24/11/2019
Trong năm 2019 này, Văn học Việt mất đi
hai nhà thơ tên tuổi, Tô Thùy Yên và Du Tử Lê. Thơ văn của họ đã đi qua
nhiều thế hệ người đọc. Đều xuất thân từ người lính Việt Nam Cộng
Hòa, tuy nhiên số phận, tính cách, cũng như hồn vía thi ca của hai
nhà thơ này, hoàn toàn khác biệt. Viết không nhiều, cho đến cuối đời
Tô Thùy Yên chỉ in ấn, xuất bản vài ba tác phẩm, song những thi tập
ấy cho người đọc sự đồng cảm, day dứt, kính trọng với sức nặng của
một nhà thơ lớn. Cùng đó, Du Tử Lê với 77 năm cuộc đời và 77 tác
phẩm, để lại cho đời một nghệ sĩ tài hoa, chứ dường như, không (hay
chưa) hiển hiện lên trong tôi, chân dung của một nhà thơ lớn. Có lẽ,
người nghệ sĩ lớn, ngoài nhân cách, tài năng, ngòi bút của họ phải
chọc thẳng vào hiện thực xã hội, cũng như cuộc sống và con người
một cách trung thực nhất chăng?.
Đu
Tử Lê
Du Tử Lê viết nhiều thể loại, từ
thơ, trường ca đến tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình, bút ký và tùy
bút…Tên tuổi, sự nghiệp thơ văn của ông từ trước 1975 cho đến nay,
không chỉ đóng khung ở trong nước. Một số trường Đại học ở Hoa kỳ
đã đưa thơ ông vào giảng dạy cho sinh viên. Ông là người miệt mài đổi
mới thi pháp, thử nghiệm thể loại ngay từ khi cầm bút cho đến năm
tháng cuối đời. Thơ Du Tử Lê sang trọng, giàu hình tượng, điển tích
cùng với mối liên tưởng phong phú đi sâu vào tầng lớp sinh viên, trí
thức. Với đặc tính này, thơ Du Tử Lê kén người đọc, nhất là tầng
lớp bình dân. Bởi, người đọc dường như cũng phải vắt óc, đào sâu
liên tưởng cùng tác giả vậy. Nặng nhọc lắm. Chẳng vậy, mà tôi có
người bạn rất thích, và yêu thơ. Đọc được vài bài của Du Tử Lê rồi
bỏ. Hỏi sao? Hắn trả lời, chẳng hiểu chó gì, sao mà đồng cảm và
đọc tiếp được.
Cũng như những nhà thơ, người lính cùng
thời, thơ văn Du Tử Lê được chia làm hai giai đoạn trước và sau biến
cố 1975. Tuy văn xuôi góp phần quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo,
nhưng thơ mới làm nên chân dung, tên tuổi Du Tử Lê. Và thơ Du Tử Lê cũng
được chia thành hai mảng: Tình yêu đôi lứa, và tình yêu quê hương, đất
nước. Có một điều đặc biệt, dù tình yêu đôi lứa, hay tình yêu quê
hương, thơ ông luôn mang một nỗi ly biệt, nhớ thương và buồn đau.
Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách, sinh
năm 1942 tại Hà Nam. Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam. Tốt
nghiệp Văn khoa Saigon, ông dạy học, rồi trở thành người lính. Biến
cố 1975, Du Tử Lê đã kịp chạy sang Mỹ tị nạn. Nơi đây, ông vẫn tiếp
tục sáng tác thơ văn, và làm việc cho Đài phát thanh Hoa Kỳ. Du Tử Lê
mất vào ngày 7-10-2019 bởi bệnh tật và tuổi già.
*Tình yêu- nỗi cô đơn, mang mang nét nhạc
u buồn.
Chẳng cần đưa
Sigmund Freud với cái thuyết tâm phân học vào soi rọi, ta cũng có thể
thấy: Chiến tranh, cuộc sống cùng cực, với bàn tay dị tật, do vậy
ngay từ tuổi ấu thơ Du Tử Lê luôn luôn mặc cảm, tự ti:“tôi
lớn lên trong vỏ ốc cuộn tròn/ triền nước mặn ướp xác thân nhăn nheo…“ (Phù
sa). Cuộc sống khép kín, và cô đơn ấy, đã đưa ông sớm đến với
thơ văn: “Tôi tìm đến thơ rất sớm, khi 10 tuổi, bởi cuộc sống
quá lẻ loi, và cô quạnh…“. Cũng như nhà thơ Lưu Quang Vũ, tôi đánh
giá cao cái tôi trong thơ Du Tử Lê. Sinh ra trong chiến tranh, lớn
lên trong bom đạn, gây cho Du Tử Lê luôn luôn hoài nghi và chán chường.
