NỘI DUNG :
Nguyễn
Ngọc Trân
.
Trung
Chánh
.
Bài
và ảnh: DUY NHÂN
.
ĐÀO
TRANG - MINH TÂM - CHÂU ANH
.
============================================
Nguyễn Ngọc Trân
Thứ Hai, 23/03/2020 07:27
(Diễn đàn trí thức) - Đề xuất
của GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân về phương án giải bài toán nước ngọt cho vùng mặn
ĐBSCL.
CÔN ĐẢO VÀ BÀI
TOÁN NƯỚC NGỌT CHO VÙNG MẶN ĐBSCL
Nguyễn Ngọc Trân (1)
Tóm
tắt. Tình hình hạn mặn ở đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) xảy ra với nhịp độ ngày càng nhanh, mức độ ngày càng gay gắt đòi hỏi có
những giải pháp căn cơ. Côn Đảo cộng với công nghệ mới về năng lượng
tái tạo và về lọc nước biển thành nước ngọt là ý tưởng cho một giải
pháp mà bài viết đề xuất.
Một vòng xoáy khắc nghiệt cần cắt đứt
Chưa đến đỉnh điểm của mùa khô năm nay mà hàng vạn hộ
dân ở vùng mặn của ĐBSCL đã vô cùng lao đao vất vả vì thiếu trầm trọng nước ngọt
cho sinh hoạt.
Tính đến ngày 04.03.2020, có năm tỉnh Bến Tre, Cà
Mau, Kiên Giang, Long An và Tiền Giang đã công bố tình trạng khẩn cấp về hạn mặn.
Cà Mau lại còn phải chịu thêm sạt lở bờ biển, sụp
lún hàng trăm mét nhiều đoạn đường giao thông, đường phòng hộ ven biển, và đối
diện với nguy cơ cháy rừng U Minh.
Sụp lún đường Co
Xáng – Cơi 5 – Đá Bạc (xã Khánh Bình Tây, H. Trần văn Thời, đưa vào sử dụng được
10 năm.
Sụp lún đường phòng
hộ ven biển Huyện Trần văn Thời
Sự quan tâm của Chính phủ (2) và của lãnh đạo
các tỉnh, nghĩa đồng bào, tình quân dân, một lần nữa cho thấy sự gắn kết dân tộc.
Theo báo cáo của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO),
năm năm cuối cùng vừa qua là năm năm nóng nhất đến nay chưa bao giờ ghi nhận. (…).
Năm 2019 có thể đã là một năm kỷ lục mới nếu không có vai trò của El Nino làm
gia tăng sự nóng lên của năm 2016 (3). Nhiệt độ sẽ còn tiếp tục tăng chừng nào
các quốc gia không thực hiện nghiêm chỉnh Thỏa thuận Paris COP 21 về
giảm phát thải khí nhà kính.
Ở đồng bằng, vòng xoáy khai thác nước ngầm
- sụt lún và sạt lở - xâm nhập mặn đang mỗi ngày nhấn
chìm và mở rộng thêm vùng mặn, đã được cảnh báo từ những năm đầu của thập niên
2010 (4), tiếp tục diễn ra nhanh hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nước
biển dâng.
Ba vùng: sông chi phối (I); tranh chấp sông – biển
(II); và biển chi phối (III). Đường ranh di động.
Đảo Côn Sơn và 15
hòn hợp thành Côn Đảo, DT 76 km2 (trên). CT 60-B phân định ĐBSCL thành ba vùng
với ranh di động tùy theo tương quan giữa sông và biển (trên).
Tình hình hạn, mặn ở đồng bằng sông Cửu Long với nhịp
độ ngày càng nhanh, mức độ ngày càng gay gắt đòi hỏi những giải pháp căn cơ. Một
trong số đó là cắt đứt hoặc hãm tốc độ và cường độ của vòng xoáy này.
Bỏ xứ hay bám trụ? Điểm ngắt của vòng xoáy
Quy hoạch phát triển vùng mặn ĐBSCL như thế nào
trong bối cảnh nguồn nước từ thượng nguồn về ngày càng ít đi, mặn vào ngày càng
sâu, vùng mặn của đồng bằng ngày càng lún chìm và mở rộng vào nội địa? Đây là
câu hỏi tác giả đã đặt cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và cho Bộ Xây dựng tại cuộc họp
tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 18.06.2019 đánh giá hai năm thực hiện Nghị quyết
120 của Chính phủ.
Đã có những đề án nghiên cứu việc di dân đồng bằng
sông Cửu Long để thích ứng với biến đổi khí hậu, chỉ ra những yếu tố cần
được cân nhắc trong quá trình thiết kế các chương trình tái định để
đảm bảo thành công, và “khẳng định di cư rõ ràng đóng vai trò tích
cực trong việc giúp các cộng đồng thích nghi với biến đổi của môi
trường” (5) (6).
“Bỏ xứ” hay “bám trụ”? Nhìn lại lịch sử của đồng bằng,
tác giả không nghĩ là người dân ở vùng mặn, đặc biệt ở Cà Mau lại dễ dàng bỏ xứ
ra đi.
Nhưng để bám trụ, cần giải quyết vấn đề gì cốt tử nhất?
Không có nước ngọt cho sản xuất lúa gạo, người dân sẽ biết “xoay sở” như họ đã
từng. Họ đã chẳng tồn tại, sản xuất và có kế sinh nhai thích hợp trong môi trường
nước lợ và mặn từ nhiều thế hệ là gì?
Vấn đề thiết yếu là nước ngọt cho sinh hoạt.
Vì thế nước ngầm đã được sử dụng từ nhiều đời nay trong mùa
khô để bổ sung cho nguồn nước ngọt từ sông Tiền và sông Hậu đổ về hoặc để thay
khi nguồn nước này không đổ về tới.
Mật độ dân số ngày nay ở vùng mặn cao hơn trước nhiều.
Cái giá phải trả để đáp ứng nhu cầu nước ngọt từ nước ngầm đó là mực nước ngầm
tụt sâu và sụt lún đất (7). Giải quyết nước ngọt cho sinh hoạt,
hạn chế tối đa, tốt nhất là dừng khai thác nước ngầm có lẽ là điểm ngắt của
vòng xoáy.
