Thứ ba, 18 Tháng 2 2020 17:27
Bất chấp những tham vọng ngày càng tăng của mình về
định hình trật tự khu vực và thậm chí là trật tự toàn cầu, Bắc Kinh đang phải đối
mặt với nhiều thách thức đối với các nỗ lực quản lý kinh tế, hiện đại hóa quân
sự và ảnh hưởng chính trị vốn có thể hạn chế khả năng nước này đạt được các mục
tiêu chính sách đối ngoại.
Trong khi Bắc Kinh tìm cách sử
dụng khả năng quản lý kinh tế trong các lĩnh vực thương mại, tiền tệ và đầu tư
cơ sở hạ tầng để chuyển trọng tâm của châu Á ra xa khỏi Mỹ, thì nước này đang vấp
phải những thách thức vì thiếu tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
cách tiếp cận cũng như sự thiếu kinh nghiệm của mình. Trong lĩnh vực quân sự,
Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện một chương trình hiện đại hóa đầy tham vọng nhằm
xây dựng cái mà nước này gọi là quân đội “đẳng cấp thế giới” vào giữa thế kỷ
21, nhưng Tổng bí thư Tập Cận Bình ấp ủ việc nghiêm túc duy trì khả năng giành
ưu thế của Trung Quốc trong cuộc xung đột chống lại đối thủ có năng lực lớn.
Trong những năm gần đây Bắc Kinh sử dụng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc
(PLA) với tần suất ngày càng tăng nhằm đe dọa và ép buộc các nước láng giềng phải
chấp nhận các yêu sách chủ quyền bành trướng của nước này và nỗ lực giành quyền
lãnh đạo trong khu vực. Tuy nhiên, những quan ngại của các nhà lãnh đạo cấp cao
về năng lực thực chiến của PLA khiến họ giảm bớt mong muốn kích động một cuộc
xung đột quân sự mà có thể thu hút sự can thiệp trực tiếp của Mỹ, ít nhất là
trong tương lai gần.
Trong khi Bắc Kinh tìm cách sử
dụng khả năng quản lý kinh tế trong các lĩnh vực thương mại, tiền tệ và đầu tư
cơ sở hạ tầng để chuyển trọng tâm của châu Á ra xa khỏi Mỹ, thì nước này đang vấp
phải những thách thức vì thiếu tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
cách tiếp cận cũng như sự thiếu kinh nghiệm của mình. Trong lĩnh vực quân sự,
Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện một chương trình hiện đại hóa đầy tham vọng nhằm
xây dựng cái mà nước này gọi là quân đội “đẳng cấp thế giới” vào giữa thế kỷ
21, nhưng Tổng bí thư Tập Cận Bình ấp ủ việc nghiêm túc duy trì khả năng giành
ưu thế của Trung Quốc trong cuộc xung đột chống lại đối thủ có năng lực lớn.
Trong những năm gần đây Bắc Kinh sử dụng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc
(PLA) với tần suất ngày càng tăng nhằm đe dọa và ép buộc các nước láng giềng phải
chấp nhận các yêu sách chủ quyền bành trướng của nước này và nỗ lực giành quyền
lãnh đạo trong khu vực. Tuy nhiên, những quan ngại của các nhà lãnh đạo cấp cao
về năng lực thực chiến của PLA khiến họ giảm bớt mong muốn kích động một cuộc xung
đột quân sự mà có thể thu hút sự can thiệp trực tiếp của Mỹ, ít nhất là trong
tương lai gần.
Cuối cùng, khi Trung Quốc ngày
càng trở nên quyết đoán hơn ở bên ngoài, các nước ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương và ngoài khu vực này đã bắt đầu phản đối thứ được cho là những
nỗ lực đe dọa và can thiệp tùy tiện của Bắc Kinh. Trong vài năm qua, các nước
này đã tăng tốc các chương trình hiện đại hóa quân sự của riêng họ, tăng cường
các mối quan hệ an ninh và chia sẻ thông tin tình báo với Mỹ cũng như với nhau,
đồng thời tăng cường các cuộc triển khai quân đội ở khu vực này nhằm ngăn chặn
sự liều lĩnh hơn nữa của Trung Quốc.
Những thách thức đối với
khả năng quản lý kinh tế của nhà nước
Thách thức đầu tiên ở bên ngoài
của Bắc Kinh bắt nguồn từ những lời chỉ trích về những nỗ lực quản lý kinh tế của
họ. Tại Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Tổng Bí thư Tập Cận Bình
tuyên bố rằng kinh nghiệm của Trung Quốc “đã đưa ra một lựa chọn mới cho các nước
muốn tăng tốc độ phát triển của họ đồng thời vẫn duy trì sự độc lập của mình”.
Theo quan điểm của Bắc Kinh, mô hình kinh tế của Trung Quốc kết hợp sự phân bổ
nguồn lực hiệu quả của nền kinh tế thị trường với khả năng của nhà nước cung cấp
sự ổn định kinh tế vĩ mô và các kết quả kinh tế xã hội công bằng. Trên thực tế,
mô hình kinh tế của Trung phân bổ sai nguồn lực và bóp méo kinh tế toàn cầu.
Trong một bài viết cho tờ Đánh
giá an ninh quốc gia Texas, chuyên gia về Trung Quốc Liza Tobin lập luận rằng Bắc
Kinh coi việc mở cửa kinh tế là một quá trình “hội nhập với nền kinh tế toàn cầu
cần thiết cho sự trỗi dậy của Trung Quốc - ban đầu để có được công nghệ tiên tiến
và sự tinh thông về chuyên môn và sau đó, để định hình các quy tắc, tiêu chuẩn
và thể chế toàn cầu phù hợp với yêu cầu chiến lược của Trung Quốc”. Bắc Kinh
tìm cách định hình lại việc quản lý kinh tế toàn cầu thông qua việc tham gia
các thể chế quốc tế hiện tại như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới
(WB), đồng thời thành lập và tài trợ cho các tổ chức khu vực do Trung Quốc lãnh
đạo (chẳng hạn như Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á và Diễn đàn Hợp tác
Trung Quốc-châu Phi) vốn mang lại không gian cho Trung Quốc phát huy vai trò
lãnh đạo. Bắc Kinh cũng muốn có vai trò lớn hơn trong việc tự thiết lập các quy
tắc toàn cầu, đặc biệt là trong “các lĩnh vực mới nổi như không gian mạng, biển
sâu, các vùng cực, và không gian vũ trụ”.
