Dịch giả: Hoàng Thủy Ngữ
14/11/2019
Kể từ tháng Bảy, tàu khảo sát Hải Dương 8
và một tàu tuần dương hộ tống của Trung Quốc đã có mặt tại vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam ở Biển Đông trong một thời gian
dài. Khu vực tranh chấp, xung quanh 3 hòn đảo nhỏ mà Việt Nam chiếm
đóng ở bãi Tư Chính, gần Việt Nam hơn bất cứ quốc gia nào khác và
Việt Nam tuyên bố là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Trung
Quốc tuyên bố khu vực này là lãnh thổ lịch sử, dựa vào cái gọi là
đường chín đoạn mà Tòa án Trọng tài Thường trực tại The Hague năm
2016 đã phán quyết là không có cơ sở pháp lý.
Việt Nam đặc biệt bị sự xâm lược mới nhất
này đe dọa và phải chống trả, như đã từng tự vệ nhiều lần trước
kia và đã tổn thất lớn về nhân mạng trong trận chiến chống lại Trung
Quốc ở quần đảo Hoàng Sa (1974), cuộc chiến Việt-Trung (1979) và hải
chiến Trường Sa (1988). Trong mỗi trường hợp, Trung Quốc đều gây chiến
trước và Việt Nam bị thiệt hại nhân mạng và lãnh thổ. Việt Nam đã
có thể cải thiện an ninh rất nhiều nếu liên minh với Hoa Kỳ, quốc gia
duy nhất trên thế giới có thể đánh bại Trung Quốc một mình. Và Hoa
Kỳ cũng được hưởng lợi từ việc liên minh bằng cách tăng cường ngăn
chặn Trung Quốc trong khu vực.
Nhưng mặc dù có nhiều lý do để tiến tới một
liên minh và cải thiện tình hữu nghị trong hai thập niên qua, cả hai
quốc gia đều bị những quan điểm sai lầm ngăn cản tư duy chiến lược về
lợi ích quan trọng và chồng chéo của họ: Biển Đông. Việt Nam với
chính sách “ba không”, chung quy là không liên minh với nước nào, không
cho nước nào đặt căn cứ quân sự trên đất của mình. Chiến lược của
Hoa Kỳ ở Biển Đông chỉ đặt trọng tâm vào tự do hàng hải. Lẽ ra, thêm
vào đó, nên tìm cách làm giảm sức mạnh kinh tế và quân sự tương đối
của Trung Quốc, kể cả việc từ chối Trung Quốc tiếp cận các nguồn
dầu mới, khí đốt và hải sản, vốn sẽ giúp họ gia tăng sức mạnh kinh
tế, rồi trao quyền cho quân đội chống lại Hoa Kỳ. Theo Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển, những nguồn tài nguyên trong các vùng đặc
quyền kinh tế không phải của Trung Quốc là tài sản dành riêng cho các
quốc gia ven biển gần đó, gồm cả bờ biển dài của Việt Nam, chứ
không thuộc về Trung Quốc thông qua đường chín đoạn bất hợp pháp.
Trung Quốc nhạy cảm với mọi dấu hiệu chiến
lược ngăn chặn, nhưng khi sức mạnh, ảnh hưởng và sự xâm lược lãnh
thổ gia tăng, việc ngăn chặn ngày càng trở nên rõ ràng như một chiến
lược phản công cần thiết của các nước. Ngăn chặn không phải là quay
trở về cuộc Chiến Tranh Lạnh, mà là một nguyên tắc chiến lược phòng
thủ không bao giờ lỗi thời và kéo dài ít nhất từ thời Hy Lạp cổ
đại. Việc ngăn chặn Trung Quốc sẽ được hỗ trợ qua việc Hoa Kỳ ủng
hộ vật chất và yêu sách lãnh thổ của các quốc gia láng giềng Trung
Quốc, kể cả Việt Nam. Nó cũng được hỗ trợ qua việc Việt Nam hủy bỏ
chính sách “ba không”, dứt khoát liên minh với Hoa Kỳ chống lại Trung
Quốc, chào đón các căn cứ quân sự Mỹ như là lực lượng thứ ba để
làm nhụt chí nước láng giềng hung hăng phía bắc, như trường hợp Nam
Hàn.
Chuyện mời Hoa Kỳ trở lại Việt Nam đặt căn
cứ quân sự chắc chắn sẽ gây tranh cãi do xung đột lịch sử giữa hai quốc
gia, nhưng giờ đây là lúc hãy gác lại quá khứ. Chúng ta có chung một
kẻ thù mới ở Trung Quốc và chúng ta nên tuyệt đối cởi mở trong tình
bạn mới được hàn gắn, để tối đa hóa sự răn đe.
