Phỏng vấn Ngô Thế Vinh – người đi dọc
4,800 km sông Mekong
March 23, 2020
Lời
Giới Thiệu: Đã tới năm 2020, mà vẫn còn một số bài viết
mới phát tán trên mạng, và tác giả bài viết ấy chỉ dựa vào con số 16% lượng nước
sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc, để bảo rằng ảnh hưởng chuỗi đập khổng lồ
Vân Nam là không đáng kể, đó như một biện minh che chắn cho những việc làm sai
trái của Bắc Kinh trên dòng Mekong trong suốt hơn ba thập niên qua.
Xây chuỗi đập bậc thềm Vân Nam, Trung Quốc đã khởi đầu
phá hủy sự cân bằng bền vững của toàn hệ sinh thái lưu vực sông Mekong. Dung lượng
các hồ chứa Vân Nam ngoài khả năng giữ hơn 30 tỉ mét khối nước [thời điểm
2016], còn chặn lại một trữ lượng rất lớn phù sa không cho xuống tới hạ lưu.
Thiếu nguồn nước ngọt, thiếu phù sa lại thêm ngập mặn với nước biển dâng, cả một
vùng châu thổ phì nhiêu ĐBSCL, cái nôi của một nền văn minh miệt vườn, có tương
lai trở thành một vùng đất chết do sa mạc hóa.
Đó là tình cảnh bi thương của 20 triệu cư dân 13 tỉnh
miền Tây ba tháng đầu năm 2020 hiện nay. Bài “Phỏng vấn BS Ngô Thế Vinh – người
đi dọc 4,800 km sông Mekong” được phóng viên Lê Quỳnh thực hiện, đã được đăng
trên báo in Người Đô Thị [25/04/2016] với tiêu đề: “Vũ khí giải cứu Mekong: chất
xám và tiếng nói,” bài phỏng vấn đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, cũng để
trả lời quan điểm sai trái cho rằng Cửu Long cạn dòng không phải do Trung Cộng
xây chuỗi đập thủy điện trên thượng nguồn. [Viet Ecology Foundation]
Ngô Thế Vinh đứng bên chân con đập Mạn Loan 1,500
MW, con đập dòng chính đầu tiên trong chuỗi đập bậc thềm Vân Nam trên sông
Lancang-Mekong. (Hình: NVH 2002)
Phỏng vấn Ngô Thế Vinh – người đi dọc 4,800
km sông Mekong
Gần 20 năm tâm huyết với các vấn đề trên dòng Mekong
cũng như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Bác Sĩ Ngô Thế Vinh không chỉ là một
nhà văn với hai tác phẩm “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” và “Mekong –
Dòng Sông Nghẽn Mạch,” ông còn là một nhà hoạt động môi trường bền bỉ. Ông đã
có những chuyến đi dọc dòng Mekong dài 4,800 km, từ Tây Tạng đổ xuống Biển
Đông. Người Đô Thị có cuộc phỏng vấn ông Ngô Thế Vinh về các vấn đề nóng bỏng hiện
nay trên dòng Mekong và ĐBSCL.
*
*Thưa, dù đã 17 năm trôi qua, từ những chuyến đi
dọc dòng sông Mekong dài 4,800 km, bức tranh sống động mà ông “phác họa” về những
tác hại khủng khiếp do các con đập thủy điện gây ra cho đời sống người dân lưu
vực sông Mekong đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự. Từ những dự cảm rất sớm về
những hậu quả do các đập thủy điện gây ra trên dòng Mekong và cho ĐBSCL nói
riêng, ông nhận định gì về thực trạng hiện nay?