Thúc đẩy “Mô hình Trung
Quốc” thông qua sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI)
Ảnh hưởng kinh tế ngày càng
tăng và chính sách đối ngoại ngày càng quyết đoán của Trung Quốc đang thu hút
ngày càng nhiều sự chú ý đối với khả năng quản lý kinh tế của nước này, trong
đó BRI - dự án kinh tế và chính sách đối ngoại đặc trưng của Tổng Bí thư Tập Cận
Bình - có lẽ là ví dụ dễ thấy nhất. Ngoài việc tìm kiếm lợi ích kinh tế, Bắc
Kinh coi dự án này là phương tiện để sửa đổi trật tự chính trị và kinh tế toàn
cầu sao cho phù hợp hơn với lợi ích của mình. Sáu năm sau khi BRI được thực hiện,
các nước trên thế giới có phản ứng lẫn lộn. Nhiều nước chào đón sáng kiến này
là do các cam kết tài chính tương đối lớn của Trung Quốc, tuy vậy có một số nước
ngày càng lo ngại về tính minh bạch, tính bền vững của các khoản nợ và tác động
của các dự án thuộc BRI đối với môi trường, cũng như những tác động chiến lược
của nó đối với lợi ích chính trị, kinh tế và an ninh của họ. Đáng chú ý, trong
năm 2018, các nhà lãnh đạo ở Malaysia, Maldives và Pakistan đã lên cầm quyền bằng
cách lợi dụng sự lo ngại của công chúng về các dự án đầu tư do Trung Quốc tài
trợ, và kể từ khi nhậm chức đã đình chỉ hoặc hủy bỏ một số dự án nổi bật thuộc
BRI. Tuy nhiên, những thất bại này đã không khiến sáng kiến BRI bị phủ nhận
hoàn toàn. Trong nhiều trường hợp, các nước chủ nhà đang trên đà tiếp tục thực
hiện các dự án đã bị đình chỉ hoặc thậm chí bị hủy bỏ sau khi đàm phán lại các
thỏa thuận với Bắc Kinh.
Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Ấn
Độ và Nhật Bản cũng đã bày tỏ sự quan ngại về BRI. Chẳng hạn, Ấn Độ chủ yếu phản
đối BRI xoay quanh Hành lang kinh tế Trung Quốc-Pakistan chạy qua khu vực tranh
chấp Kashmir. Trong bài phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức hợp tác Thượng
Hải được tổ chức vào tháng 6/2019, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi cho biết Ấn Độ chỉ ủng hộ các
dự án kết nối vốn dựa trên sự “tôn trọng chủ quyền, sự toàn vẹn khu vực, quản
lý tốt, minh bạch và đáng tin cậy”. Tháng 4/2018, một tờ báo kinh tế của Đức có
tên Handelsblatt đã đưa tin rằng 27/28 đại sứ EU tại Bắc Kinh đã ký một báo cáo
nội bộ của EU tuyên bố BRI “đi ngược lại chương trình nghị sự của EU về tự do
hóa thương mại và thúc đẩy cán cân sức mạnh theo hướng có lợi cho công ty Trung
Quốc được trợ cấp”.
Đã xuất hiện một phản ứng chính
sách trên khắp EU: tháng 9/2018, EU đã công bố một chiến lược mới nhằm cải thiện
các liên kết giao thông, năng lượng và kỹ thuật số giữa châu Âu và châu Á.
Trong khi chiến lược của EU tìm cách phân biệt cách tiếp cận của mình với BRI
thông qua việc đặt trọng tâm vào tính bền vững và tôn trọng hệ thống quốc tế dựa
trên các quy tắc, nó cũng duy trì sự can dự với Trung Quốc bằng cách nêu bật sự
phối hợp có thể có giữa BRI và các dự án kết nối châu Âu, phản ánh các mức độ ủng
hộ khác nhau của các nước châu Âu dành cho BRI
Những quan ngại về sự can dự
kinh tế quốc tế ngày càng tăng của Trung Quốc vượt ra ngoài khuôn khổ BRI. Chiến
lược kết nối của EU xuất hiện ngay sau một nỗ lực riêng biệt nhằm thúc đẩy việc
thông qua một khuôn khổ sàng lọc đầu tư nước ngoài của EU nhằm phản ứng trước
những quan ngại xung quanh đầu tư của Trung Quốc vào các lĩnh vực chiến lược của
châu Âu. Tháng 3/2019, Ủy ban châu Âu đã công bố một văn bản quan trọng về quan
hệ EU-Trung Quốc, tuyên bố Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh kinh tế trong việc
theo đuổi vị trí đứng đầu về công nghệ, và “một đối thủ mang tính hệ thống thúc
đẩy các mô hình quản trị thay thế”. Văn kiện này kêu gọi các nhà lãnh đạo châu
Âu tìm kiếm “mối quan hệ kinh tế cân bằng và có qua có lại hơn” với Trung Quốc
bằng cách có lập trường cứng rắn hơn trong các lĩnh vực thương mại song phương
then chốt đồng thời lưu ý đến các lĩnh vực hợp tác tiềm năng.
Một lĩnh vực đang ngày càng gây
quan ngại là khả năng các dự án BRI khiến các nước tham gia phải gánh chịu các
khoản nợ không bền vững. Nhiều nước nhận được các khoản vay từ Trung Quốc cũng
nhận được tài trợ ưu đãi từ Hiệp hội phát triển quốc tế của Ngân hàng thế giới
(IDA) và một số nước đã nhận được khoản giảm nợ thông qua IMF và Sáng kiến quốc
gia nghèo mắc nợ cao của Ngân hàng thế giới và các chương trình Sáng kiến giảm
nợ đa phương có liên quan. Tại thời điểm đàm phán về việc giảm nợ, các giám đốc
điều hành của IDA quan ngại về nguy cơ “ngồi không hưởng lợi”, được định nghĩa
là các tình huống trong đó các khoản giảm nợ hoặc trợ cấp của IDA có khả năng
trợ cấp chéo cho những bên cho vay mà cung cấp các khoản vay không ưu đãi cho
các nước nhận”, đặc biệt là ở “các nước nhận tài trợ giàu tài nguyên có thể dựa
vào các khoản vay không ưu đãi được thế chấp bằng các khoản thu xuất khẩu trong
tương lai”. Việc Trung Quốc thiếu minh bạch trong việc cho vay của họ làm gia
tăng các mối quan ngại về việc Trung Quốc không chỉ ngồi không hưởng lợi trên
các nỗ lực giảm nợ quốc tế trước đây mà còn có khả năng làm tăng nguy cơ các nước
có thu nhập thấp lâm vào tình thế khó khăn về nợ, thỏa hiệp về tác động và đóng
góp của các khoản cho vay ưu đãi của IDA để đạt được các mục tiêu giảm nghèo và
tăng trưởng ở các nước nghèo nhất.