Ngay từ những bước chân đầu đời, nỗi bất hạnh ấy, không chỉ trong
cuộc sống, mà tình yêu Du Tử Lê cũng vậy, dù có thay tên đổi họ,
với mượn lốt mang danh, vẫn bi đát đến khôn cùng:
“như lòng tôi bắt đầu mềm sũng
bắt đầu yêu ai bắt đầu bất hạnh
bắt đầu từ đó
tôi, du tử lê. tôi, du tử lê“ (Tôi, Du Tử Lê)
bắt đầu yêu ai bắt đầu bất hạnh
bắt đầu từ đó
tôi, du tử lê. tôi, du tử lê“ (Tôi, Du Tử Lê)
Tuy đớn đau, dường như có phần tuyệt
vọng, song cái tôi trữ tình vẫn xuyên suốt những trang thơ Du Tử
Lê. Tình Sầu là một trong những bài thơ như vậy của ông. Với tôi đây
là bài thơ tình hay và toàn bích nhất của Du Tử Lê. Không chỉ có lời
thơ đẹp, mà tính tự sự đặc trưng bộc lộ rõ nét trong thơ ca Du Tử
Lê. Mỗi khổ thơ là một phép so sánh tu từ về tâm trạng, hoàn cảnh
khác nhau của nhà thơ. Những hình ảnh hoán dụ ấy, tuy nhẹ nhàng
nhưng quặn thắt lòng người. Đọc Tình Sầu của Du Tử Lê, làm tôi chợt
nghĩ đến bài thơ cũng thất ngôn: Đường Khuya Trở Bước của Đinh Hùng.
Có lẽ, Du Tử Lê và Đinh Hùng viết những bài thơ này trong cùng một
hoàn cảnh, tâm trạng sầu đau chăng? Nên cho người đọc hình ảnh, cảm
xúc khá tương đồng, dù thi pháp có khác nhau. Có thể nói, hai bài
này, nằm trong Top đầu thơ tình Việt Nam, kể từ ngày xuất hiện thơ
mới đến nay. Hai khổ thơ trong bài Tình Sầu dưới đây, sẽ chứng minh
cho ta điều đó:
“Ta như sương mà người như hoa
Dối gian nhau nát nụ hôn đầu
Tình đi từng bước trên lưng gió
Gieo xuống đời nhau hạt thương đau
Dối gian nhau nát nụ hôn đầu
Tình đi từng bước trên lưng gió
Gieo xuống đời nhau hạt thương đau
Người một phương, ta cũng một phương
Phố cao ngày thấp nắng mưa trùng
Mắt sâu ẩn nhốt trời giông gió
Ta một hồn câm giông gió lên…“
Phố cao ngày thấp nắng mưa trùng
Mắt sâu ẩn nhốt trời giông gió
Ta một hồn câm giông gió lên…“
Cùng với Đinh Hùng, Tô Thùy Yên…có thể
nói, Du Tử Lê nằm trong số không nhiều các nhà nhà thơ Việt có
tài về thơ thất ngôn. Ngoài từ ngữ, hình tượng ta có thể thấy, chất
trữ tình đã làm nên đặc tính thơ Du Tử Lê. Kể cả những năm tháng tị
nạn ở Hoa kỳ, tiếp xúc với nền Văn học phương Tây, nhưng cái chất cổ
phong vẫn hiền hiện rõ nét trong thất ngôn thơ Du Tử Lê. Thật vậy,
đọc: Chẳng Chiến Chinh Mà Cũng Lẻ Đôi được viết vào năm
1990, mà cứ ngỡ Du Tử Lê đang sống, và viết trong thời Thơ Tiền Chiến
vậy. Sự xa cách, nỗi nhớ thương với tâm hồn cô đơn hiu quạnh xuyên qua
bài thơ, như xuyên suốt cuộc đời người thi sĩ. Điệp ngữ “chỉ nhớ
người thôi“ mở đầu cho cả sáu khổ thơ, tưởng rằng đơn điệu lắm. Nhưng
không phải vậy. Bởi, mỗi hoàn cảnh diễn ra, ta lại thấy một tâm lý,
trạng thái khác của nhà thơ. Tâm trạng dẫn đến trí tưởng tượng và
tài năng liên tưởng của Du Tử Lê, dường như chẳng khác gì trạng thái
tâm lý từ hơn tám thập kỷ trước của Nguyễn Bính khi viết bài: Những
Bóng Người Trên Sân Ga vậy. Chẳng Chiến Chinh Mà Cũng Lẻ Đôi, tuy
không thuộc về nhóm những bài thơ hay nhất, song nó lại mang tính đặc
trưng, điển hình thi ca Du Tử Lê:
“chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
chim về góc biển. Bóng ra khơi
lòng tôi lũng thấp. tâm hiu quạnh
chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi.