Ý tưởng cho một giải pháp
Năm 1985, Phó Chủ tich Hội đồng Bộ trưởng Võ văn Kiệt
lúc bấy giờ nhắc tác giả rằng Côn Đảo tuy thuộc Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo,
nhưng khoảng cách đến đất liền Sóc Trăng ngắn nhất. Chương trình 60-02 (8)
cần quan tâm đến đảo, gắn kết Côn Đảo với đồng bằng trong phát triển kinh tế,
xã hội của vùng. Hơn cả khoảng cách địa lý, là vị trí chiến
lược của Côn Đảo ở Biển Đông! 35 năm đã trôi qua, tôi vẫn đinh ninh lời
dặn này.
Không quá xa vùng mặn, nằm giữa trùng khơi, ngập
tràn nắng, gió, bao quanh bởi dòng hải lưu, bốn bề là nước đại dương; với công
nghệ mới về năng lượng tái tạo và về lọc nước biển
thành nước ngọt; với nguồn nguyên liệu đầu vào cho điện năng và cho lọc nước
không mất tiền và hầu như vô tận, Côn Đảo là địa bàn hết sức phù hợp để
xây dựng những trung tâm năng lượng tái tạo, trước mắt là năng lượng
mặt trời và năng lượng gió, phục vụ cho những nhà máy lọc nước biển thành
nước ngọt, xây dựng gần bên cạnh, từng bước tùy theo nhu cầu và khả năng.
Tác giả cho rằng đây là ý tưởng có cơ sở cho một giải
pháp chủ động mang nước ngọt đến vùng mặn của đồng bằng!
Năng lượng gió và năng lượng mặt trời đã bắt rễ và
ngày càng mở rộng ở Việt Nam, nói riêng ở đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố
Hồ Chí Minh.
Tại hội nghị về hợp tác phi tập trung giữa Việt Nam
và Cộng Hòa Pháp, tác giả đã nêu lên nhu cầu về nước ngọt cho vùng mặn của đồng
bằng sông Cửu Long (9) và giới thiệu việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ lọc
nước biển thành nước ngọt cung ứng cho sản xuất và đời sống tại một số nước ở
vùng Địa Trung Hải và ở Israel.
3 nhà máy lọc nước
biển Ashkelon, Ashdod và Hadera ở Israel.
Các nhà máy lọc nước
biển dọc bờ biển Địa trung Hải và các công nghệ lọc được sử dụng
Nước ngọt lọc được tại Côn Đảo sẽ được chở về đất liền
trước mắt bằng tàu suốt năm, nhất là về mùa khô. Nước ngọt và nước đá (sản xuất
với điện năng tại chỗ) sẽ được cung cấp cho tàu đánh cá của ngư dân để tăng
thêm thời gian đánh bắt trên Biển Đông và Vịnh Thái Lan.
Tuy hãy còn là ý tưởng cho một giải pháp, còn cần được
cụ thể hóa bằng các bước nghiên cứu tiền khả thi và khả thi, nhưng tác giả tin
rằng giải pháp này nằm trong tầm tay của đất nước.
Vì sự phát triển bền vững của vùng mặn đồng bằng sông
Cửu Long, và của đồng bằng, tác giả mong rằng ý tưởng nêu trong bài viết này sẽ
nhận được sự quan tâm của Chính phủ, của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, của
các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài.
---------
Chú
thích:
(1) Giáo sư TsKH, Chủ nhiệm Chương trình khoa học
nhà nước Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long (1983-1990), đại biểu
Quốc hội (1992-2007), nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại QH (1997-2007)
(2) Gần đây, tại buổi làm việc với 5 tỉnh trong khu
vực ĐBSCL đã công bố tình trạng khẩn cấp về hạn mặn, Thủ tướng Chính phủ đã đồng
ý hỗ trợ kinh phí cho mỗi tỉnh 70 tỷ đồng để ứng phó hạn mặn gồm có bơm nước, nạo
vét đắp đập tạm, đào ao, kéo dài đường ống, thiết bị lọc nước và hỗ trợ người
dân.
(3)WMO Statement on the State of the Global Climate
in 2019, WMO, No 1248.
(4) Hội thảo khoa học Kết quả dự án nghiên cứu giai
đoạn 1- Sự lún đất của bán đảo Cà mau, do Bộ NNvPTNT và Đại sứ quán Vương Quốc
Na Uy tổ chức tại Cần Thơ ngày 17 tháng 6 năm 2013.
(5) UNDP Vietnam, Di cư, tái định cư và biến đổi khí
hậu tại Việt Nam 2014, undp.org/content/dam/vietnam/docs/Publications/Migration%20and%20climate%20change_BW_VN.pdf
(6) Han Entzinger, Peter Scholten, Adapting to
Climate Change through Migration: A Case Study of the Vietnamese Mekong River
Delta, 2016, Publisher IOM, được Liên minh Châu Âu tài trợ và Trường Đại học
Erasmus Rotterdam thực hiện, publications.iom.int/system/files/pdf/vietnam_survey_report_vn_0.pdf
(7) Norwegian Geotechnical Institute (NGI),
Assessment of apparent land loss in the province of Ca Mau, Vietnam, Phase 1
Report 2012, 31 December 2012. Một con số mà báo cáo đã tập hợp từ Bộ NNvPTNT
là đến năm 2012, tại tỉnh Cà Mau có khoảng 109.000 giếng nước đang hoạt động và
khai thác tổng cộng là 373.000 m3/ngày.
(8) 60-02 và 60-B là mã số của Chương trình khoa học
cấp nhà nước Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long (1983-1990)
(9) Nguyễn Ngọc Trân, Ứng phó với biến đổi khí hậu tại
đồng bằng sông cửu long. Khả năng hợp tác Việt – Pháp, 2016, Tham luận tại Hội
nghị hợp tác giữa các địa phương Việt Nam – Pháp lần 10, Cần Thơ, 15.09.2016.