Để đối phó với việc đẩy lùi
BRI, Bắc Kinh đã suy nghĩ lại về cách lựa chọn, thực hiện và trình bày các dự
án BRI trước cử tọa ở nước ngoài. Kinh tế giảm tốc, căng thẳng thương mại đang
diễn ra với Mỹ và dự trữ ngoại hối suy giảm trong những năm gần đây đang kìm
hãm khả năng của Trung Quốc trong việc tài trợ cho BRI. Bắc Kinh nhận thấy họ
không đủ khả năng để tiếp tục tạo ra các khoản đầu tư không khả thi về mặt tài
chính và gây ra những tổn hại về uy tín. Do đó, theo tin tức truyền thông vào
tháng 6/2018, Bắc Kinh đã bắt đầu đánh giá liên ngành về số lượng và điều khoản
của các thỏa thuận thuộc BRI.
Tại Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc
tế “Vành đai và Con đường” lần thứ hai vào tháng 4/2019, Tổng Bí thư Tập Cận
Bình đã tìm cách xây dựng lại hình ảnh toàn cầu mờ nhạt của BRI sau các vụ bê bối
nổi bật bằng cách hứa hẹn về “các dự án mở, xanh và sạch”. Những phát ngôn
chính thức tại diễn đàn đã lặp lại giọng điệu và sự phô trương của diễn đàn đầu
tiên vào năm 2017, nhưng đã điều chỉnh thông điệp và nội dung để giải quyết các
mối quan ngại quốc tế. Diễn đàn thứ hai đã công bố nhiều sáng kiến nhằm cải thiện
tính bền vững về môi trường của các dự án thuộc BRI, gồm có chương trình đào tạo
cán bộ môi trường ở các nước tham gia BRI, thiết lập khuôn khổ đánh giá bền vững
nợ và các hội thảo về chống tham nhũng và liêm chính trong kinh doanh. Các cơ
quan Trung Quốc cũng đã ký một số thỏa thuận song phương nhằm cải thiện tính
minh bạch như hợp tác về kiểm toán giữa Bộ Tài chính Trung Quốc và các cơ quan
quản lý tại Malaysia và Nhật Bản.
Tại diễn đàn BRI lần thứ hai,
Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc Dịch Cương đã tìm cách giải quyết những
lo ngại về rủi ro tài chính của các khoản cho vay trong BRI, nói rằng Trung Quốc
cần “đánh giá một cách khách quan vấn đề nợ của các nước đang phát triển, và
xem xét khả năng trả toàn bộ nợ của một nước”. Trong năm 2018, Bắc Kinh đã hỗ
trợ giảm nợ cho một số nước tham gia BRI, bao gồm các khoản xóa nợ, hoãn nợ và
tái cấp vốn. Giám đốc Sáng kiến nghiên cứu Trung Quốc-châu Phi Deborah
Brautigam thuộc Đại học Johns Hopkins lưu ý rằng Trung Quốc chỉ xóa nợ “đối với
các khoản cho vay không lãi suất của Chính phủ Trung Quốc đáo hạn vào cuối
năm”, trong đó có “một phần khá khiêm tốn những khoản tài trợ của Trung Quốc ở
châu Phi”. Tháng 1/2019, Trung Quốc đã đồng ý hoãn khoản nợ không lãi suất trị
giá 78,4 triệu USD của Cameroon. Tháng 4/2019, Chính phủ Ethiopia tuyên bố
Trung Quốc hủy các khoản cho vay không lãi suất vốn đã tới hạn vào cuối năm
2018, mà không nêu cụ thể số tiền; Trung Quốc đã đồng ý hủy các khoản vay đó
vào năm 2018 để gia hạn thời gian trả nợ cho các khoản vay của Ethiopia trong một
dự án đường sắt lớn.
Trong nỗ lực chống tham nhũng đối
với các dự án thuộc BRI, vào tháng 7/2019, Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương
Trung Quốc đã công bố kế hoạch đưa các sĩ quan của mình đến các nước có các dự
án lớn thuộc BRI để theo dõi hoạt động của các công ty Trung Quốc ở nước ngoài.
Hành động này diễn ra sau khi xuất hiện những thông báo của Cơ quan quản lý tài
sản sở hữu nhà nước vào tháng 7/2018 và tháng 6/2019 yêu cầu các doanh nghiệp
nhà nước tăng cường giám sát các đơn vị và nhân viên ở nước ngoài. Vẫn còn phải
xem liệu việc các quan chức Trung Quốc lại đặt trọng tâm vào tính minh bạch,
tính bền vững của nợ và tính bền vững về môi trường có dẫn đến một sự điều chỉnh
tiến trình đáng kể hay không. Tuy nhiên, xét tới những lợi ích chiến lược của
mình trong BRI, Bắc Kinh dường như không thể tiến xa hơn các điều chỉnh chiến
thuật đối với sáng kiến này.
Những hạn chế đối với việc
định hình các quy tắc thương mại đa phương và thúc đẩy đồng nhân dân tệ
Ngoài đầu tư cơ sở hạ tầng,
Trung Quốc tìm cách tận dụng ảnh hưởng kinh tế trong các lĩnh vực thương mại,
tiền tệ và thanh toán để thách thức tính ưu thế của các hệ thống tài chính mà Mỹ
chi phối. Trong lĩnh vực thương mại, Bắc Kinh đã tìm cách định hình các quy tắc
thương mại đa phương, nhưng việc các nước khác tham gia các diễn đàn đa phương
đã làm giảm khả năng của Trung Quốc tạo ra các ưu đãi thương mại. Trong phiên
điều trần trước ủy ban, Giám đốc Sáng kiến chiến lược Trung Quốc thuộc Viện
Brookings Rush Doshi đã mô tả cách Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực
(RCEP) minh họa cho “cả tham vọng xây dựng trật tự Trung Quốc lẫn sự kháng cự của
châu Á, cũng như cách chương trình nghị sự của Trung Quốc có thể bị ngừng lại
khi nó được đa phương hóa”. Tham vọng lãnh đạo RCEP của Trung Quốc đã gặp phải
những trở ngại từ các nước trong khu vực, đặc biệt là Úc, Ấn Độ và Nhật Bản. Chẳng hạn,
Ấn Độ đã miễn cưỡng cấp cho Trung Quốc các điều khoản nhập khẩu giống như các
nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, vì lo ngại hàng hóa Trung Quốc ồ ạt
chảy vào làm gia tăng thâm hụt thương mại đáng kể với Trung Quốc.
Chính phủ Trung Quốc tiếp tục
thúc đẩy việc quốc tế hóa đồng nhân dân tệ để giảm sự phụ thuộc vào đồng USD đồng
thời tăng cường ảnh hưởng kinh tế của mình, nhưng những nỗ lực này cho đến nay
đã có những kết quả hạn chế bởi Bắc Kinh không sẵn sàng tự do hóa tài khoản vốn
của nước này. Theo Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu
(SWIFT), mặc dù đã trở thành một đồng tiền dự trữ của thế giới vào năm 2016,
nhưng việc đồng nhân dân tệ được sử dụng ở phạm vi quốc tế vẫn còn hạn chế;
tính đến tháng 4/2019, đồng nhân dân tệ chiếm chưa đến 2% trong tất cả các khoản
thanh toán toàn cầu. Trung Quốc đã thực hiện các cuộc xâm nhập lớn hơn cấp khu
vực - vào năm 2017, 40% thanh toán giữa Trung Quốc và các nước ở khu vực châu
Á-Thái Bình Dương đã được thực hiện bằng đồng nhân dân tệ, tăng từ chỉ 7% trong
năm 2012.