chim về góc biển. Bóng ra khơi
lòng tôi lũng thấp. tâm hiu quạnh
chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi.
chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
buổi chiều chăn, gối thiếu hơi ai!
em đi để lại hồn thơ dại
tôi, vó câu buồn sâu sớm mai…”
buổi chiều chăn, gối thiếu hơi ai!
em đi để lại hồn thơ dại
tôi, vó câu buồn sâu sớm mai…”
Cũng như Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng,
có thể nói, Du Tử Lê đưa tình yêu, người tình lên như một thứ tôn
giáo. Đứng trước nó, ông như một con chiên ngoan đạo vậy. Cái đặc tính
này, có lẽ tiếp nối ông, Văn học Việt phải kể đến Nguyễn Tất Nhiên,
và hiện nay là Đinh Thị Thu Vân. Vâng, và Trong Tay Thánh Nữ Có Đời
Tôi, là một trong những bài thơ tiêu biểu cho đặc tính này của Du Tử
Lê. Ở bài thơ Ma soeur, nếu Nguyễn Tất Nhiên dám cả gan đưa những
hình tượng thánh thiện nơi Thánh đường, cửa Phật để ẩn dụ, so sánh
với những cái được cho là kỵ húy, thì Trong Tay Thánh Nữ Có
Đời Tôi, Du Tử Lê đã tôn người tình lên Thánh nữ còn thất kinh hơn.
Vẫn biện pháp tu từ, với điệp từ, điệp ngữ, Du Tử Lê tạo ra mỗi
khổ thơ như một điệp khúc của bản nhạc vậy. Nói vui, dường như Du Tử
Lê đã dọn sẵn cỗ cho các nhạc sĩ vậy. Thật vậy, nhạc tính
làm nên nhạc điệu thơ, qua ngữ điệu của ngôn từ (riêng biệt) Du Tử
Lê. Và nhạc tính này, xuyên suốt những trang thơ của ông. Trong Tay
Thánh Nữ Có Đời Tôi là một bài thơ thất ngôn lạ, u hoài tôi tâm
đắc nhất của Du Tử Lê. Và bài thơ này, cũng đã được hai nhạc sĩ
Hoàng Thanh Tâm và Trần Duy Đức phổ thành hai bản nhạc cùng tên, rất
hay. Đây cũng là bản nhạc, tôi nghĩ, hay nhất phổ từ thơ của ông.