Hành động cứng rắn đó có xảy ra hay không,
phần lớn còn tùy thuộc vào thái độ của Trung Quốc trong việc bành
trướng lãnh thổ, và nếu đúng như vậy, Trung Quốc có thể tiếp tục
gây ảnh hưởng chính trị quan trọng ở cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam, nhằm
chống lại việc hai quốc gia này thân thiết với nhau hơn. Đặc biệt họ
sẽ huy động các nhóm lợi ích, ở cả hai nước, vốn thường hay lấy
lòng Trung Quốc trước nguy cơ xung đột quân sự. Các nhóm lợi ích đó
luôn tìm cách tác động Hoa Kỳ và Việt Nam dẹp bỏ chiến lược ngăn
chặn, dành ưu tiên cho kinh doanh và thương mại hơn là an ninh quốc gia
và do đó cho phép các mối quan hệ quyền lực tiếp tục phát triển
theo hướng có lợi cho Trung Quốc.
Vị trí của Việt Nam
Nếu Trung Quốc thành công trong việc tuyên bố
Biển Đông là lãnh thổ của họ thông qua đường chín đoạn, như đã ghi
rõ trong bản ghi chú năm 2009 gửi cho các quốc gia thành viên Liên Hiệp
Quốc, thì Việt Nam cùng các nước yêu sách khác sẽ mất quyền đánh
bắt hải sản và khai thác dầu khí rất có giá trị trong vùng đặc
quyền kinh tế của họ. Việt Nam sẽ trở thành một vùng đất bị khóa
cửa hợp pháp khi Trung Quốc tiếp tục gia tăng chiến thuật kiểm soát
sự tiếp cận hàng hải vào nước này.
Các yếu tố trong chiến lược mới của Việt Nam
nên bao gồm:
1. Liên minh với các quốc gia có khả năng ngăn
chặn Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân, ví dụ Hoa Kỳ, Pháp và Anh.
2. Liên minh với các quốc gia có đủ sức mạnh
quân sự thông thường để răn đe Trung Quốc, ví dụ Hoa Kỳ.
3. Chuyển tăng trưởng kinh tế sang chi tiêu quân
sự để răn đe Trung Quốc tại địa phương, ví dụ mua tàu ngầm, tên lửa
chống tăng và tên lửa phòng không.
4. Dân chủ hóa và cải thiện nhân quyền sẽ
khuyến khích việc liên minh kinh tế và quân sự với các quốc gia ít
chịu ảnh hưởng của Trung Quốc nhất, được chặt chẽ hơn.
Ấn Độ, Nga và Úc, các quốc gia mà Việt Nam
đã kêu gọi hỗ trợ, sẽ là các đối tác chiến lược hữu ích nhưng
không phải là đồng minh cốt lõi vì họ thiếu sức mạnh cần thiết để
đánh bại Trung Quốc một mình. Nga có ghế trong Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc, và dù cả Nga và Ấn Độ đều là những cường quốc hạt nhân
có sức mạnh quân sự thông thường đáng kể, họ vẫn không đủ mạnh về
kinh tế và quân sự để đối đầu với Trung Quốc một mình. Cả hai đều
là thành viên của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (Shanghai Cooperation
Organization) do Trung Quốc lãnh đạo trong thực tế, nên bị sức mạnh
của Trung Quốc chi phối. Vì vậy, họ không thể là đồng minh đáng tin
cậy.
Úc là đồng minh tiềm năng đáng tin cậy nhưng không
có vũ khí nguyên tử hay quy ước răn đe cần thiết để đối đầu với
Trung Quốc. Họ cũng không đặc biệt mạnh về mặt ngoại giao, quân đội
yếu kém hơn Trung Quốc, và chịu ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc
nhiều hơn Hoa Kỳ, Pháp hoặc Vương Quốc Anh. Úc xuất khẩu khoảng 40,8%
hàng hóa sang Trung Quốc (gồm cả Hongkong). Điều này cho thấy mức độ
ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các doanh nghiệp Úc lớn như thế
nào và từ đó tác động đến chính trị Úc. Ngược lại, Hoa Kỳ, Pháp
và Anh có ít hàng xuất khẩu tính theo phần trăm GDP sang Trung Quốc
hơn nên không chịu ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc nhiều. Họ cũng
được lợi thế do có ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc.