-Ngô
Thế Vinh: Năm 2000, khi nói “Cửu Long cạn dòng,” nhiều
người xem đó là phát biểu “nghịch lý” bởi đó là năm có lụt lớn ở miền Tây. Một
vị tu sĩ đang tất bật lo việc cứu trợ, mới nghe tên cuốn sách đã phát biểu:
“Đang lũ lụt ngập trời với nhà trôi người chết mà lại nói ‘Cửu Long cạn dòng’
là thế nào?” Nhưng cần hiểu rằng lũ và hạn tương ứng với mùa mưa và mùa khô là
chu kỳ tự nhiên đã có hàng ngàn năm trên dòng Mekong và các vùng châu thổ, và đến
nay thì mức độ càng trầm trọng và gay gắt. Chúng ta không thể đổ lỗi hết cho
“thiên tai,” mà cần can đảm gọi cho đúng tên những yếu tố “nhân tai” bởi do
chính con người gây ra qua suốt quá trình phát triển không bền vững và có tính
tự hủy từ nhiều thập niên qua, đã làm gãy đổ sự cân bằng của cả một hệ sinh
thái vốn phức tạp nhưng cũng hết sức mong manh của dòng Mekong.
Một chuỗi những tai ương do chính con người gây ra
đó là: (1) Phá hủy tự sát những khu rừng mưa trong toàn lưu vực. Những khu rừng
mưa này có tác dụng như những tấm bọt biển khổng lồ giữ nước trong mùa mưa, xả
nước trong mùa khô với chức năng điều hòa lưu lượng nước của dòng sông trong suốt
hai mùa khô lũ, thì nay không còn nữa. (2) Xây các con đập thủy điện không chỉ
trên dòng chính mà ngay trên khắp các phụ lưu sông Mekong từ thượng nguồn xuống
tới hạ lưu, và đáng kể nhất là chuỗi những con đập bậc thềm (Mekong Cascades)
Vân Nam của Trung Quốc. Hồ chứa các con đập ấy không những chỉ giữ nước mà còn
ngăn chặn phù sa như một dưỡng chất xuống vùng châu thổ ĐBSCL. Nguồn thủy điện
cũng đưa tới kỹ nghệ hóa, đô thị hóa với trút đổ các chất phế thải xuống sông
gây ô nhiễm nguồn nước sông Mekong. (3) Còn phải kể tới kế hoạch Trung Quốc cho
nổ mìn phá các ghềnh thác khai thông lòng sông Mekong để mở thủy lộ từ Vân Nam
xuống xa tới Vạn Tượng, Trung Quốc đã làm biến dạng toàn dòng chảy, gây xói lở
trầm trọng các khu ven sông. (4) Cộng thêm những sai lầm về các kế hoạch thủy lợi
tự phát ngay nơi ĐBSCL như be bờ ngăn đập rồi tới nạn “cát tặc” ngày đêm nạo
vét lòng sông…
Tình trạng này gây thảm họa nhãn tiền: nếu lụt thì sẽ
rất lớn ngay mùa mưa, hạn hán sẽ gay gắt hơn trong mùa khô và nạn ngập mặn ngày
càng lấn sâu vào trong đất liền. Như vậy chủ yếu là do các nguyên nhân nhân
tai, nay cộng thêm với biến đổi khí hậu, El Nino… là phần thiên tai cộng thêm
vào. Không gọi đúng tên, đổ hết cho thiên tai là một thái độ chối bỏ nguy hiểm
của giới chức Việt Nam hiện nay.
*
*Trên dòng chính Mekong, Trung Quốc đã và vẫn tiếp
tục xây đập thủy điện trên thượng nguồn, Lào xây đập dưới hạ nguồn, còn Thái
Lan dẫn nước từ dòng Mekong vào ngay cả mùa khô… Trong tình hình ấy, điều ông
lo ngại nhất là gì?
-Ngô
Thế Vinh: Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ 21, sau
khi Trung Quốc hoàn tất hai con đập lớn nhất: Nọa Trác Độ (Nuozhadu) 5,850 MW
và Tiểu Loan (Xiaowan) 4,200 MW, về tổng thể Bắc Kinh hầu như đã hoàn thành kế
hoạch thủy điện của họ trên suốt nửa chiều dài con sông Lan Thương (Lancang –
tên Trung Quốc của sông Mekong). Theo Fred Pearce, Đại Học Yale, con sông
Mekong nay đã trở thành tháp nước và là nhà máy điện của Trung Quốc. Philip
Hirsch, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Sông Mekong thuộc Đại Học Sydney, nhận định:
“Hai con đập khổng lồ Nọa Trác Độ và Tiểu Loan sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy
của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam.” Chỉ với sáu con đập dòng
chính hoàn tất, Trung Quốc đã đạt được công suất 15,150 MW – nghĩa là hơn một nửa
toàn công suất tiềm năng thủy điện của con sông Lan Thương. Với tám dự án đập
còn lại, và có thể sẽ còn thêm nhiều dự án mới nữa, Trung Quốc sẽ dễ dàng dứt
điểm sớm trong vòng mấy thập niên đầu thế kỷ 21.