Bởi, nhạc vẫn giữ được hồn cốt của bài thơ, và tư tưởng của tác
giả:
“hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay
tôi buồn như phố cũ như tay
bàn chân từng ngón ngưng không thở
lạc mất đường đi. tạnh dấu bày
tôi buồn như phố cũ như tay
bàn chân từng ngón ngưng không thở
lạc mất đường đi. tạnh dấu bày
hỏi nắng đi rồi em sẽ hay
tôi gầy như lá nhẹ như mây
gió khuya thổi rớt ngàn tâm sự
thiên đàng tôi là người hay ai?…“
tôi gầy như lá nhẹ như mây
gió khuya thổi rớt ngàn tâm sự
thiên đàng tôi là người hay ai?…“
Có thể nói, không riêng tôi, mà còn
nhiều người rất đồng cảm, hứng khởi khi được nghe những bản nhạc
được phổ từ thơ. Và mong mỏi, có nhiều thơ được phổ nhạc hơn thế
nữa. Và nhân viết về Du Tử Lê, nên chăng có một vài lời bàn về
vấn đề này: Có lẽ, cùng với Thái Thăng Long, thơ của Du Tử Lê
được phổ nhạc nhiều nhất cho đến nay? Tuy nhiên, ta có thể thấy,
thơ Du Tử Lê nặng tính kỹ thuật. Thơ ông, bài nào dường như cũng đã
chuẩn bị sẵn cho một ca khúc vậy. Cho nên, nó không thoát khỏi sự gò
ý, tìm từ hoán chuyển, đương nhiên sẽ mất hoặc giảm đi cái cảm xúc
ban đầu của tác giả. Tôi nghĩ, nếu không bị trói buộc bởi đặc tính
này, thơ của Du Tử Lê còn hay hơn thế nữa. Thành thật mà nói, mấy
trăm bài thơ đã phổ nhạc của ông, tỷ lệ còn đọng lại trong lòng
người đọc, người nghe là bao nhiêu?. Dường như, Khúc Thụy Du được Anh
Bằng phổ thành bản nhạc cùng tên, được nhiều người yêu mến nhất. Tuy
nhiên đến âm nhạc, bài thơ Khúc Thụy Du chỉ còn lại cái vỏ, cốt
lõi, hồn vía biến mất. Như vậy, tư tưởng hồn vía mới hoàn toàn
thuộc về nhạc sĩ Anh Bằng. Do vậy, xin cứ để cảm xúc đi vào thơ tự
nhiên như vốn có. Chứ sử dụng (hay lạm dụng) kỹ thuật để có nhiều
thơ phổ thành ca khúc chưa hẳn đã mang lại nhiều giá trị nghệ thuật.
*Quê hương, tình yêu và nỗi đau, cùng
những thử nghiệm trong thi ca.
Sinh ra trong chiến tranh, lớn lên dưới
bom đạn, với những cuộc trốn chạy, di cư như một vết thương tâm lý Du
Tử Lê. Khi chiến tranh trở lại quê hương, thì bức tranh đen tối càng
ảm đạm, luôn ám ảnh ông. Với sự tối tăm không lối thoát ấy, ông (dân
tộc ông) đi tìm được gì cho tương lai của chính mình:“Giữa đêm/ Một
người mù/ Đi tìm tương lai/ Hai hàng máu chảy“ (Quê hương).
Chiến tranh đã đi vào từng ngõ ngách của thành phố, bi thương nhân lên
gấp bội. Sự thật đã được Du Tử Lê chứng kiến, để ông kết sự dã man
ấy thành Khúc Thụy Du trần trụi, hay đến rợn cả người. Có điều
đáng tiếc, khi phổ thành bản nhạc cùng tên, Anh Bằng đã đưa nó theo
một chiều hướng khác. Có lẽ, ngoài thể Hành, thì Ngũ ngôn là thể
thơ đưa cảm xúc, nỗi đau của tác giả đến người đọc thấu và nhanh
nhất chăng. Ta hãy đọc lại đoạn trích Khúc Thụy Du dưới đây, không
chỉ thấy rõ điều đó, mà còn thấy sự mất mát, trong cái tàn khốc
của chiến tranh, và sự tàn nhẫn của con người:
“như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người…“
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người…“
Thân phận người lính trong bất cứ cuộc
chiến nào cũng vô cùng rẻ mạt. Cái chết đến với họ đơn giản như
bữa ăn hàng ngày vậy. Giữa những ngày chiến trận ác liệt nhất, dù