--------------------------------------
Trung Chánh
Chủ nhật, 22/3/2020, 17:08
(TBKTSG)
- Trong bối cảnh xâm nhập mặn đe dọa nghiêm trọng đến nước sinh hoạt của
người dân các địa phương ven biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), một số
ý kiến đề xuất nên xây dựng các hồ chứa nước ngọt. Tuy nhiên, theo các chuyên
gia, có những yếu tố cần được xem xét, cân nhắc.
Người dân tỉnh Bến
Tre mua nước ngọt sinh hoạt từ các ghe nước. Ảnh: Trung Chánh
Địa phương muốn xây hồ chứa nước ngọt
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc mới đây đã có
buổi làm việc với các địa phương công bố tình huống khẩn cấp về hạn mặn ở ĐBSCL,
gồm Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang và Cà Mau. Tại buổi làm việc này,
ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, cho biết thời gian qua địa
phương đã thực hiện nhiều giải pháp để người dân có nước ngọt sử dụng như mở
các điểm cấp nước tập trung, kêu gọi hỗ trợ trang thiết bị trữ nước ngọt, vận
chuyển nước từ nơi khác về để cung cấp cho người dân và doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh...
Tuy nhiên, tình hình thiếu nước ngọt đối với người
dân Bến Tre vẫn khá nghiêm trọng, có đến 20.000 hộ dân đang bị ảnh hưởng. “Về
nguồn nước sinh hoạt của tỉnh hiện nay thì tất cả các nhà máy nước hầu như đều
có độ mặn trên 5 gam/lít”, ông Trọng cho biết.
Trước thực tế như trên, vị đại diện UBND tỉnh Bến
Tre kiến nghị Thủ tướng cho nghiên cứu xây dựng hồ chứa nước ngọt ở vùng Tứ
giác Long Xuyên, giống như biển hồ Campuchia, nhằm tạo thêm một hồ điều hòa, hạn
chế những đợt triều cường xâm nhập mặn cũng như bổ sung nguồn nước để “cứu”
khát các tỉnh phía Đông vùng ĐBSCL.
Mặt khác, nhằm đảm bảo trữ nước ngọt phục vụ nhu cầu
sinh hoạt của người dân vùng ven biển, ông Trọng kiến nghị Chính phủ cho Bến
Tre đầu tư thêm một hồ chứa nước ngọt với dung tích khoảng 1,5 triệu mét khối.
“Nếu có được hồ này, cả ba huyện ven biển của Bến Tre sẽ chủ động được nguồn nước
ngọt vào mùa hạn mặn”, ông Trọng nói.
Ông Phạm Vũ Hồng, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, kiến
nghị Chính phủ cho địa phương xây dựng hồ chứa nước ngọt Cửa Cạn ở huyện đảo
Phú Quốc. “Việc này chỉ cần Thủ tướng và các bộ Kế hoạch Đầu tư, Tài chính ủng
hộ cho Kiên Giang, còn chúng tôi sẽ làm việc với Ngân hàng Thế giới để thực hiện
dự án”, ông Hồng cho biết.
Ngoài ra, Kiên Giang cũng kiến nghị cho địa phương
xây dựng các hồ chứa nước ngọt vùng ven biển. “Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn nghiên cứu thêm các hồ chứa. Hiện nay chúng tôi đang khó khăn
phải chở nước từ nơi khác đến”, ông Hồng nói.
Ông Lê Văn Sử, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, nói rằng
ông đồng tình các kiến nghị nghiên cứu xây dựng hồ chứa nước ngọt ở các quy mô
khác nhau. “Tuy nhiên, về xây dựng các hồ chứa nước ngọt, ý kiến của các nhà
khoa học còn khác nhau, có ý kiến ủng hộ nhưng cũng có ý kiến băn khoăn, cho
nên, đây là vấn đề cần sớm nghiên cứu để có kết luận”, ông cho biết.
Những yếu tố cần cân nhắc
Trao đổi với TBKTSG liên quan đến những đề xuất
trên, TS. Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên thuộc trường
Đại học Cần Thơ, cho rằng việc đầu tư các hồ chứa nước ngọt theo ông là không
khả thi.
Bởi lẽ, thứ nhất, xâm nhập mặn dẫn đến thiếu nước ngọt
xảy ra ở những địa phương ven biển của ĐBSCL, trong khi cấu trúc đất ở khu vực
này này là đất pha cát, thành ra không giữ được nước thấm ra ngoài lẫn nước biển
thấm vô. “Chính yếu tố đó, nên muốn giữ được nước phải xử lý rất tốn kém”, ông
Ni nhận định.
Bằng chứng dễ nhận thấy nhất là hồ trữ nước ngọt
kênh Lấp - hồ trữ nước ngọt lớn nhất ĐBSCL - ở huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, được
đầu tư khoảng 85 tỉ đồng nhưng chỉ sau khoảng sáu tháng đưa vào sử dụng đã xảy
ra sự cố bị nhiễm mặn.
Thứ hai, các nhà máy nhiệt điện than đã hình thành ở
khu vực ven biển, cho nên cần phải đánh giá lại chất lượng không khí. Bởi, nếu
làm hồ đã rất tốn kém nhưng bị ô nhiễm từ nước mưa rơi xuống thì càng tốn kém
hơn vì phải xử lý. “Nói chung, bài toán kinh tế cần phải tính”, ông Ni nhấn mạnh.
Theo ông Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc
lập, nếu chọn phương án làm các công trình ao, hồ, hay kênh trữ ngọt cho sinh
hoạt ở vùng ven biển, có một số vấn đề cần cân nhắc.
Đầu tiên, cần rạch ròi giữa nguồn nước cho sinh hoạt
và nguồn nước cho sản xuất. Công trình trữ nước cho sản xuất khó có thể đáp ứng
tiêu chuẩn cho nước sinh hoạt vì có thể bị ô nhiễm từ các hoạt động sản xuất dẫn
đến hiện tượng phú dưỡng hữu cơ hay tích tụ độc chất vô cơ. Nước trữ trong ao,
hồ là nước tĩnh, do đó hàm lượng oxy trong nước là thấp và ít có khả năng tự
làm sạch. Do đó, phải đảm bảo cắt mọi nguồn ô nhiễm có thể có vào nguồn nước
này.