Chúng ta không thể chỉ dựa vào một con số 16% lượng
nước sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc, để bảo rằng ảnh hưởng chuỗi đập Vân
Nam là không đáng kể. Xây chuỗi đập Vân Nam, Trung Quốc đã khởi đầu phá hủy sự
cân bằng bền vững của toàn hệ sinh thái lưu vực sông Mekong. Dung lượng các hồ
chứa Vân Nam ngoài khả năng giữ hơn 30 tỉ mét khối nước còn chặn lại một trữ lượng
rất lớn phù sa không cho xuống tới ĐBSCL. Thiếu nước, thiếu phù sa lại thêm ngập
mặn với nước biển dâng, cả một vùng đất phì nhiêu ĐBSCL, cái nôi của một nền
văn minh miệt vườn, có tương lai trở thành một vùng đất chết do sa mạc hóa.
Điều gì đáng lo ngại nhất hiện nay? Rõ ràng Việt Nam
đã mất cảnh giác và thiếu chuẩn bị trong cuộc chiến môi sinh “không tuyên chiến”
của Trung Quốc. Lời kêu gọi Trung Quốc xả nước từ hồ chứa Vân Nam để cứu hạn
cho ĐBSCL đã nói lên tình thế bị động của Việt Nam. Lẽ ra giới lãnh đạo phải
tiên liệu nguy cơ này từ nhiều năm trước. Nay lại thêm chín dự án đập dòng
chính hạ lưu của Lào và hai của Cambodia sẽ khiến bài toán cứu nguy ĐBSCL khó
khăn và phức tạp hơn nhiều, mà Việt Nam thì chưa có một chiến lược đối phó.
*
*Hiệp Định Mekong 1995 được xem là một cơ sở kiểm
soát bảo vệ dòng Mekong, tuy nhiên Trung Quốc từ chối tham gia. Tương tự, Công
Ước Liên Hiệp Quốc 1997 về sử dụng các nguồn nước liên quốc gia, Việt Nam thuận
ký năm 2014, được biên soạn đặc biệt nhằm bổ sung và hạn chế những bất cập
trong các hiệp định lưu vực hiện có như Hiệp Định Mekong 1995, cũng thiếu tên
Trung Quốc. Trong diễn tiến đó, Trung Quốc nay lại khởi xướng một diễn đàn mới:
Hợp Tác Lancang-Mekong ra mắt Tháng Mười Một, 2015. Ông nhận định như thế nào về
cơ chế này? Cơ hội của Việt Nam cũng như các nước trên lưu vực tham gia có thể
là gì? Theo ông, liệu Trung Quốc có động cơ gì đằng sau đó không?
-Ngô
Thế Vinh: Ủy Ban Sông Mekong (MR Committee) được Liên Hiệp
Quốc thành lập từ 1957, nhưng mọi dự án phát triển hầu như bị tê liệt do cuộc
chiến tranh Việt Nam. Sau 1975, bước vào thời bình, con sông Mekong trở lại là
mục tiêu khai thác của các quốc gia trong lưu vực. Nhu cầu phục hồi một tổ chức
điều hợp liên quốc gia tương tự Ủy Ban Sông Mekong trước đây là cần thiết. Ngày
5 Tháng Tư, 1995, bốn nước hội viên gốc thuộc lưu vực hạ lưu Mekong đã họp tại
Chiang Rai-Bắc Thái, để cùng ký kết Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Hạ Lưu
Sông Mekong và đổi sang một tên mới là Ủy Hội Sông Mekong (MR Commission).