đang yên bình, hạnh phúc nơi đất Mỹ, Du Tử Lê vẫn từ bỏ tất cả để
trở về Tổ quốc, quê hương ông. Nơi đây, có thể cuộc sống của ông sẽ
chấm dứt, một cái chết đã được báo trước. Nhưng tình yêu đất nước
đã không cho phép người lính như ông trốn chạy. Và Vỡ Lòng Cho
Một Cô Gái Mỹ là một bài thơ đã được Du Tử Lê trải lòng
mình ra như vậy. Đây không phải là bài thơ hay của ông. Nhưng nó cho ta
thấy phần nào không khí của chiến tranh, cũng như tâm trạng, tinh thần
của Du Tử Lê nói riêng, và của người lính nói chung lúc đó:
“Dù anh yêu em
Hơn bất cứ một thứ gì trên đời
Thì anh vẫn trở về…
Chiến đấu cho sự trường tồn và lý
tưởng tự do của dòng giống
Mặc dù ngay khi anh vừa bước xuống phi
trường Saigon
Anh có thể chết tan thây
Vì một miếng plastic
Một trái mìn nổ chậm từ xa…“
Chiến tranh kết thúc, bước chân lưu lạc,
nỗi nhớ thương quê hương đất nước luôn thường trực trong lòng thi
nhân. Và tâm trạng thân nơi đất khách, hồn nơi quê nhà ấy,
là tâm lý chung của những kẻ xa quê, chứ không riêng giới văn
nhân, thi sĩ như Tô Thùy Yên, Trần Hoài Thư, hay Du Tử Lê… Có khác
chăng, văn nhân, thi sĩ viết ra được mà thôi. Nếu sự cô đơn, thiếu vắng
buộc Tô Thùy Yên phải đi tìm hơi ấm, tình quê bằng hồn thơ Lục
bát: “Vào đây, có lửa, có người/ Có cây rộng lượng che trời
hộ ta/ Có câu thăm hỏi quê nhà/ Đường qua thế ấy, đường
xa thế nào?“ thì “Đêm, Nhớ Trăng Saigon“ hồn thơ Du Tử Lê đã về
tận nơi quê nhà. Đây là một trong những bài thơ Lục bát hay nhất của
ông. Và nó cũng đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ thành
ca khúc cùng tên rất hay. Bởi, ca khúc vẫn giữ được hồn vía của bài
thơ. Vẫn lời thơ đẹp, nhẹ nhàng như sương khói “Đêm, Nhớ Trăng Saigon“
đã đưa hồn người về dĩ vãng của một thời, tưởng chừng đã xa
vời vợi. Nỗi xót xa, nhớ nhung ấy, được thông qua hình tượng, với
thủ pháp hoán đổi. Có thể nói, Du Tử Lê không chỉ có sở
trường về thơ Lục bát, mà ông luôn luôn làm mới nó bằng những
thủ pháp, thử nghiệm của riêng mình:
“Đêm về theo vết xe lăn
Tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố sương quàng cỏ cây
Tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố sương quàng cỏ cây
Ngỡ hồn ta xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Đêm về theo bánh xe qua
Nhớ em xa lộ nhớ nhà Hàng Xanh…“
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Đêm về theo bánh xe qua
Nhớ em xa lộ nhớ nhà Hàng Xanh…“
Không chỉ với Lục bát, mà thể thơ nào
Du Tử Lê cũng thử nghiệm thủ pháp hoán vị (hoán chuyển) những từ,
hoặc cụm từ; hay hình tượng trong câu thơ:“chiều hái, gặt bóng
cây/ chất đầy đêm tĩnh, lặng/ như tôi gửi bàn tay/ trên ngực người
xa, vắng.“ (Tôi là em: hiện đại). Sự biến đổi trật
tự ấy trong câu thơ, làm cho ta có thể đọc xuôi, hay ngược. Qua những
dấu chấm, hoặc gạch chéo bất ngờ, nhịp điệu câu thơ dừng, ngắt lại.
Tuy nhiên, với nghệ thuật này dẫn đến cấu trúc câu thơ, bài thơ
thường không được chặt chẽ. Tôi hoàn toàn đồng ý, khi nhà nghiên cứu,
phê bình Nguyễn Vy Khanh cho rằng: Với dụng ý, thủ pháp này Du Tử Lê
muốn tạo cơ hội cho người đọc trở thành tác giả thứ hai.
Vâng, có lẽ, ông muốn mở ra một hình
thức, thi pháp mới lạ Du Tử Lê chăng?.