Thứ hai, cân nhắc giữa việc làm nhiều công trình nhỏ
phân tán và một công trình lớn tập trung vì khi làm công trình lớn tập trung có
thể tiện lợi cho việc quản lý, lắp đặt nhà máy xử lý nước, nhưng khoảng cách đến
nhiều người dùng nước phân bố phân tán thì có thể xa và tốn kém, làm tăng giá
thành của nước.
Thứ ba, các công trình ao, hồ, hay kênh trữ nước cần
đặc biệt tính toán đến lượng thất thoát nước. Với lượng thất thoát lớn thì đòi
hỏi ao, hồ, kênh mương đó phải đủ sâu vài mét, chứa được nhiều nước để bù bốc
hơi, thấm. Nhưng, khi đào sâu thì lại phải xem xét có chạm đến tầng sinh phèn
bên dưới hay không.
Thứ tư, do đặc điểm đất ven biển có thể có hàm lượng
cát nhiều dễ thấm, khi làm ao hồ sâu để trữ nước thì có thể gặp phải thủy cấp mặn
và có khả năng bị mặn thấm ngược vào trong, đặc biệt là khi mực nước ngọt trong
ao, hồ thấp hơn mực thủy cấp mặn xung quanh. Do đó, các công trình ao, hồ, kênh
này cần cân nhắc đến việc gia cố lòng kênh, mái kênh để chống thấm và chống mặn,
phèn xâm nhập và có thể phủ bề mặt bằng thực vật để giúp xử lý nước và giảm bốc
hơi mặt thoáng.
Lựa
chọn nào cho bài toán nước ngọt?
TS. Dương Văn Ni cho rằng cần so sánh giữa các
phương án trữ nước ngọt, bao gồm trữ ở quy mô từng hộ gia đình, quy mô nhóm cộng
đồng 10-20 hộ và quy mô rộng lớn ở từng xã/huyện, để xem xét phương án nào có
hiệu quả kinh tế hơn. “Theo truyền thống của người dân, họ đã chọn trữ ở quy mô
hộ gia đình, tức mỗi gia đình biết chính xác nhu cầu sử dụng bao nhiêu, trong
bao lâu”, ông nhận xét. Cũng theo ông Ni, việc tính toán phương án cho cho cả cộng
đồng, như quy mô trữ bao nhiêu, trong bao lâu là rất khó, nhất là trong điều kiện
thời tiết thay đổi bất thường như hiện nay.
Còn theo ông Nguyễn Hữu Thiện, cần đa dạng hóa các
phương pháp đáp ứng nhu cầu nước ngọt cho sinh hoạt của người dân ven biển.
Công trình lớn để cấp nước sinh hoạt thì phù hợp hơn đối với các đô thị vì số
người sử dụng nước nhiều, tập trung, có thu nhập cao. Thế nhưng, đối với vùng
nông thôn thì công trình lớn sẽ gặp khó khăn về chi phí do số người sử dụng
phân bố thưa thớt và thu nhập thấp.
Đối với vùng sát biển, người dân đã có kinh nghiệm
trữ nước mưa và trữ nước mặt bằng các phương tiện tại gia đình như lu, khạp, bồn
chứa, ao gia đình và điều này cần được hỗ trợ, khuyến khích. Tuy nhiên, do chất
lượng không khí ngày nay đã bị ảnh hưởng từ các nguồn khói bụi và mưa a-xít,
các cơ quan chức năng nên khảo sát chất lượng nước mưa để giúp người dân đảm bảo
an toàn.
Ngoài các biện pháp theo kinh nghiệm truyền thống,
có thể nghĩ tới các công nghệ mới ngày nay như màng lọc na-nô, thiết bị lọc nước
biển và công nghệ RO (thẩm thấu ngược), hoặc dùng các túi chứa nước ngọt. Đối với
các công trình áp dụng công nghệ cấp nước ở cấp cộng đồng, có thể nghĩ đến việc
kết hợp sử dụng năng lượng mặt trời để cấp điện cho các phương tiện này.
Ở ven biển vùng cửa sông Cửu Long như Bến Tre, Trà
Vinh có rất nhiều giồng cát có chức năng lưu trữ nước ngọt tự nhiên ở tầng nông
có độ sâu chỉ khoảng 10 mét hoặc có khi lộ thiên. Ông Thiện cho rằng khả năng
trữ nước của các giồng cát này phụ thuộc vào độ lớn của giồng cát và thảm thực
vật che phủ bên trên. Việc bảo tồn các giồng cát với chức năng trữ nước tự
nhiên sẽ rẻ hơn nhiều so với các biện pháp khác.
----------------------------------------
.
Bài và ảnh: DUY NHÂN
23-03-2020 - 07:02 AM
Dù
chưa ghi nhận trường hợp nào nhiễm dịch bệnh Covid-19 nhưng "dư chấn"
của nó đang làm vùng ĐBSCL thêm chồng chất khó khăn
Đường phố đã lên đèn mà bà Hạnh vẫn loay hoay ở chợ
đêm Bạc Liêu, chưa về nhà lo bữa cơm chiều như lệ thường. Mấy người bạn bán
hàng rong cũng vậy, họ cố nán lại để kiếm được đồng nào hay đồng đó.
Chật vật mưu sinh
Những mâm bánh nóng hổi mang ra chợ từ sáng sớm giờ
đã lạnh tanh mà chưa vơi được 1/3. Cả cái chợ đêm sầm uất ngày nào giờ người
bán nhiều hơn người mua, bàn ghế trống huơ trống hoác. Vài chủ hàng quán hiện
rõ nét đăm chiêu, ngồi lặng thinh, chẳng màng nấu nướng, cũng chẳng thèm tranh
mời khách như mọi hôm.
