp méo và lừa mị các thế hệ tin vào đạo Phật chân chính
được.
Đầu năm 1980, ông Nguyễn Văn Linh, lúc đó là
bí thư Thành Ủy ở Sài Gòn, đã mời hai vị hòa thượng Thích Trí Thủ và Thích Đôn
Hậu đến họp cùng nhiều hệ phái khác. Khi hỏi ý kiến về việc hòa nhập các hệ
phái Phật giáo toàn Việt Nam, cả hai vị đều đã từ chối xác nhận và nói rằng sự
có mặt hôm đó, chỉ là tính cách cá nhân và không thể trả lời thay được cho toàn
bộ hệ thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam được.
Tháng 9-1981, trong một cuộc họp khác về vấn đề
thống nhất Phật giáo. Hai vị Hòa thượng, Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ được
cử đến phó hội, đã trực tiếp phản đối bản Hiến Chương Giáo hội nhà nước đang được
soạn thảo. vì cho rằng nó chỉ thể hiện tính chất một tổ chức phục vụ cho Đảng Cộng
sản mà thôi Chính vì vậy, tháng 11-1981, cả hai vị hòa thượng đều bị bắt
và kết án, nhằm tước quyền phát biểu và ý kiến.
Sau năm 1975, bấy giờ ông Mai Chí Thọ làm giám
đốc Sở Công an Thành phố HCM, mời Hòa thượng Thích Trí Thủ làm việc, Ông Mai
Chí Thọ nói với Hòa thượng rằng: “Phật giáo có theo chính quyền không? Nếu
không theo là chống. Nếu Phật Giáo chống chính quyền, chính quyền có công an,
có quân đội, có nhà tù…”. Hòa Thượng cười và trả lời: “Phật giáo chúng tôi
không theo mà cũng không chống”. Tự hiểu vị trí của mình là cầu nối để đối thoại
với chính quyền, hòa thượng Thích trí Thủ chọn vị trí im lặng để cố bảo toàn những
gì mà GHPGVNTN còn lại, đặc biệt là lên tiếng cho các tăng, ni, phật tử đang mắc
nạn.
Những văn bản ký tên Hòa thượng Thích Trí Thủ,
với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ngay từ tháng 11-1975 gửi văn thư
(0316/VHĐ/VT) cho chính quyền mới, đã chỉ rõ những quan điểm của ông, khi bênh
vực cho người bị bắt, chùa bị cấm đoán và tăng ni tự thiêu ở chùa Dược Sư (Cần
Thơ) bị vu oan. Ngài tin rằng việc nhượng bộ làm việc cho Giáo Hội Phật giáo
Nhà nước sẽ tạo vị trí để lên tiếng nhiều hơn. Nhưng ngược lại. Trong loạt bút
ký của Chu Sơn (Pháp nạn – Ma chướng trong chế độ Cộng sản), ghi lại lời nhận
xét của hòa thượng Thích Trí Thủ “ không có mình, đảng Cộng sản cũng sẽ
làm như thế. Nhưng có mình (tham gia hình thành GHPGVN – CS), họ làm dễ hơn. Họ
duy vật, vô thần, chống phá tôn giáo là tất nhiên. Còn mình, là người tu hành,
lại tiếp tay với họ để hủy diệt tôn giáo và loại bỏ giáo hội của mình là một tội
lỗi, dù lòng mình không như thế. Đó tại vì mình bất trí, nhẹ dạ, cả tin. Đến thời
điểm này, 1984, mình mới hiểu tường tận về đảng Cộng sản mà mình đã từng kêu gọi
phật tử và mọi người hợp tác. Thì ra, họ không có gì cả, ngoài tham – sân – si.
Tội của mình không nhỏ…”.
Năm 1984, công an bao vây chùa Già Lam, bắt và
chính thức kết tội hòa thượng Thích Trí Thủ là mượn danh Chủ tịch Hội đồng trị
sự Trung ương, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tức Giáo hội của nhà nước, để bao
che và giúp đỡ cho các vị học giả, tang ni… âm thầm phát động chống
lại chính quyền. Sau đó không lâu, do lâm bệnh, công an đưa hòa thượng vào Viện
Thống Nhất trước là bệnh viện Vì Dân cũ. Ở trong bệnh viện vài ngày, đột nhiên,
hòa thượng viên tịch một cách bí ẩn. Một tháng sau, Thượng Thích Thanh trí,
Chánh đại diện. Miền Vạn Hạnh GHPGVNTN, cánh tay mặt của hòa thượng Thích
Trí Thủ, cũng viên tịch tương tự bất thường như vậy tại bệnh viện Huế.
Còn về hòa thượng Thích Đôn Hậu, là người phản
ứng dữ dội trước cái chết bất minh của hòa thượng Thích Thiện Minh. Ngài đã viết
thư chất vấn về cái chết này, sau đó, từ chối hai chức vụ mà nhà nước muốn đặt
để là Đại biểu Quốc hội và Ủy viên MTTQ Trung Ương. Sau đó là từ chối chức Phó
Pháp Chủ kiêm Giám Luật của giáo hội nhà nước (thư 8-2-1982, Phật Lịch 2525).
Trong tình cảnh như ông Mai Chí Thọ nói về xe
tăng và súng đạn sau 1975. Các hòa thượng Thích Trí Thủ và Thích Đôn Hậu phải tự
biến mình thành người chịu trách nhiệm trực tiếp đối thoại và bảo vệ cho
GHPGVNTN vào lúc nguy nan nhất. Các ngài đã nghĩ rằng sự tương nhượng có mặt là
cần thiết.
Trong chúc thư để lại, hòa thượng Thích Đôn Hậu ủy
quyền cho chư vị giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN sẽ kết nối và thống nhất cùng Phật
giáo ở hải ngoại. Ngoài ra di nguyện của ngài là không muốn tang lễ của mình
liên quan gì đến Phật giáo nhà nước hay chính quyền. Theo sử liệu ghi lại, Nhà
nước muốn tổ chức lễ tang để chứng minh hòa thượng Thích Đôn Hậu là “cánh nhà
nước”, nhằm thuyết phục hàng triệu Phật tử và hệ thống GHPGVNTN còn ẩn tàng,
nhưng với sự quyết liệt bảo vệ di chúc, hòa thượng Thích Huyền Quang (Đệ tứ
Tăng Thống, Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo) đã bảo vệ thành công, gạt bỏ được
các kịch bản dự định như điếu văn của cấp lãnh đạo, phong tặng huân chương nhà
nước…
Không phải lần đầu tiên mà báo Giáo Ngộ - cũng
phục vụ nhà nước - nói một điều gì đó về Phật giáo mà khiến nhiều người
Việt khó chịu. Làm truyền thông phục vụ cho một nhà nước độc tài, thủ tiêu cái
tôi lương thiện là điều có thể thấy. Nhưng đến mức lấp liếm mọi sự, bôi xóa cả
lịch sử để sống mòn với chút lợi danh thấp hèn, thì lại là tội đồ của dân tộc,
của đạo pháp. Đó mới là điều nên giác ngộ.
.
No comments:
Post a Comment