Trung Quốc đã tìm cách tăng cường
quốc tế hóa đồng nhân dân tệ thông qua BRI, các cuộc hoán đổi tiền tệ song
phương, những thỏa thuận với các ngân hàng trung ương nước ngoài và sử dụng
Hong Kong làm trung tâm trao đổi đồng nhân dân tệ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc quốc tế hóa đồng nhân dân tệ và tạo ra một hệ thống thay thế SWIFT, năm
2015 Bắc Kinh đã ra mắt Hệ thống thanh toán quốc tế xuyên biên giới (CIPS), hệ
thống nhắn tin và thanh toán liên ngân hàng của riêng mình. Trong khi các giao
dịch CIPS đang gia tăng nhanh chóng (tăng 80% so với năm 2017 lên 3.770 tỷ USD
trong năm 2018), nhưng nó không thể cạnh tranh được với SWIFT, hàng ngày vốn xử
lý các giao dịch trị giá 5.000-6.000 tỷ USD. Tuy nhiên, tiến sĩ Doshi đánh giá
CIPS “không chỉ bảo vệ Trung Quốc khỏi sức ép về tài chính mà còn tăng quyền tự
chủ, giúp nước này kiểm soát tất cả các thông tin truyền qua mạng lưới của
mình, sức mạnh để giúp các nước khác né tránh các biện pháp trừng phạt và khả
năng một ngày nào đó sẽ cắt đứt khỏi hệ thống sử dụng đồng nhân dân tệ”. CIPS
đã hấp dẫn các ngân hàng ở các nước bị Mỹ trừng phạt, chẳng hạn như Nga và Thổ
Nhĩ Kỳ, những nước đã tìm cách giảm sự phụ thuộc vào đồng USD.
Những nỗi lo sợ về một
quân đội chưa được thử thách
Thách thức lớn thứ hai mà Bắc
Kinh phải đối mặt để đạt được các mục tiêu chính sách đối ngoại xuất phát từ những
mối quan ngại của các nhà lãnh đạo về năng lực của quân đội chưa được thử thách
của Trung Quốc. Trung Quốc đã không tham gia các hoạt động quân sự có quy mô kể
từ cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979 và các nhà lãnh đạo Trung Quốc kể từ thời điểm
đó đã bày tỏ quan ngại về khả năng PLA có thể thắng một kẻ thù trong cuộc xung
đột quân sự hiện đại. Bốn thập kỷ nỗ lực hiện đại hóa PLA đã tạo ra một kho vũ
khí ấn tượng gồm các tàu, máy bay, tên lửa tiên tiến, các năng lực không gian
và không gian mạng mà trong một số trường hợp cạnh tranh được với các năng lực
của Mỹ.
Tuy nhiên, các thế hệ lãnh đạo
Trung Quốc kế tiếp nhau đã lưu ý một số khiếm khuyết trong năng lực tác chiến của
PLA, nhiều trong số đó dường như không được cải thiện đáng kể so với Mỹ hoặc thậm
chí là so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực của Trung Quốc. Tổng Bí thư
Tập Cận Bình là người chỉ trích năng lực chiến đấu của PLA hơn bất cứ nhà lãnh
đạo Trung Quốc nào gần đây, công khai chỉ trích các nhà lãnh đạo quân sự vì một
loạt khiếm khuyết làm suy yếu năng lực chiến đấu và giành chiến thắng của PLA
trong một cuộc chiến tranh hiện đại. Dù PLA dường như tăng cường nỗ lực cải thiện
các khả năng và năng lực của mình, nhưng sau 6 năm nỗ lực, nhiều khiếm khuyết vẫn
còn đó, với một số có khả năng còn trầm trọng hơn bởi việc Tổng Bí thư Tập Cận
Bình tiến hành tái cơ cấu PLA. Đặc biệt, những vấn đề này tập trung vào những
điểm yếu trong các năng lực chiến đấu chung của PLA và khả năng tạo ra một đội
ngũ sĩ quan có năng lực thông qua hệ thống đào tạo và huấn luyện quân sự.
Những mối quan ngại về
năng lực của PLA
Những mối quan ngại của các nhà
lãnh đạo ĐCSTQ về năng lực chiến đấu của PLA tập trung vào việc thiếu kinh nghiệm
chiến đấu gần đây của lực lượng này. Năm 2009, không lâu trước khi được thăng cấp
vào Quân ủy trung ương, Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương hiện tại Trương Hựu Hiệp
- bản thân ông là một cựu chiến binh từng tham gia cuộc chiến xâm lược Việt Nam
- đã lưu ý rằng PLA thiếu kinh nghiệm chiến đấu và có khả năng đã tụt hậu so với
các đối thủ cạnh tranh, cảnh báo rằng “khoảng cách giữa PLA và các quân đội nước
ngoài đang tăng lên từng ngày”. Trong phiên điều trần trước ủy ban kiểm tra
kinh tế và an ninh Mỹ-Trung của Quốc hội Mỹ, Dennis Blasko, cựu tùy viên quân sự
Mỹ ở Bắc Kinh, đã lập luận rằng trong những năm gần đây, tần suất chỉ trích PLA
thiếu kinh nghiệm tác chiến và tư duy chiến đấu đã tăng lên. Chẳng hạn, trong
khi thuật ngữ “căn bệnh thời bình” đã được sử dụng trong các phương tiện truyền
thông Trung Quốc ngay từ đầu những năm 1980, thì các tài liệu tham khảo về nó
và các thuật ngữ liên quan như “thói quen xấu thời bình” đã tăng vọt trong những
năm gần đây, với các thuật ngữ xuất hiện khoảng 565 lần trên tờ Nhật báo Quân
giải phóng nhân dân trong giai đoạn từ năm 2012 đến giữa năm 2018. Năm 2018, có
thể một phần để nhấn mạnh sự nghiêm túc của ông trong việc loại bỏ các thông lệ
này khỏi PLA, Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã ban hành lệnh hàng năm của PLA chỉ đạo
bắt đầu chu kỳ huấn luyện quân sự trong năm đó - lần đầu tiên một Chủ tịch Quân
ủy trung ương trực tiếp ban hành lệnh kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa. Sử dụng ngôn ngữ tương tự như bài diễn văn năm 2018 của mình,
năm 2019 Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã chỉ thị cho PLA “sửa chữa những sai lầm thời
bình” trong nỗ lực đào tạo của mình, cho thấy bản chất dai dẳng của các vấn đề
đã tồn tại 6 năm trong nhiệm kỳ Chủ tịch Quân ủy trung ương của ông.