Thật ra thì cũng có ai đâu để mà chèo kéo. "Từ
lúc dịch Covid-19 hoành hành, người ta ngại lui tới nơi đông đúc nên buôn bán ế
ẩm quá. Tôi dọn ra bán theo thói quen chứ có bán được gì đâu, chỉ bán chút ít
cho khách lỡ đường, còn dư thì mang về ăn thay cơm chiều. Có người bán lỗ vốn
phải dẹp tiệm đi kiếm đường làm thuê để sống và trả nợ. Nhưng lúc này đâu đâu
cũng khó khăn thì biết có ai thuê?" - bà Hạnh thở dài.
Ở các khu chợ nông sản và thực phẩm, dù trời đã tối
nhưng nhiều tiểu thương vẫn chưa thu dọn về nghỉ ngơi vì hàng hóa vẫn còn đầy ắp.
Nghĩa là nồi cơm của họ cũng sẽ vơi đi.
"Buôn bán ế ẩm nên buồn và tiếc mà ngồi vậy chứ
tôi biết giờ này cũng có ai mua nữa đâu. Chỉ có mấy mươi ngày thôi mà mọi chuyện
thay đổi nhanh quá. Nếu trước khi xảy ra dịch bệnh bán được 10 phần thì bây giờ
còn 2-3 phần, càng ngày càng giảm. Giờ chưa nghĩ ra sẽ làm việc gì, chứ bán kiểu
này lỗ vốn chắc cũng chết" - chị Hương (tiểu thương bán thịt ở chợ nông sản
thực phẩm phường 2, TP Bạc Liêu) than thở.
Những người lao động tự do như ông Trần Vĩnh Phước ở
TP Cà Mau (tỉnh Cà Mau) cũng không ngoại lệ. Ông cho biết trước đây, mỗi ngày
bán được 200-300 tờ vé số, thu nhập vài trăm ngàn đồng. Từ khi dịch Covid-19
bùng phát, ông cố gắng đi xa hơn, về muộn hơn nhưng cả ngày bán không hết 100 tờ.
Thu nhập giảm sút nhưng tiền thuê nhà, điện, nước vẫn tăng đều nên cuộc sống
gia đình dần bế tắc, bắt đầu phải vay nợ.
"Do sợ dịch bệnh nên nhiều người hạn chế ra đường
làm cho các quán cà phê, quán ăn, quán nhậu... ngày càng vắng khách. Trong khi
dân bán vé số dạo như tôi thì phải dựa vào mấy chỗ này kiếm sống. Ngoài ra, thu
nhập chung của ai cũng bị ảnh hưởng nên mọi người chi tiêu tiết kiệm hơn và hạn
chế mua vé số" - ông Phước phân trần.
Chợ đêm Bạc Liêu -
nơi mưu sinh của nhiều người dân nghèo - giờ vắng vẻ bởi ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19
Khó khăn chồng chất
Không ít người dân vùng sông nước miền Tây an ủi
nhau rằng nhờ hạn hán gay gắt nên nơi đây không có đất sống cho virus corona chủng
mới.
Dù sao đó cũng là một liều thuốc tinh thần giúp người
ta lạc quan hơn, mạnh mẽ hơn để vượt qua những "cơn bão khô" đang càn
quét qua vùng đất này. Còn ở góc độ kinh tế thì rõ ràng là ĐBSCL đang khó khăn
chồng chất. Trong hoàn cảnh vừa phải căng mình chống thiên tai vừa dè chừng
thiên dịch, nếu cả hai không sớm kết thúc thì e rằng "vựa lúa miền
Tây" sẽ rất nguy nan. Mà đối tượng bị tổn thất nhiều nhất và trực tiếp nhất
không ai khác là nông dân.
Cà Mau có lẽ là địa phương bị ảnh hưởng nặng nề nhất
khu vực trong mùa hạn mặn lịch sử năm nay. Sản xuất thiệt hại, người dân nhiều nơi
không có nước sinh hoạt, cùng hàng loạt tuyến đường giao thông sụt lún nghiêm
trọng.
"Hồi đó tới giờ mới chứng kiến cảnh tượng này,
vết nứt giờ ăn sâu vào trong nhà. Thiên nhiên giờ trở chứng bất thường không biết
đâu mà lần" - ông Lê Văn Kết (lão nông ở xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần
Văn Thời, tỉnh Cà Mau) lo lắng ngôi nhà của mình có thể bị kéo xuống dòng kênh
cạn nước bất cứ lúc nào.
Bà chủ bán hàng xén Nguyễn Thị Nhung ở xã Trần Hợi,
huyện Trần Văn Thời, nhìn chiếc ghe nằm mắc cạn giữa lòng kênh trơ đáy mà hét
lên như muốn khóc: "Giờ lấy gì mà kiếm ăn đây? Trời ơi!". Còn hàng
trăm chiếc ghe hàng khác của hàng ngàn nhân khẩu sống kiếp thương hồ vẫn còn nằm
rải rác đâu đó trên các con sông đã kiệt nước của khắp vùng sông nước cũng chịu
chung số phận. Đó cũng là sinh kế duy nhất, đồng thời là nơi trú ngụ của hàng
ngàn con người phiêu dạt.
Hàng triệu lao động làm thuê khắp nơi trong nước
cùng hàng chục ngàn lao động xuất khẩu có xuất xứ miền Tây cũng đang đứng trước
nguy cơ thất nghiệp nếu dịch Covid-19 vẫn tiếp tục hoành hành. Số lao động này
nếu mất việc quay về sẽ là gánh nặng và áp lực rất lớn cho các gia đình ở nông
thôn.
"Cơn bão khô" vẫn đang càn quét vùng đất Cửu
Long và chưa thấy dấu hiệu dừng lại.
*
Cây quéo đọt, ruộng khô cằn
ĐBSCL từng chịu nhiều tổn thất từ mấy năm nay, vì lũ
về thất thường làm đảo lộn sinh kế của người dân vùng nước nổi và khiến đồng, đất
mất sức sống khi không được bồi tụ thêm lớp phù sa mới. Nước ngọt không gột rửa
được đồng bằng nên vào mùa hạn thì khô khốc, nước mặn xâm nhập sâu trong nội địa.