Đại diện Việt Nam đặt bút ký vào Hiệp Định Mekong
1995 là Ngoại Trưởng Nguyễn Mạnh Cầm với chấp nhận một thay đổi cơ bản trong hiệp
ước mới: thay vì như trước, mỗi hội viên trong Ủy Ban Sông Mekong (1957) có quyền
phủ quyết bất cứ một dự án nào bị coi là có ảnh hưởng tác hại tới dòng chính
sông Mekong, nay theo nội quy mới (1995), không một quốc gia nào có quyền phủ
quyết. Phát biểu trong Hội Nghị Mekong 1999 tại Nam California (Mỹ), chúng tôi
nhận định đây là khởi điểm một bước sai lầm chiến lược của Việt Nam, vì là quốc
gia ở cuối nguồn.
*
*Sáu nước lưu vực sông Mekong đang đứng trước nhiều
vấn đề bức thiết liên quan đến kinh tế, xã hội cũng như bảo tồn môi trường sinh
thái. Tuy nhiên, những khác biệt về yếu tố địa chính trị lại là rào cản không
nhỏ trong tiến trình hợp tác, và đặt ra bài toán phải giải quyết hài hòa lợi
ích của mỗi quốc gia. Theo ông, diễn biến chính trị ảnh hưởng như thế nào trong
vấn đề hợp tác vùng và phát triển vùng trên dòng Mekong? Viễn cảnh phát triển
Mekong sẽ là như thế nào trong bối cảnh biến đổi khí hậu?
-Ngô
Thế Vinh: Nhắc tới sự kiện Trung Quốc mới đây cho thành
lập khối Hợp Tác Lancang-Mekong, một cơ chế bao gồm sáu nước cùng sử dụng sông
Mekong, nhiều người vội lạc quan cho rằng đó có thể là một phương tiện tốt để
buộc Trung Quốc quan tâm nhiều hơn đến lợi ích của các nước hạ nguồn. Mối lạc
quan đó có thể đúng có thể không. Nhưng cần nhận thức rõ một điều: từ 1995,
Trung Quốc chọn đứng ngoài Ủy Hội Sông Mekong chỉ gồm bốn nước hạ lưu: Thái
Lan, Lào, Cambodia, Việt Nam. Tới nay với sáu con đập dòng chính, về tổng thể, Trung
Quốc đã hoàn tất kế hoạch thủy điện trên khúc sông Mekong 2,200 km của họ.
Nay nếu có mở ra thêm khối Hợp Tác Lancang-Mekong
thì đó cũng chỉ là một bước chiến lược của Trung Quốc, tạo cho mình một hình ảnh
hữu nghị nhưng thực tế là nhằm tăng cường ảnh hưởng đưa tới khống chế toàn bộ
lưu vực sông Mekong. Trung Quốc sẵn có khả năng kỹ thuật, có nguồn tài chính hầu
như vô hạn, Bắc Kinh thừa sức để gạt ảnh hưởng của Hoa Kỳ và Nhật Bản ra khỏi
lưu vực sông Mekong, cũng như họ đã đánh sập thế thượng phong của Đệ Thất Hạm Đội
Hoa Kỳ trên Biển Đông bằng các đảo chiếm của Việt Nam rồi mở rộng xây dựng căn
cứ quân sự trên đó.
Tương lai khối Hợp Tác Lancang-Mekong ra sao, vẫn
tùy thuộc thiện chí rất đáng ngờ của Trung Quốc. Những ai từng theo dõi cách
hành xử của Trung Quốc trong bao năm nay, cũng nhận thấy là Bắc Kinh chưa hề có
hồ sơ theo dõi tốt (good track records).
Nhưng rồi cũng phải kể tới tiềm năng “chất xám” mỗi
quốc gia thành viên khi tham dự khối Hợp Tác Lancang-Mekong, và quan trọng hơn
hết là liệu có được một mẫu số chung đoàn kết của các nước nhỏ hay không. Thiếu
một “tinh thần sông Mekong” nơi các quốc gia hạ lưu như hiện nay (vẫn cái cảnh
“đồng sàng dị mộng”), lại thêm ác ý như từ bao giờ (Trung Quốc luôn luôn chia để
trị), thì khối Hợp Tác Lancang-Mekong chỉ là chiếc dù tạo thêm ảnh hưởng quyền
lực của Trung Quốc trên mỗi quốc gia hạ nguồn.