Các mối quan tâm của Bắc Kinh về
năng lực của PLA cũng đã được thể hiện trong những lời phê bình gay gắt mà Tổng
Bí thư Tập Cận Bình và các nhà lãnh đạo quân sự cấp cao đã nhắm vào khả năng sẵn
sàng chiến đấu của PLA và khả năng chỉ huy của đội ngũ sĩ quan thuộc lực lượng
này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc kể từ Đặng Tiểu Bình đã chỉ trích PLA vì không
chuẩn bị đầy đủ để chiến đấu trong một cuộc chiến tranh hiện đại, với các nhà
lãnh đạo hàng đầu không tán thành “2 hạn chế năng lực” của lực lượng, mà cho rằng
PLA không đủ năng lực chiến đấu và các sĩ quan của họ không đủ khả năng chỉ huy
trong một cuộc chiến hiện đại. Kể từ khi Tổng Bí thư Tập Cận Bình đảm nhận chức
Chủ tịch Quân ủy trung ương, ông đã dùng một số cách thức mới để gia tăng sự chỉ
trích trước đó đối với PLA mà gây nghi vấn về năng lực chiến đấu và giành chiến
thắng của PLA trong một cuộc xung đột chống lại kẻ thù hiện đại, có năng lực. Nổi
bật nhất trong những chỉ trích này là cái gọi là “5 hạn chế năng lực” – đề cập
đến việc có quá nhiều sĩ quan PLA thiếu năng lực đánh giá hiệu quả tình hình
quân sự, hiểu về mệnh lệnh, đưa ra các quyết định tác chiến, chỉ đạo quân chiến
đấu và xử lý các diễn biến không lường trước được trên chiến trường.
Những nỗ lực của PLA nhằm cải
thiện nội dung và thực tế của các cuộc tập trận và đào tạo sĩ quan dường như
không giải quyết được các vấn đề này. Trong phiên bản đường lối chỉ đạo huấn
luyện chính thức gần đây nhất, được ban hành vào năm 2018, PLA nhấn mạnh đến việc
chiến đấu thực tế và huấn luyện chung trong tất cả các lĩnh vực chiến tranh
trong khi nêu rõ những thiếu sót về chỉ huy có đặc trưng là “căn bệnh thời
bình” và “5 hạn chế năng lực”. Sau khi triển khai những đường lối chỉ đạo mới
này, mỗi quân chủng tổ chức các sự kiện luấn luyện tập trung vào việc khắc phục
những khiếm khuyết này và kiểm tra kiến thức của các sĩ quan về nhiệm vụ, kịch
bản tác chiến và mức độ hiểu được ý định của cấp trên.
Theo tính toán của Alastair
Iain Johnston, giáo sư nghiên cứu về chính phủ thuộc Đại học Harvard, bất chấp
những nỗ lực này, những đề cập đến “5 hạn chế năng lực” trên báo chí PLA đã
tăng vọt kể từ khi cụm từ này lần đầu xuất hiện vào năm 2015, tăng gấp đôi từ
40 lần đề cập đến trên tờ Nhật báo Quân giải phóng nhân dân trong năm 2016 lên
gần 80 lần trong năm 2018. Đề cập chung chung của cụm từ chỉ trích năng lực của
PLA đã tăng từ dưới 20 lần trong năm 2012 lên gần 150 lần trong năm 2018. Theo
Blasko, một chức năng tự phê bình quan trọng của PLA - chức năng xác định các vấn
đề - là một phần của các nỗ lực hiện đại hóa lực lượng trong dài hạn. Tuy
nhiên, ông lưu ý rằng phạm vi và tần suất ngày càng tăng của các bài phê bình
này dưới thời Tổng Bí thư Tập Cận Bình thực sự “khiến người ta nghi ngờ về việc
các nhà lãnh đạo cấp cao của đảng và quân đội tin tưởng vào khả năng thắng thế
của PLA trong cuộc chiến chống lại kẻ thù hiện đại”.
Sự phản đối các hoạt động
can thiệp của Trung Quốc
Thách thức thứ ba đối với tham
vọng của Trung Quốc ở nước ngoài xuất phát từ việc cộng đồng quốc tế ngày càng
phản đối các hoạt động can thiệp và gây ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong những
năm gần đây, một số nước từ châu Á đến châu Âu và Tây bán cầu đã nhận ra bản chất
cưỡng chế của các hoạt động gây ảnh hưởng cũng như những nỗ lực “sức mạnh cứng”
khác của Trung Quốc và đã bắt đầu thực hiện những bước đi để chống lại điều mà
họ coi là các yếu tố đe dọa của các hoạt động này. Các thành viên của EU và
Liên hợp quốc cũng đã thực hiện các bước đi tương tự để hạn chế nỗ lực của Trung Quốc nhằm thay đổi các tiêu chuẩn quốc
tế.
Sự gia tăng phối hợp giữa
các đồng minh Mỹ
Trong vài năm qua, các đồng
minh và đối tác của Mỹ trên toàn cầu đã thực hiện những bước đi quan trọng để vạch
trần và chống lại các hoạt động gây ảnh hưởng của Trung Quốc. Giám đốc phụ
trách các vấn đề an ninh chính trị tại Viện Chính sách xã hội châu Á Lindsey
Ford đã trình bày trước Ủy ban kiểm tra kinh tế và an ninh Mỹ-Trung của Quốc hội
Mỹ rằng “các nước như Úc và New Zealand bày tỏ quan ngại về việc Trung Quốc sử dụng các mối quan
hệ để tạo ảnh hưởng đòn bẩy cho các cộng đồng tinh hoa chính sách, chuyên gia
và cộng đồng doanh nghiệp gây sức ép chính trị và định hình các cuộc tranh luận
về chính sách trong nước”. Một thành phần chính trong phản ứng của các nước này
là hành động của nhóm các nước chia sẻ thông tin tình báo “Five Eyes” - gồm Mỹ,
Úc, Canada, Anh và New Zealand - chống lại các nỗ lực gây ảnh hưởng của
Trung Quốc thông qua việc tăng cường chia sẻ thông tin tình báo, cải thiện giao
tiếp với công dân của họ về các hoạt động gây ảnh hưởng của Trung Quốc và tăng
cường chia sẻ thông tin với các đối tác không thuộc nhóm “Five Eyes”. Vào tháng
8/2018, trong một sự ám chỉ rõ ràng liên quan đến Trung Quốc, các nước “Five
Eyes” đã đưa ra một tuyên bố lên án “các hoạt động cưỡng chế, lừa đảo và bí mật
của các chính phủ, các bên tham gia nước ngoài và các bên ủy nhiệm của họ để
gây bất hòa, thao túng dư luận, gây ảnh hưởng đến việc phát triển chính sách,
hoặc phá vỡ các thị trường với mục đích làm suy yếu các quốc gia và đồng minh của
chúng ta”. Đầu năm 2018, các nước “Five Eyes” đã bắt đầu chia sẻ thông tin về
các hoạt động gây ảnh hưởng của Trung Quốc với Nhật Bản, Đức và Pháp để thúc đẩy
hợp tác lớn hơn. Các nước EU cũng đã bắt đầu bày tỏ mối quan ngại về những nỗ lực
của Trung Quốc.