Những vườn cây ăn trái quéo đọt, ruộng đồng khô cằn,
nứt nẻ; lúa mùa "chạy" không kịp hạn mặn, trân mình cháy gié; người
dân một số nơi phải đi đổi từng can nước, xài chắt chiu mà vẫn khát... chính là
những hình ảnh khái quát về bức tranh của nông thôn miền Tây lúc này.
Bài
và ảnh: DUY NHÂN
------------------------------------
.
ĐÀO TRANG - MINH TÂM - CHÂU ANH
Thứ Hai, ngày 23/3/2020 – 06:30
(PL)-
Người dân nhiều tỉnh ở ĐBSCL phải bấm bụng mua nước ngọt với giá đắt đỏ để sinh
hoạt và cứu cây trồng do hạn mặn bủa vây.
Tại nhiều tỉnh ĐBSCL (như Long An, Bến
Tre, Kiên
Giang, Cà Mau), nước mặn đã
xâm nhập nghiêm trọng làm ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống sinh hoạt
của người dân. Đặc biệt, người dân phải chấp nhận mua nước ngọt với giá cao để
duy trì cuộc sống sinh hoạt và cứu cây trồng đang “chết khát”.
Bấm bụng mua nước tưới cây
Theo ghi nhận của PV, huyện Châu Thành và Cai Lậy
(Tiền Giang) được coi là thủ phủ của cây sapôchê, sầu riêng và những vườn cây
ăn trái này đang có nguy cơ bị chết vì thiếu nước ngọt.
Chỉ cần đặt chân tới hai địa phương này sẽ dễ dàng bắt
gặp tình cảnh người người, nhà nhà đổ xô đi mua nước ngọt về tưới cây. Người có
điều kiện thì chạy xe ba gác, xe tải nhỏ, người không có điều kiện thì chở các
can nước nhỏ để cứu sống từng cây trồng trong vườn.
Ông Nguyễn Phi Long, ấp Phú Thạnh, xã Phú Phong, huyện
Châu Thành, cho biết từ đầu mùa đến giờ gia đình phải mua từng khối nước để cứu
lấy vườn cây ăn trái. Để có được 2 m3 nước tưới cây thì phải tốn
hết 300.000 đồng. Dù nước ngọt đắt đỏ nhưng người dân cũng phải bấm bụng mua để
cứu vườn cây đang thiếu nước. Xót tiền mua nước, ông Long cũng đành lấy nước
còn trữ lại trong mương để tưới cây, không ngờ cây bị rụng lá và trái.
“Gia đình tôi không có thiết bị đo độ mặn, lại tiếc
chỗ nước còn sót lại trong mương nên lấy đại tưới cây, không ngờ nó rụng lá và
trái. Tôi đã nhảy xuống tắm thử thì thấy mặn chát, mặn đến con người còn không
chịu nổi thì cây chết là đúng rồi. Sapôchê là cây nuôi sống của gia đình, giá
nào tôi cũng phải cứu nó” - vừa nói ông Long vừa múc từng gáo nước đổ vào gốc
cây.
Ông Ngô Văn Sơn, ấp Phú Quới, xã Phú Phong, huyện
Châu Thành cũng cho hay năm nay hạn mặn về sớm và lâu hơn so với năm 2016.
Chính vì vậy, gia đình đã bỏ ra hơn 10 triệu đồng để mua 120 m3 nước
ngọt từ Đồng Tháp chở về để cứu vườn sầu riêng.
Những ngày qua, vườn sầu riêng lại bị khô hạn, ông
Sơn phải chạy đôn chạy đáo đi thuê ghe đưa nước về nhưng không tìm được chiếc
ghe nào. “Thời điểm hiếm nước như hiện nay thì để mua được nước đã khó nhưng để
tìm được người chở nước còn khó hơn. Nhiều khi người dân phải bấm bụng trả tiền
vận chuyển nước cao gấp ba lần giá nước” - ông Sơn buồn rầu nói.
Thế nhưng niềm vui đã đến với ông Sơn và bà con nơi
đây vì được tỉnh cho nước ngọt đem về tưới cây mà không cần trả tiền. Năm công
sầu riêng sẽ tương ứng với 28 m3 nước, chia đều trong bốn đợt,
coi như cũng cầm cự được vườn sầu riêng qua mùa hạn mặn này.
Trong khi đó, hơn 4 ha sầu riêng của gia đình ông
Nguyễn Văn Gù, ấp Phú Long, xã Phú Phong đã bị chết phân nửa. Theo ông Gù, vườn
sầu riêng của gia đình nằm xa so với trục đường chính. Để mua được nước về thì
phải trả tiền với giá rất cao, khoảng 300.000 đồng/2 m3 nước.
Dù thế, người chở nước cũng chê vì nhà ông quá xa.
“Cả vườn sầu riêng rụng lá chỉ còn cái cây trơ trụi,
trái đang tua tủa cũng bị rụng gần hết. Các mương chứa nước cũng cạn khô, cả vườn
sầu riêng bị nứt toác, có lẽ tôi mất trắng vườn sầu riêng này rồi. Nay mua được
chút nước, cũng chỉ ráng tưới sương trên bề mặt chứ có nhiều đâu mà tưới” - ông
Gù than.
Tương tự, tại tỉnh Sóc Trăng, người dân cũng phải đối
mặt với hạn mặn và có nguy cơ mất trắng lúa vụ ba.
Ông Thạch Hiền, huyện Long Phú, chua xót kể hai công
lúa ông vừa gieo sạ được hơn một tháng thì cũng là lúc hạn mặn xâm nhập. Có nước
mà không tưới được nên ông cầm chắc trắng tay vụ này.
“Không riêng gì tôi, nhiều hộ ở đây chỉ mong được vụ
ba này nhưng năm nay hạn mặn đến sớm, kênh thì nước sát đáy không có nước bơm
vô ruộng. Bây giờ thì thất bại không còn gì rồi, chi phí bỏ ra không lấy lại được”
- ông Hiền buồn rầu nói.