Nếu Trung Quốc có thực tâm, phải đòi hỏi Bắc Kinh đi
đến một Hiệp Ước Lancang-Mekong theo đó mỗi quốc gia thành viên phải được tôn
trọng và đối xử bình đẳng, có thể xem đây như một Ủy Hội Sông Mekong mở rộng
bao gồm thêm Trung Quốc và Myanmar.
Điểm qua tình hình hiện nay: Thủ Tướng Cambodia
Hunsen gần như hậu thuẫn vô điều kiện chính sách của Trung Quốc; Lào thì bất chấp
mọi khuyến cáo vẫn từng bước thực hiện xây chín con đập dòng chính Mekong (đang
xây hai đập Xayaburi và Don Sahong); Thái Lan không ngừng lấy nước từ sông
Mekong cung cấp cho các vùng khô hạn của họ; Myanmar thì không phải là yếu tố
quan trọng khi chỉ tiếp cận một khúc sông Mekong vùng Tam Giác Vàng; riêng Việt
Nam gần như bị động và chưa có “một chiến lược trên bàn cờ Mekong” khi quyết định
tham dự khối Hợp Tác Lancang-Mekong.
Điều cần làm ngay, là cấp thiết di chuyển Ủy Ban
Mekong Việt Nam từ Hà Nội về ĐBSCL để cùng bắt tay hình thành một phân khoa
Mekong nơi Đại Học Cần Thơ, giúp phái đoàn Việt Nam có một hồ sơ Mekong mang
tính chiến lược, có cơ sở pháp lý khi họ tới dự những hội nghị thượng đỉnh
Mekong. Mekong Delta SOS phải là ưu tiên số một trong nghị trình của Hội Đồng
Chính Phủ, của Quốc Hội và cả của Bộ Chính Trị. Thảm họa đại hạn nơi ĐBSCL nếu
cần phải đưa ra trước Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc.
*
*Ông đánh giá thế nào về vai trò của tiếng nói cộng
đồng, các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong bối cảnh các quốc gia lưu vực sông
Mekong còn nhiều quan điểm khác biệt? Ở Việt Nam, theo ông, vai trò tiếng nói
này hiện nay thế nào, và cần như thế nào?
-Ngô
Thế Vinh: Khi nhìn chung vào lưu vực năm nước sông
Mekong hạ nguồn (thêm Myanmar), một ký giả ngoại quốc nhận xét: tiếng nói của
các cộng đồng dân sự, các mạng xã hội Việt Nam về vấn đề sông Mekong được kể là
“khá hiếm” so với những tiếng nói của cư dân Bắc Thái Lan, người dân Lào và
ngay cả dân Cambodia. Điều này hầu như lại càng rất hiếm thấy nơi cộng đồng 20
triệu cư dân ĐBSCL. Cũng dễ hiểu, đa số nông dân bị thiếu học với một nền giáo
dục thấp hơn cả Tây Nguyên, lại thêm bị bưng bít thông tin thì làm sao bảo họ
có tiếng nói ngoài thái độ cam chịu. Tiếng nói của những “tổ chức được gọi là
NGO” thì luôn luôn luôn bị nhà nước kiểm soát và định hướng, và những định hướng
thiển cận như hiện nay đã triệt tiêu mọi sáng kiến từ các nguồn trí tuệ. Nhưng
dẫu sao, quan sát từ bên ngoài, đã thấy ánh sáng cuối đường hầm, đang có những
nỗ lực tích cực từ trong nước để hình thành những cộng đồng dân sự xã hội thực
sự có tiếng nói, nhưng dĩ nhiên có một cái giá phải trả cho những bước tiên
phong ấy. Đó là một tiến trình không thể đảo nghịch và cũng đã đến lúc nhà nước
ý thức được rằng họ không thể tạo nút chặn cho cả một xu thế thời đại.