Chống lại sức mạnh cứng
Cuối cùng, các hoạt động quân sự
quyết đoán của Trung Quốc ở biển Hoa Đông và Biển Đông đã gây ra phản ứng dữ dội
ở các nước trong khu vực. Nhiều quốc gia Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã nỗ lực
chống lại các hoạt động của Trung Quốc trong khu vực thông qua tăng cường xây dựng
quan hệ đối tác, hiện đại hóa quân sự và tăng cường hợp tác quân sự với các nước
ngoài khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Tăng cường xây dựng quan
hệ đối tác
Trong bài phát biểu vào tháng
11/2018, Tư lệnh Bộ chỉ huy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Philip Davidson xác định
xây dựng quan hệ đối tác hàng hải là một cách để đảm bảo một Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương tự do và cởi mở đồng thời giúp các nước chống lại những hoạt động và
ảnh hưởng xấu của Trung Quốc ở khu vực này. Úc, Singapore, Nhật Bản, Việt Nam và Ấn Độ là một
vài trong số các nước trong khu vực đã thực hiện các bước đi mở rộng quan hệ đối
tác và đối trọng lại sự hiện diện đang ngày càng mở rộng của Trung Quốc.
Úc: Để chống lại sự hiện diện khu vực ngày càng tăng
của Trung Quốc, đặc biệt là ở châu Đại Dương, Úc đã tìm cách tăng cường các mối quan hệ an ninh.
Tháng 7/2019, Bộ trưởng Quốc phòng Úc Linda Reynolds đã chỉ ra rằng Canberra sẽ tăng
cường các kế hoạch chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực bằng cách lập
ra một đơn vị quân sự mà sẽ tăng cường năng lực, khả năng phục hồi và khả năng
tương tác với các đối tác của Úc ở Thái Bình Dương. Đơn vị này sẽ tập trung vào việc
tiến hành các hoạt động an ninh, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa và gìn giữ
hòa bình trong khu vực. Ngoài việc thiết lập đơn vị này, Úc cũng đang theo đuổi và duy trì
mối quan hệ an ninh với một số nước láng giềng ở Thái Bình Dương, trong đó có
Vanuatu, Fiji và Quần đảo Solomon. Ngoài ra, Canberra đã hợp tác với Washington
để xây dựng một căn cứ hải quân ở Papua New Guinea như nỗ lực một phần làm suy
giảm ảnh hưởng đang gia tăng của Bắc Kinh ở nước này và là một cách ứng phó với
việc Bắc Kinh theo đuổi xây dựng một căn cứ ở Vanuatu.
Singapore: Singapore tìm kiếm sự ổn định ở
Biển Đông và ủng hộ chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở của Mỹ.
Dù duy trì mối quan hệ cân bằng với Trung Quốc và đã thực hiện các hoạt động huấn
luyện với PLA, nhưng Singapore đã cho phép Mỹ, Úc và New Zealand duy trì sự hiện diện hải quân thường
xuyên ở nước này. Singapore cũng có mối quan hệ an ninh mạnh mẽ với Ấn Độ và ủng
hộ Ấn Độ can dự vào Đông Nam Á, đặc biệt liên quan đến việc Ấn Độ ủng hộ chiến
lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở và cam kết duy trì các tuyến
liên lạc trên biển an toàn giữa Ấn Độ Dương và Biển Đông. Các thỏa thuận gần đây giữa Singapore và Ấn Độ
nhằm mục đích tăng cường mối quan hệ này bao gồm việc gia hạn một hiệp ước huấn
luyện 5 năm vào năm 2017 cho phép không quân Singapore tập luyện ở Ấn Độ và một
thỏa thuận năm 2018 liên quan đến việc phối hợp hải quân, hậu cần và hỗ trợ các
quân chủng trong các chuyến thăm cảng và tập trận quân sự.
Nhật Bản: Nhật Bản duy trì liên minh mạnh
mẽ với Mỹ, đồng thời tăng cường ảnh hưởng khu vực của mình bằng cách tăng cường
hoạt động ra nước ngoài thông qua việc cung cấp hỗ trợ ngoại giao, kinh tế và
an ninh. Nhật Bản đặc biệt tìm cách tăng cường quan hệ quân sự với nhiều nước
Đông Nam Á, tài trợ các tàu tuần tra, máy bay giám sát hàng hải và các linh kiện
máy bay trực thăng dự phòng cho Philippines, các tàu tuần tra cho Việt Nam và
máy bay chống ngầm P-3 Orion đã hết thời gian phiên chế cho Malaysia.
Việt Nam: Trong khi tìm cách ổn định mối
quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đang tăng cường quan hệ đối tác với Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và New
Zealand. Năm 2018, Việt Nam và Ấn Độ hứa hẹn tiếp tục hợp tác quốc phòng bao gồm
các cuộc đối thoại cấp cao, mua sắm vũ khí và các chuyến thăm cảng của các tàu
hải quân và bảo vệ bờ biển, cũng như tái khẳng định tầm quan trọng của việc bảo
vệ quyền tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Cũng trong năm 2018, Việt Nam và Mỹ đã làm việc
để tăng cường quan hệ an ninh thông qua một loạt trao đổi giữa các lực lượng bảo
vệ bờ biển của họ, chuyến thăm cảng đầu tiên của một tàu sân bay Mỹ kể từ khi
Chiến tranh Việt Nam kết thúc, và việc Việt Nam tham gia cuộc tập trận Vành đai
Thái Bình Dương hai năm một lần do Mỹ tổ chức.