Giải thích lý do “xé rào” xuống giống vụ ba, ông
Nguyễn Tấn Tài, huyện Giồng Trôm, Bến Tre cho hay trước khi xuống giống, ngành
chức năng đã khuyến cáo không nên. Thế nhưng do vụ đông xuân thường cho lợi nhuận
rất cao nên ông quyết định đánh liều.
“Thấy lúa vụ ba năm ngoái làm trúng nên năm nay tôi
tiếp tục gieo sạ, nào ngờ nước mặn lên nhanh và sâu nên toàn bộ không thể ra
bông được” - ông Tài bày tỏ.
Ông Lâm Văn Vũ, Trưởng phòng NN&PTNT huyện
Long Phú, Sóc Trăng cho biết từ đầu năm đơn vị đã chủ động tham mưu cho UBND
huyện ban hành văn bản khuyến cáo bà con nông dân không sản xuất lúa vụ ba
(đông xuân). Thế nhưng vẫn có nhiều hộ bất chấp khuyến cáo của ngành chức năng
“xé rào” xuống lúa và giờ bị thiệt hại.
Chiến sĩ hải quân
giúp người dân Bến Tre chở nước ngọt về nhà. Ảnh: Đ.HÀ
Một hộ dân khơi
thông mương để chuẩn bị dự trữ nước trong mùa mưa. Ảnh: MINH TÂM
Xếp hàng dài hứng nước ngọt
Ghi nhận của PV tại huyện Gò Công Đông (Tiền Giang),
các sông, kênh mương nội đồng đều trơ cạn đáy. Có những kênh mương tưởng chừng
như đường đi bộ, nứt toác, khô cạn. Nhiều cánh đồng thu hoạch xong cũng phải
ngưng sản xuất vì thiếu nước.
Tại nhiều xã của huyện Gò Công Đông đang bị thiếu nước
sinh hoạt trầm trọng. Nguyên nhân là nước máy không đủ cung cấp cho người dân,
áp lực nước yếu. UBND huyện Gò Công Đông đã mở 53 vòi nước công cộng để người
dân đến lấy. Tuy nhiên, do trụ nước ở xa, số lượng người dân đổ về rất lớn nên
các xã chủ động đưa xe bồn tới từng ấp để thuận tiện cho dân.
Tại các điểm lấy nước miễn phí, bất kể sáng, trưa
hay chiều tối, lúc nào cũng có người xếp hàng lấy nước. Có những lúc can nước xếp
đến vài trăm mét để hứng từng giọt nước ngọt mang về.
Bà Phạm Thị Kim Anh, xã Gia Thuận, cho biết: “Chúng
tôi phải chịu cảnh mất nước gần hai tháng rồi. Ban đầu cũng dùng nước mưa, nước
tích trữ trong nhà, nào ngờ dùng hết mà vẫn chưa hết hạn mặn. Giờ đây lúc nào
tôi cũng phải đi canh nước. Có khi nước về nửa đêm cũng phải chạy đi lấy để có
nước nấu cơm và uống. Còn việc tắm giặt, rửa rau thì tất cả phải xài nước mặn,
chỉ có trẻ em được ưu tiên tắm sơ sơ nước ngọt cho khỏi bị ngứa thôi.
Ngao ngán tình cảnh xếp hàng chờ nước, ông Nguyễn
Văn Láng, xã Tân Phước, mang mấy can nước xuống lấy ở hồ nước ngọt tại xã Gia
Thuận về dùng.
“Xếp hàng đợi nước lâu lắm, nhiều khi xếp cả buổi mà
hết nước. Vì vậy, tôi mang luôn can xuống hồ mang về lắng cặn rồi dùng. Giữa thời
điểm thiếu nước như hiện nay thì có nước xài đã mừng rồi. Tôi cũng lo lắng một
ngày nước trong hồ cạn kiệt nhưng phải lo trước mắt cái đã” - ông Láng bày tỏ.
Tương tự, tại tỉnh Bến Tre, hầu hết người dân trên địa
bàn tỉnh đều bị ảnh hưởng bởi hạn mặn. Trong đó, nguồn nước sinh hoạt tại các
nhà máy nước cấp cho các hộ dân đã nhiễm mặn trên 2‰, có chỗ là 5‰.
Nhiều giải pháp cấp bách
Bà Đoàn Thị Ngọc Điệp, Phó Chủ tịch xã Phú Phong,
huyện Châu Thành, Tiền Giang, cho biết năm nay bị hạn mặn khốc liệt và kéo dài
từ trước tết Nguyên đán tới nay. Khi nhận được thông tin có nước mặn về, UBND
xã có kế hoạch và thông báo đến người dân, khuyến cáo người dân không nên tưới
cây khi nước mặn xâm nhập ở mức độ cao.
Trong đợt hạn mặn này đã có 4 ha sầu riêng bị chết,
số còn lại là rụng lá và bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trước thực trạng trên, UBND
tỉnh Tiền Giang đã mua nước về để cấp cho bà con nông dân nhằm giải cứu cây sầu
riêng. Cụ thể, từ ngày 13-3 đến nay, người dân đã đến điểm lấy nước của xã về để
giải cứu cây sầu riêng. Trong đó, ngày đầu tiên 800 m3 nước đã
kịp thời về với các vườn cây.
Hải
quân chở nước ngọt xuyên đêm cho dân Bến Tre
Đến ngày 21-3, tàu 935, Lữ đoàn 125, Bộ tư lệnh Hải
quân Vùng 2 đã chở nước ngọt chuyến thứ tám (2.000 m3) từ TP Vũng
Tàu đến cấp cho người vùng hạn mặn ở tỉnh Bến Tre.
Liên tục ngày đêm, cứ xong mỗi chuyến tàu là các
chiến sĩ vội về ngay trong đêm để kịp quay trở lại cung cấp nước cho người
dân.