Mức độ che chở mà các tổ chức quốc tế dành
cho Việt Nam gần như là con số không. Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) giúp đỡ Việt Nam rất ít, khi các quốc gia thành viên ngày
càng chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc và phủ quyết mọi chỉ
trích về Trung Quốc. Tổ chức này chuẩn bị và thực hiện rất ít các
kế hoạch quân sự và kinh tế cần thiết để ngăn chặn Trung Quốc theo
đuổi chính sách bành trướng ở Biển Đông. Dù thắng vụ kiện tại The
Hague, Philippines, thành viên ASEAN, vẫn phải khuất phục trước ảnh
hưởng của Trung Quốc sau khi Trung Quốc phớt lờ Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Giờ đây, trong khối ASEAN, Việt Nam là quốc gia
ương ngạnh nhất trong nỗ lực duy trì nền độc lập của mình. Tuy vậy,
vì Trung Quốc có ảnh hưởng đáng kể đến thượng tầng cơ cấu quyền
lực Việt Nam và là đối tác thương mại lớn, một số mặt hàng Trung
Quốc được trung chuyển bất hợp pháp để tránh thuế quan của Hoa Kỳ.
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết của Trung Quốc,
không đủ để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Điều này cho thấy
một liên minh hay thậm chí các mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ
cũng sẽ giúp Việt Nam củng cố sức mạnh trong nước để chống lại
Trung Quốc và tăng cường ngăn chặn trong trường hợp xung đột quân sự
xảy ra, thông qua một người bạn hùng mạnh.
Hoa Kỳ có tất cả các điều kiện cần thiết
của một đồng minh cốt lõi đáng tin cậy và đủ để chống lại Trung
Quốc: một chính sách đối ngoại độc lập với ảnh hưởng của Trung
Quốc (so với các thành viên ASEAN và Nga), sức mạnh kinh tế cần thiết
để trừng phạt Trung Quốc, sức mạnh ngoại giao cần thiết để phủ
quyết các nghị quyết của Trung Quốc ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc, khả năng quân sự cần thiết để tiến hành cuộc chiến tranh quy
ước chống Trung Quốc và vũ khí hạt nhân để răn đe và tự vệ trong
trường hợp Trung Quốc định trả đũa bằng vũ khí nguyên tử.
Không có Hoa Kỳ để đối trọng với Trung Quốc,
nền an ninh của Việt Nam không thể được bảo đảm. Sự tham gia của Hoa
Kỳ là điều kiện thiết yếu đối với bất kỳ liên minh nào trên thế
giới chống Trung Quốc. Nhưng Hoa Kỳ dành đặc quyền cho những quốc gia
tôn trọng giá trị dân chủ và nhân quyền. Vì vậy, để có được liên
minh với Hoa Kỳ, Việt Nam tối thiểu cũng phải cải thiện từ từ nhưng
vững chắc nền dân chủ và nhân quyền.
Vị trí của Hoa Kỳ
Một liên minh Việt-Mỹ không chỉ lợi cho Việt
Nam mà còn lợi cho cả Hoa Kỳ. Khi sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung
Quốc vượt qua Hoa Kỳ bằng một số biện pháp, bao gồm GDP tuyệt đối
bằng sức mua tương đương, tăng trưởng GDP, gia tăng chi tiêu quân sự, tầm
bắn của tên lửa chống hạm, quân số, số lượng tàu hải quân mới, tình
báo nhân tạo và siêu máy tính, Hoa Kỳ và phần còn lại trên thế giới
nên cân nhắc thật kỹ cách kiềm chế sức mạnh và ảnh hưởng của Trung
Quốc trước khi nó vượt các cấu trúc quyền lực cơ bản hiện hành như
chủ nghĩa dân tộc, Liên Hiệp Quốc và G7. Ảnh hưởng chính trị toàn
cầu của Trung Quốc được sức mạnh kinh tế hỗ trợ đang gia tăng và một
phần được phân phối cho giới tinh hoa nước ngoài, gồm cả giới tinh hoa
Mỹ, nhằm đạt được lợi ích chính trị.
Một liên minh mới với Việt Nam sẽ đảo ngược
làn sóng chiến thắng ngoại giao mới của Trung Quốc và sẽ khiến Trung
Quốc phải chấm dứt khai thác dầu khí và đánh bắt hải sản trong
vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Nó sẽ là một ví dụ giúp các quốc
gia khác trong khu vực biết cách bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của
họ và chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc. Nếu liên minh được mở
rộng từ Việt Nam đến Indonesia và Ấn độ, những nước đang có chính sách
không liên kết, dần dần Trung Quốc sẽ bị đẩy vào sân sau của chính
họ.
------------------
Nguồn
:
America
must strengthen its containment of Beijing.
by Anders Corr
November 7, 2019
No comments:
Post a Comment