Ấn Độ: Những quan ngại của Ấn Độ về sự
hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc tại khu vực Ấn Độ Dương đã thúc đẩy nước
này quan tâm đến việc tăng cường quan hệ đối tác an ninh với Nhật Bản và Mỹ. Ấn
Độ và Mỹ đã thiết lập một đường dây nóng trực tiếp và ký Thỏa thuận về khả năng
tương thích thông tin liên lạc và an ninh trong năm 2018, cho phép hai nước
trao đổi những thông tin nhạy cảm một cách nhanh chóng và an toàn. Ấn Độ và Nhật
Bản tiếp tục củng cố mối quan hệ kinh tế và an ninh, với việc năm 2015 Nhật Bản
đã trở thành thành viên thường trực của cuộc tập trận hải quân Malabar hàng năm
giữa Mỹ và Ấn Độ. Hai nước cũng đã đồng ý thiết lập cơ chế Đối thoại Bộ trưởng
Ngoại giao và Quốc phòng mới để tăng cường hợp tác an ninh song phương và sẽ tiến
hành các cuộc tập trận vào năm 2019 giữa các lực lượng không quân và mặt đất của
họ. Ấn Độ cũng đã tăng cường sự hiện diện hải quân ở Biển Đông, tiến hành một số cuộc tập trận
tại khu vực này trong năm 2019, bao gồm cuộc tập trận hải quân song phương lần
thứ hai với Việt Nam, một cuộc tập trận kéo dài 6 ngày với Mỹ, Nhật Bản và
Philippines; và một cuộc tập trận riêng với Pháp.
Hiện đại hóa quân sự khu
vực như một cách ứng phó với sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc
Nỗ lực kéo dài hơn 4 thập kỷ của
Trung Quốc nhằm hiện đại hóa quân đội đã thúc đẩy các nước khác trong khu vực
tăng cường các nỗ lực hiện đại hóa quân sự của chính họ. Nhật Bản đã thực hiện
các bước đi để đạt được những năng lực viễn chinh mà họ chưa có kể từ Chiến
tranh thế giới thứ hai, và Việt Nam đã mua thiết bị quân sự cao cấp của Nga để
phát triển khả năng răn đe chống tiếp cận ở Biển Đông. Cuối cùng, Ấn Độ đã tăng cường nỗ lực xây dựng
một quân đội có khả năng chiến đấu với cả Pakistan lẫn Trung Quốc.
Năng lực viễn chinh mới nổi của Nhật
Bản: Nhật Bản đang hiện đại hóa
quân đội để chống lại áp lực ngày càng tăng từ Trung Quốc trong các lĩnh vực
hàng không và hàng hải, cũng như cải thiện năng lực phòng thủ của các đảo phía
Tây Nam nước này. Tokyo đặc biệt tập trung vào việc thành lập một lữ đoàn đổ bộ
triển khai nhanh chóng để cải thiện năng lực viễn chinh của Lực lượng phòng vệ
mặt đất, mua một số lượng lớn máy bay chiến đấu F-35B, sửa chữa tàu khu trục chở
trực thăng lớp Izumo để hỗ trợ các hoạt động của F-35B và cải thiện năng lực
phòng thủ của các đảo phía Tây Nam bằng cách triển khai các tên lửa hành trình
chống hạm được đặt ở bờ biển đến một số địa điểm then chốt trong chuỗi đảo
Ryukyu. Kể từ khi việc cho phép quân đội Nhật Bản tham gia phòng vệ tập thể được
thông qua thành luật năm 2015, Tokyo đã triển khai các tàu của mình tham gia
các hoạt động hộ tống của các tàu và máy bay Mỹ ở biển Hoa Đông và Biển Đông, và đã tham gia các cuộc tập
trận song phương ở Biển Đông. Chính quyền của Thủ tướng Shinzo Abe có thể tìm cách tổ chức một cuộc bỏ
phiếu vào năm 2020 về việc sửa đổi Điều 9 trong Hiến pháp Nhật Bản để cho phép
phát triển các năng lực tấn công, dù đã thất bại trong việc duy trì sự ủng hộ đủ
để thông qua biện pháp này sau cuộc bầu cử Quốc hội vào tháng 7/2019.
Việt Nam xây dựng năng lực chống xâm
nhập khu vực của riêng mình: Để giải quyết những bất lợi hiện tại của mình so
với Trung Quốc trong lĩnh vực hàng hải, Việt Nam đã tìm cách tăng cường năng lực
chống xâm nhập khu vực của mình bằng cách mua các thiết bị quân sự tối tân từ
Nga, gồm có 36 máy bay tấn công Su-30MKK, 6 tàu ngầm tấn công lớp Kilo và 2 hệ
thống tên lửa đất đối không (SAM) S-300. Năm 2019, Việt Nam cũng cho thấy họ
quan tâm đến việc mua các hệ thống S-400 SAM tối tân của Nga.
Ấn Độ tái cấp vốn tài trợ cho các
năng lực hàng không và hàng hải: Kể từ năm 2015, Bộ Quốc phòng Ấn Độ đã ký 188 hợp đồng mua vũ khí, bao
gồm một hợp đồng mua các hệ thống SAM S-400 của Nga vào tháng 10/2018 và một hợp
đồng khác mua các hệ thống SAM tối tân của Israel được lắp đặt trên các tàu chiến
Ấn Độ. Năm 2019, Ấn Độ dự kiến sẽ nhận được một nửa trong số 36 máy bay ném bom
chiến đấu do Pháp chế tạo mà nước này đã đặt hàng năm 2015 và đã bắt đầu nhận
được 22 máy bay trực thăng tấn công AH-64E Apache đầu tiên cùng với 15 máy bay
trực thăng hạng nặng Chinook do hãng Boeing chế tạo. Hải quân Ấn Độ dự kiến sẽ
đưa vào hoạt động 6 tàu ngầm lớp Scorpene mới và một tàu sân bay mới do chính
nước này chế tạo trong khoảng thời gian từ năm 2020 đến năm 2021.
Các cường quốc toàn cầu
gia tăng sự hiện diện quân sự ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương
Một số đồng minh và đối tác của
Mỹ, trong đó có cả các đồng minh châu Âu, cũng đã thể hiện sự sẵn sàng gia tăng
hiện diện quân sự của họ một cách công khai hơn ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình
Dương khi họ ngày càng sẵn sàng chống lại Trung Quốc.
Sự hiện diện quân sự quốc tế ngày
càng tăng ở Biển Đông: Một số nước đã tiến hành các
cuộc tuần tra ở Biển Đông song song với hoặc bên cạnh các hoạt động tự do hàng hải của Mỹ trong
khu vực - mặc dù chưa có nước nào khác cùng với Mỹ đi vào khu vực 12 hải lý có
các cấu trúc địa hình đang bị tranh chấp. Hải quân của Úc thường xuyên tiến hành các cuộc
tuần tra hiện diện ở Biển Đông và vào tháng 8/2018, Anh đã cử một tàu tấn công đổ bộ đi qua Biển Đông ở gần quần đảo Hoàng Sa. Nhật Bản,
Pháp và Canada cũng đã tăng cường các hoạt động quân sự của họ ở Biển Đông.