*
*Cảm nhận của ông như thế nào về vai trò của các
nhà khoa học Việt Nam hiện nay trong “bài toán” sông Mekong nói chung và ĐBSCL
nói riêng? Họ cần có “cơ chế” gì để tiếng nói thực sự đạt hiệu quả?
-Ngô
Thế Vinh: Tuy chưa có dịp được gặp hết, chúng tôi vẫn theo
dõi sinh hoạt của các nhà khoa học Việt Nam từ những năm qua. Họ đã và đang phải
làm việc trong những điều kiện vô cùng khó khăn, nhưng nỗ lực của các anh chị ấy
để cất tiếng nói bảo vệ một hệ sinh thái lành mạnh cho Việt Nam, tuy thầm lặng,
đã được nhiều người biết đến. Từ bên ngoài, chúng tôi luôn quan niệm “bài toán”
sông Mekong và cứu nguy ĐBSCL phải từ các nhà khoa học và giới trẻ trong nước.
Việt Nam không hề thiếu chất xám nhưng giới khoa học ấy không có phương tiện,
không có tự do hoạt động ngay cả trong môi trường đại học. Có thể đi tới một kết
luận: “dân chủ và môi sinh” phải là bộ đôi không thể tách rời.
Tôi cũng cho rằng, cứu vãn được nhịp đập của “trái
tim Biển Hồ” là giải pháp khả thi cứu nguy cho các vùng châu thổ Tonle Sap của
Cambodia và ĐBSCL của Việt Nam, dĩ nhiên với cái giá rất cao mà Việt Nam không
thể không hợp tác với Cambodia đầu tư vào.
*
*Ông có một kho dữ liệu quý về văn hóa, lịch sử,
môi trường… liên quan đến 4,800 km dòng Mekong, từ Tây Tạng đổ xuống Biển Đông,
nơi hơn 65 triệu cư dân sinh sống. Đó là những tư liệu chuyên ngành chẳng liên
quan gì đến nghề bác sĩ của ông cả. Nên nếu được tự nói về mình, ông nhận mình
là một bác sĩ, nhà văn, nhà báo, hay là một nhà khoa học?
-Ngô
Thế Vinh: Tốt nghiệp Y Khoa Sài Gòn năm 1968, hành nghề
y khoa trong nước rồi ra hải ngoại hơn 40 năm, y khoa đã như một phần đời sống
không dễ tách rời của tôi. Khi còn là sinh viên, tôi viết văn, làm báo, hoạt động
xã hội cùng với những người trẻ đồng trang lứa. Thế hệ chúng tôi không chỉ có học
tập mà còn rất quan tâm tới các vấn đề đất nước, riêng tôi về sau này còn có mối
quan tâm đặc biệt tới các vấn đề môi sinh, trong đó có con sông Mekong và
ĐBSCL. Cùng với Nhóm Bạn Cửu Long, chúng tôi đã thực sự khởi đầu hoạt động từ
1995, đến nay cũng đã 21 năm rồi. Tôi đã được gán cho nhiều căn cước khác nhau,
nhưng một cách khái quát, nói như ký giả Long Ân, có lẽ đúng nhất tôi chỉ là
con người xanh của môi sinh. (Lê Quỳnh)
---------------------------
Bác
Sĩ Ngô Thế Vinh:
Tốt nghiệp Y Khoa Sài Gòn, làm báo sinh viên Tình
Thương, y sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, bác sĩ nội trú các trường đại học New
York, hiện là bác sĩ điều trị tại một bệnh viện Nam California, Mỹ.
“Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” là một dữ kiện
tiểu thuyết liên quan tới môi sinh và phát triển lưu vực sông Mekong và ĐBSCL.
Nối tiếp sau đó là ký sự “Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch” ra đời; bên cạnh bản tiếng
Việt, ký sự này được dịch sang tiếng Anh, thu hút khá nhiều quan tâm của giới
khoa học, nhà báo, nhà hoạt động môi trường thế giới…
No comments:
Post a Comment