Thật ra, thủ pháp này không mới. Trước
Du Tử Lê, nhà thơ Đinh Hùng đã từng viết, và sử dụng. Không chỉ một
từ, một cụm từ, mà thơ Đinh Hùng có thể hoán vị cả khổ trong cùng
một bài thơ. Thậm chí, có thể hoán đổi khổ thơ ở không cùng một
bài. Thật vậy, ta có thể thấy, ba khổ thơ trong hai bài Tự
Tình Dưới Hoa và Xuôi Dòng Ảo Mộng nhạc sỹ
Phạm Đình Chương có thể gộp lại, phổ thành nhạc phẩm Mộng
Dưới Hoa hay đến nghẹn ngào, đã chứng minh cho thủ pháp nghệ
thuật này. Đây không chỉ là tài năng sáng tạo độc đáo của Đinh Hùng,
mà còn phải kể đến tài năng, sự liên tưởng của người nhạc sĩ. Kiểu
chơi chữ này, ta cũng có thể thấy ở những thi nhân đất Bắc, như Lê
Đạt, hoặc Trần Dần. Tuy nhiên, cũng như Du Tử Lê con đường mới mở ra
cho thi ca của họ đến nay quả thực, vẫn còn mờ nhạt. Nếu như không
muốn nói, nó giết chết những cảm xúc ban đầu chân thực nhất của
người thi sĩ. Hơn nữa, do lạm dụng thủ pháp kỹ thuật làm cho từ
ngữ, câu thơ trở nên tối nghĩa, rắm rối khó hiểu. Do vậy, hiện nay
dường như, ít còn những nhà thơ thành danh, tên tuổi sử dụng thủ
pháp này. Có chăng, chỉ còn mấy bác nhà thơ cấp phường xã, câu lạc
bộ hưu trí mà thôi.
Tiện đây, xin các nhà thơ hãy làm
mới cảm xúc, làm mới tư tưởng chứ không phải thử nghiệm làm mới
hình thức thể loại thơ. Bởi, thơ hay, dở, mới cũ chẳng liên quan gì
đến thể loại cả. Thơ văn không đi thẳng vào đời sống xã hội, với tư
tưởng, cảm xúc một cách trung thực, thì chỉ là những trang viết
chết. Ta có thể thấy, nếu Nguyễn Du không đứng về lẽ phải, và chọc
thẳng ngòi bút vào cái thối nát của xã hội, cùng với thân phận
chìm nổi của con người, dù nghệ thuật Truyện Kiều có hay đến mấy,
thì cũng ngỏm củ tỏi từ lâu rồi. Chứ không thể, với Lục bát cũ
kỹ, nhà quê, mấy trăm năm rồi, đọc Truyện Kiều lúc nào cũng cảm
thấy mới, nóng cứ hôi hổi vậy. Có lẽ, bàn luận hơi bị sa đà về
vấn đề này, bởi tôi thấy, sự thử nghiệm, làm mới thơ văn của mấy
bác thi sĩ tên tuổi luôn tỉ lệ nghịch với chất lượng.
Do vậy, dù rất kính phục nghị lực, sự
bền bỉ của Du Tử Lê, nhưng thành thật mà nói, tôi không hề đánh giá
cao sự thử nghiệm, làm mới thể loại cũng như từ ngữ, hình tượng
(đến mức rắm rối, tù mù như một số bài thơ) của ông.
Bàn luận về Du Tử Lê không thể
không nhắc đến bài thơ: Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển. Một bài
thơ quan trọng nhất ở giai đoạn thứ hai về cuộc sống, cũng như sự
nghiệp sáng tạo của Du Tử Lê. Bài thơ được nhiều người biết
đến, và yêu thích, bởi nó mang tính thời sự, như một thứ bùa ngải
đánh đúng vào tâm lý con người ở thời điểm đó. Những câu Bát ngôn
với lời thơ tự sự xoáy sâu vào nỗi đau, niềm thương nhớ về quê hương,
nơi mịt mù xa tắp. Tuy nhiên, những năm gần đây, đường về quê dường như
cũng ngắn lại. Chẳng trách gì, các bác cứ túc tắc đi về. Và đáng
tiếc, mỗi chuyến bay của Du Tử Lê như một thứ thuốc giải
bùa, giải thiêng cho bài thơ vậy:
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
—–
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.“
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
—–
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.“
Chắc chắn, tôi chưa thể đọc hết thi
ca Du Tử Lê. Nhưng có một điều đặc biệt làm tôi ngạc nhiên. Qua
bốn trăm bài thơ, dọc theo sự nghiệp sáng tạo (trên thivien.net) dường như, không