Các cuộc tập trận đa phương ngày
càng phức tạp: Vào
tháng 5/2019, Hải quân Mỹ, Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản, Hải quân
Philippines và Hải quân Ấn Độ lần đầu tiên đã thực hiện cuộc tập trận hải quân
chung ở Biển Đôngtrong một sự kiện kéo dài 4 ngày nhằm thể hiện sự hiện diện và hợp tác
quân sự. Cũng trong tháng 5/2019, Hải quân Mỹ đã điều một tàu khu trục mang tên
lửa dẫn đường đến Ấn Độ Dương để tham gia một cuộc tập trận quy mô lớn cùng với
các tàu của Pháp, Nhật Bản và Úc - tập trung vào tập trận bắn đạn thật và các cuộc
tập trận chiến đấu khác. Lục quân Mỹ cũng đã công bố kế hoạch tiến hành một cuộc
tập trận mới được gọi là “Đội người bảo vệ Thái Bình Dương” vào năm 2020, tập
trung vào kịch bản ở Biển Đôngvà có sự tham gia của Philippines, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và
Brunei.
Tác động đối với
Mỹ
Trong những năm gần đây, Trung
Quốc đã tự quảng bá ở bên ngoài như một mô hình thay thế cho các nước khác làm
theo trong khi nỗ lực đạt được vai trò lãnh đạo khu vực và thậm chí là trên
toàn cầu. Trên thực tế, so với bề ngoài, triển vọng về khả năng Bắc Kinh đạt được mục tiêu của mình ít
hơn nhiều. ĐCSTQ phải đối mặt với những thách thức đáng kể ở trong và ngoài nước
vốn hạn chế khả năng duy trì tăng trưởng kinh tế, triển khai sức mạnh và mở rộng
phạm vi ảnh hưởng trên toàn cầu. Ban lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ những thách thức
này và đang nỗ lực phối hợp để giải quyết chúng. Cuối cùng, mức độ mà Trung Quốc
có thể giải quyết các điểm dễ bị tổn hại này - một cách từng phần, thành công,
hay không hiệu quả - ảnh hưởng đến khả năng của nước này giành lấy quyền lãnh đạo
và lợi ích của Mỹ.
Trong lĩnh vực kinh tế, các nhà
hoạch định chính sách Trung Quốc tin rằng mô hình kinh tế do nhà nước lãnh đạo
của họ đã mang lại tăng trưởng nhanh chóng cho nước này và coi đó là điều quan
trọng để Trung Quốc duy trì sự thịnh vượng của mình. Việc Trung Quốc tiếp tục
duy trì mô hình kinh tế của mình có thể sẽ kéo dài xích mích thương mại Mỹ-Trung.
Khi căng thẳng thương mại kéo dài, các công ty của Mỹ có thể cần đánh giá lại vị
trí của họ.
Các động thái của Mỹ và các đồng
minh cũng như đối tác của mình nhằm ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận các công nghệ
quan trọng có thể có tác dụng không mong muốn là thúc đẩy nỗ lực đổi mới của
Trung Quốc, do Bắc Kinh đánh giá rằng sự tự lực và thống trị công nghệ là nền tảng
cho năng lực cạnh tranh kinh tế và quân sự trong tương lai của Trung Quốc. Chiến
lược hợp nhất quân sự-dân sự của Trung Quốc, kết hợp nghiên cứu và phát triển về
quân sự, dân sự và học thuật có thể khiến các ngành công nghiệp của Mỹ gặp nguy
hiểm. Các công ty của Mỹ và nước ngoài hợp tác với các tổ chức của Trung Quốc
có thể là các bên tham gia hệ thống hợp nhất dân sự-quân sự Trung Quốc.
Trong khi khả năng quản lý kinh
tế của Bắc Kinh chỉ mang lại thành công hạn chế, thì Trung Quốc lại đang học hỏi
và đi theo những gì Tiến sĩ Doshi mô tả là “đường cong học tập của siêu cường”.
Đáng chú ý là trong bối cảnh có những chỉ trích về BRI, Bắc Kinh đang suy nghĩ
lại về cách lựa chọn và thực hiện các dự án cũng như cách trình bày sáng kiến
này với bên ngoài. Danh sách các dự án trong BRI tiếp tục gia tăng vì vẫn còn tồn
tại khoảng cách đáng kể về cơ sở hạ tầng trên toàn cầu và Bắc Kinh phải đối mặt
với ít đối thủ cạnh tranh trong khi tài trợ cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Việc
Trung Quốc thiếu minh bạch trong việc cho vay làm tăng mối lo ngại không chỉ về
việc nước này ngồi không hưởng lợi trong các nỗ lực giảm nợ quốc tế trước đây,
mà còn về khả năng gia tăng nguy cơ các nước có thu nhập thấp vướng vào tình trạng
nợ nần. Là một chiến lược địa chính trị, quy mô và sự mơ hồ của BRI đồng nghĩa
với việc nó không nhất thiết phải thành công trong việc phá hoại trật tự quốc tế
dựa trên quy tắc ở khắp mọi nơi. BRI tiếp tục khiến Trung Quốc trở thành chủ nợ
lớn ở các khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với Mỹ, giúp Bắc Kinh gia
tăng ảnh hưởng chính trị của mình.
Cuối cùng, việc Trung Quốc thường
xuyên triển khai PLA và các lực lượng bán quân sự để hỗ trợ các yêu sách chủ
quyền khu vực của mình có thể cho thấy họ đang ngày càng sẵn sàng sử dụng lực
lượng quân sự - đặc biệt là chống lại một đối thủ có năng lực yếu hơn trong một
cuộc xung đột hạn chế - nếu Bắc Kinh tin chắc rằng Washington sẽ không can thiệp.
Tuy nhiên, những mối quan ngại của Trung Quốc về khả năng chiến đấu của PLA có
thể khiến các nhà lãnh đạo cấp cao nước này ít sẵn sàng hơn trong việc khởi xướng
một cuộc xung đột có thể thúc đẩy sự can thiệp của một kẻ thù hiện đại, có năng
lực như Mỹ, ít nhất là trong thời gian tới. Thay vào đó, Bắc Kinh có khả năng sẽ
tiếp tục dựa vào các hành động ép buộc nhưng chưa tới mức xung đột vũ trang của
các lực lượng bảo vệ bờ biển, dân quân biển và lực lượng hải quân để tránh mạo
hiểm gây ra một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp. Tính toán của Bắc Kinh về sử dụng
vũ lực có thể thay đổi khi PLA tiếp tục nỗ lực hiện đại hóa. Tuy nhiên, trong
tương lai có thể thấy trước, hiện trạng không mấy dễ chịu về sự ép buộc ở mức
thấp của Trung Quốc và nguy cơ kéo theo các sự cố và tính toán sai lầm có thể nằm
trong số những thách thức cấp bách nhất đối với Mỹ và các đồng minh của nước
này.
---------------------------
Bài
viết được trích trong Báo cáo trước Quốc hội Mỹ về đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ-Trung
năm 2019, tr. 136-154.
Minh
Anh (gt)
No comments:
Post a Comment