Năm nay, hạn hán và xâm nhập mặn ở Bến Tre rất trầm
trọng, hàng chục ngàn hộ dân thiếu nước ngọt sinh hoạt. Tỉnh đang kêu gọi các
tổ chức, cá nhân hỗ trợ nguồn nước ngọt, dụng cụ trữ nước cho bà con. Đặc biệt
ưu tiên cho hộ nghèo, người dân sống sâu trong nội đồng, bãi ngang, vùng ven
biển, trên các cù lao, cồn...
Trong những ngày qua, Bộ tư lệnh Hải quân đã điều
các tàu chuyên dụng chở theo hàng ngàn mét khối nước ngọt đến với người dân tỉnh
Bến Tre và việc này vẫn được tiếp tục trong những ngày tới.
Đ.HÀ
|
Tương tự, ông Phạm Võ Minh Đăng, Phó Chủ tịch xã Tân
Phước, huyện Gò Công Đông, Tiền Giang, thông tin tình hình hạn mặn gay gắt
làm ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và sinh hoạt của người dân. Hạn hán kéo
dài cùng với việc xâm nhập mặn đã làm cạn kiệt nguồn nước trên các kênh mương nội
đồng. Một phần không nhỏ diện tích lúa đông xuân của xã đang thời kỳ làm đòng
đã không còn nước tưới, năng suất giảm nghiêm trọng.
Các trạm cấp nước cho hai xã Tân Phước, Gia Thuận
(huyện Gò Công, Tiền Giang) đã không đủ nước cung cấp cho nhân dân. Để giải quyết
tình thế cấp bách, UBND hai xã đã phối hợp với xí nghiệp cấp nước mở các trạm cấp
nước công cộng phục vụ nhân dân.
Điều đáng trân trọng là trong thời gian qua, một số
tổ chức, cá nhân, nhà hảo tâm… qua sự vận động của UBND xã đã dùng các phương
tiện sẵn có để chuyên chở nước sạch đến tận các ấp phục vụ miễn phí cho bà
con.
Ông Nguyễn Văn Quý, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện
Gò Công Đông, Tiền Giang, cho biết đứng trước tình hình hạn mặn, UBND huyện đã
mở 53 vòi nước công cộng. Tuy nhiên, tình hình hạn mặn có phần gay gắt hơn nên
đã mở tất cả 57 vòi nước công cộng. Đồng thời, UBND huyện đã phối hợp với xí
nghiệp cấp nước mở thêm 24 điểm cấp nước tập trung cho bà con trong mùa hạn mặn
này. Tới thời điểm này, người dân cũng đỡ phần nào khó khăn bởi nhận được sự
quan tâm của các mạnh thường quân.
Ông Bùi Trung Chỉnh, Chủ tịch UBND xã Tiên Long, huyện
Châu Thành, Bến Tre, cũng cho hay tình hình hạn mặn đã tác động trực tiếp đến
nước sinh hoạt của người dân. Hạn mặn khiến người dân lao đao vì thiếu nước để
sinh hoạt và nước tưới tiêu, tác động trực tiếp tới kinh tế người dân.
UBND xã Tiên Long đã vận động những hộ dân có điều
kiện chuyên chở thì chở nước hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn trong thời
điểm cấp bách này. Hiện UBND xã đang tiến hành khảo sát máy lọc nước mặn để
phục vụ người dân, dự kiến ít ngày nữa bà con sẽ thoát được cảnh khát nước ngọt.
“Nước
quý hơn vàng”
Gần hai tháng nay, nước máy nhiễm mặn nên tắm bị
ngứa rất khó chịu, việc nấu ăn thì dùng bình nước lọc rất tốn chi phí.
Mỗi ngày dù đã tiết kiệm tối đa nhưng gia đình tôi
mất trên 100.000 đồng để mua nước ngọt. Mỗi tháng tốn trên 3 triệu đồng, đây
là số tiền không nhỏ đối với mức sống của gia đình tôi. Nay gia đình tôi phải
xài thật tiết kiệm vì có tiền cũng chưa chắc mua được nước để dùng, nước thực
sự quý hơn vàng.
Tại trung tâm TP Bến Tre, nơi cách xa những con
sông bị nhiễm mặn cũng bị thiếu nước sinh hoạt trầm trọng. Cụ thể, tại khu vực
Bến Lở (phường 1, TP Bến Tre), giá nước ngọt dao động 100.000-300.000 đồng/m3,
tùy theo đoạn vận chuyển. Tại đây, nhiều chiếc sà lan vốn chở cát xây dựng
nay cũng được tận dụng để chở nước bán cho người dân.
Tôi được biết tại các huyện vùng nông thôn cũng có
dịch vụ cung ứng nước ngọt nhưng rất đắt. Nước được vận chuyển đến từng gia
đình có giá 150.000-350.000 đồng/m3, tùy đoạn đường vận chuyển gần
hay xa.
Ông ĐỖ PHÚC VĨNH, phường Phú
Tân, TP Bến Tre
Chủ
động ứng phó hạn mặn
Theo Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, nguồn nước
mùa khô năm 2019-2020 về vùng ĐBSCL thấp hơn nhiều
so với trung bình 10 năm gần đây. Nước về ít ngay từ đầu mùa khô, mặn bất thường
đã xảy ra sớm ngay từ đầu tháng 12 và có thể còn xảy ra những biến động bất
thường. Vì vậy, cơ quan này khuyến cáo các địa phương cần chủ động chuẩn bị
các giải pháp ứng phó, phòng, chống hạn mặn với trường hợp ở năm hạn mặn lịch
sử.
Về tình hình thiệt hại do hạn mặn năm nay, theo Bộ
NN&PTNT, đến nay toàn vùng ĐBSCL có trên 1,5 triệu ha đất lúa đã xuống giống.
Trong đó chỉ có gần 39.000 ha bị thiệt hại do hạn mặn, thấp hơn so với năm
2016 (thiệt hại hơn 405.000 ha). Thống kê số hộ gặp khó khăn về nước sinh hoạt
năm nay chỉ hơn 95.000 hộ, trong khi năm 2016 là hơn 210.000 hộ.
|
ĐÀO
TRANG - MINH TÂM - CHÂU ANH
------------------------
TIN
LIÊN QUAN
No comments:
Post a Comment