có bài thơ nào ông viết về người lính, và khói lửa nơi chiến
trường. Dù những năm tháng tuổi trẻ Du Tử Lê mặc áo lính, và đi qua
chiến tranh. Duy nhất, có bài“Tâm Sự Người Lên Mặt Trận“ có liên quan
đến lời tâm sự của người lính, được ông viết vào năm 1965. Song rất
đáng tiếc, lại là bài thơ dở. Từ ngữ cũ, nhàn nhạt, rất sến vần
vè như thơ đọc nơi hội trường đám cưới, hoặc chia ly vậy:
“Mai tôi đi tình này xin gửi lại
Gửi lại tình này xin người nhận đón hai tay
Đường ra chiến trường ai dám nói hay
Nên người chớ bắt tôi đành tâm hò hẹn
Dù trong tôi cả trăm nghìn ước nguyện
Ước nguyện vợ chồng duyên kiếp lứa đôi
Mai tôi đi
Nên hôm nay bài thơ xin gửi lại
Đường ra chiến trường xa lắm người ơi…“
Gửi lại tình này xin người nhận đón hai tay
Đường ra chiến trường ai dám nói hay
Nên người chớ bắt tôi đành tâm hò hẹn
Dù trong tôi cả trăm nghìn ước nguyện
Ước nguyện vợ chồng duyên kiếp lứa đôi
Mai tôi đi
Nên hôm nay bài thơ xin gửi lại
Đường ra chiến trường xa lắm người ơi…“
Trường Khúc Mẹ Về Biển Đông, một
trường viết khá công phu của Du Tử Lê. Nhưng nặng về kể lể, nhẹ cảm
xúc trong thơ. Các cụ nhà ta thường nói: Tức cảnh sinh tình. Thật
vậy, dường như Trường Khúc này, ta mới thấy cảnh, chứ tình còn ít
lắm. Có thể nói, trường ca là thể loại khó viết. Nếu người viết
không đủ tài, dài hơi câu thơ trở nên nhàn nhạt, như canh thiếu mắm
muối, gia vị vậy. Do vậy, có nhiều người viết trường khúc, trường
ca, song không phải ai cũng thành công. Thành thành mà nói, với tôi Văn
học Việt kể từ 1954 đến nay, thành công nhất ở thể loại này là hai
trường ca: Mặt Trời Trong Lòng Đất và Đất Nước Hình Tia Chớp của
Trần Mạnh Hảo.
Tôi thường đọc thơ văn của Du Tử Lê,
nhưng rất tiếc chưa một lần được gặp gỡ ông. Tuy nhiên, có một vài
lần tiếp xúc qua FB, khi Du Tử Lê trích, mượn một số nhận định của
tôi về nhà thơ Phạm Ngọc Lư, khi ông viết về nhà thơ này. Hay khi ông
viết nhầm, trích thơ của cụ Tú Xương, tôi đã góp ý bổ sung qua lại.
Phải nói, Du Tử Lê là người cởi mở, và lắng nghe dù một kẻ viết
tép riu, hàng em út, con cháu như tôi.
Tôi không nghĩ, và cũng không để ý đến
nhà thơ Du Tử Lê có phải là con người của sự hòa hợp, hòa giải hay
không, như một số nhà phê bình đã viết. Tôi hoàn toàn tôn trọng sự
tự do đi lại, hoặc về hay ở của (cá nhân) mỗi nghệ sĩ, văn nhân. Tuy
nhiên, về khía cạnh nào đấy, dường như Du Tử Lê hơi bị dễ dãi, vô tư
khi quan hệ, ân ái, hẹn hò với cả những Nguyễn Văn Thọ (Thọ Muối).
Một đồng đảng, đồng thuyền với dư luận viên như Quang Lùn… thì quả
thực khó hiểu. Do vậy, khi Thọ Muối thốt lên: “Tôi chờ anh thu này
gặp như lời hẹn. Có đâu ngờ mùa thu, mùa đẹp nhất của Hà Nội nơi
hai tôi hẹn hò, lại là mùa đưa tiễn anh đi…Tâm hồn anh như tâm hồn bao
người con xứ Việt vẫn hát mãi như những con dế đàn ca đâu chỉ trong
mưa. Tin thế. Anh Du Tử Lê của em ơi“. (Du Tử Lê- con dế buồn
đâu chỉ hát đêm mưa) Thì quả thực, làm ông bạn tôi, một người yêu thơ
Du Tư Lê hơi bị giật mình. Từ đó, dẫn đến những trang viết chứa chan
tình cảm, tình yêu đã làm bao trái tim xúc động, rơi rụng trong lòng
đồng đội, cũng như người đọc, người yêu ông ít nhiều chăng?
Cho nên, có thể nói, khi Du Tử Lê chết,
nỗi buồn kia cũng chưa hết. Đời lưu vong không thể tận tuyệt với linh
hồn.
Leipzig ngày 20-11- 2019
Đỗ
Trường
No comments:
Post a Comment