18/11/2019
Tin về cái chết của 39 người Việt, được tìm
thấy trong một xe thùng chở hàng đông lạnh tại khu công nghiệp ở Essex, Vương
quốc Anh đã gây xúc động và được dư luận thế giới quan tâm trong hai tuần qua.
Cô Phạm Thị Trà My, 26 tuổi, là nạn nhân
trong thảm kịch ở Anh Quốc mới đây (Ảnh : BBC News)
Cùng lúc nhiều người đặt câu hỏi vì sao Việt
Nam, nay là đất nước đã có nhiều tiến bộ về kinh tế trong một phần tư thế kỷ
qua để trở thành quốc gia có thu nhập bình quân ở mức trung bình cao, mà nhiều người
vẫn rời quê hương bằng mọi cách bất chấp nguy cơ bỏ mạng xứ người.
Khi phải quyết định rời bỏ quê hương dù bằng
con đường hợp pháp, hay tìm đường nhập cư bất hợp pháp, một người luôn cân nhắc
giữa những yếu tố thúc đẩy và yếu tố lôi cuốn, gọi là "push and pull
factors".
Những năm thập niên 1980 tôi làm việc trong
các trại tị nạn ở Đông Nam Á, qua tiếp xúc với nhiều thuyền nhân, nguyên nhân họ
ra đi gồm : sợ bị đàn áp bắt giam, tránh phải đi bộ đội để khỏi chết dưới tay
Khmer Đỏ bên Campuchia, bị phân biệt đối xử vì thuộc gia đình cựu quân cán
chính Việt Nam Cộng hoà, vì là người gốc Hoa, hoặc vì tôn giáo ; hay ra đi để
được học hành để có cuộc sống tốt đẹp hơn...Đó là những yếu tố thúc đẩy nhiều
người ra đi.
Miếu thờ hai cô gái tự tử chết ở trại Galang,
Indonesia (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Yếu tố lôi cuốn là thông tin từ thân nhân, bạn
bè vượt biên vượt biển thành công. Họ được định cư, được trợ cấp tài chính để
đi học, hay có việc làm, mua được xe ôtô trong một thời gian ngắn và còn có tiền
gửi về giúp gia đình. Ở các nước Mỹ, Canada, Úc, Hà Lan, Anh quốc nếu gia đình
có con nhỏ mà thu nhập thấp còn được chính phủ trợ cấp mọi mặt.
Qua hình ảnh đứng bên chiếc xe ôtô, qua những
thùng quà hay đôla gửi về giúp gia đình có đời sống khá hơn, xây được nhà mới
cho bố mẹ, đó là những sự hấp dẫn, lôi cuốn người còn ở lại muốn rời bỏ quê
hương.
Người vượt biển chắc còn nhớ câu nói trước
khi từ biệt người thân : "Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là
con nuôi cá". Tuy chỉ một phần may mắn so với hai phần rủi ro, có thể tử nạn,
nhưng cả triệu người đã ra đi bất chấp sóng dữ và hải tặc.
Bao nhiêu người đã vùi thây trên biển. Người
viết đã nghe nhiều câu chuyện thảm thương trên biển và trực tiếp biết chục người,
là con em của thân nhân và bạn bè đã ra đi mà không có tin tức cho đến nay. Cao
ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc ước tính số người chết trên biển lên đến hàng trăm
nghìn.
Tại Quận Cam, California có một đài tưởng niệm
thuyền nhân tử nạn với nhiều nghìn danh tính do thân nhân cung cấp được khắc
trên những bia đá.
Đài Tưởng niệm Thuyền nhân ở Quận Cam,
California (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Làn sóng vượt biển nay không còn.Việt Nam sau
hơn phần tư thế kỷ đổi mới kinh tế đã có nhiều tiến bộ, mức sống của người dân
được nâng cao gấp nhiều lần so với thời bao cấp, nhưng nhiều người vẫn muốn ra
đi.
Ngày nay, sự kiện người dân di cư từ một quốc
gia này đến một quốc gia khác sinh sống là bình thường vì mỗi năm có cả trăm
triệu di dân trên thế giới.
Số người bỏ quê hương ra đi đông nhất là từ Ấn
Độ, Mexico, Nga, Trung Quốc, Bangladesh, Pakistan, Ukraine, Philippines với vài
triệu mỗi năm, theo báo cáo năm 2018 của Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM).
Cũng theo số liệu của IOM, số người Việt đi định
cư ở nước ngoài không nhiều. Trong thời gian từ 1990 đến 2015 có 2,5 triệu người
Việt di cư ra nước ngoài, trung bình một năm có 100 nghìn người.
Những quốc gia đón nhận nhiều di dân nhất là
Mỹ, Đức, Nga , Ả-rập Saudi, Anh quốc.
Đông nhất chọn Hoa Kỳ vì nơi đây có chính
sách di dân cởi mở, có hệ thống giáo dục đại học đứng hàng đầu thế giới, có nhiều
công việc và nhiều cơ hội cho di dân tiến thân.
Di dân thành công ở Mỹ có nhiều tỉ phú, như
Romesh Wadhwani (Symphony Technology Group), Douglas Leone (Sequoia Capital),
Thomas Peterffy (Interactive Brokers Group), Andrew Cherng (Panda Express), Do
Won Chang và Jin Sook (Forever 21), Elon Musk (Tesla), Sergey Brin (Google),
Micky Arison (Carnival Cruises) là những thí dụ.
Trong hơn bốn mươi năm qua, người Việt đến Mỹ
lập nên sự nghiệp trị giá cả tỉ đôla hay vài trăm triệu đôla có Hoàng Kiều,
Chinh Chu, Lê Văn Chiêu, Trần Dũ, Triệu Phát, David Dương, Charlie Quy Ton.
Trong mọi ngành nghề đều có người Việt tài giỏi.
Quân đội Hoa Kỳ có các tướng Lương Xuân Việt, Nguyễn Từ Huấn ; truyền thông có
Betty Nguyễn, Leana Nguyễn, Tini Trần ; chính trường có Joseph Cao Quang Ánh,
Stephanie Murphy (Đặng Thị Ngọc Dung), Trần Thái Văn, Janet Nguyễn, Hubert Võ,
Trâm Nguyễn, Kathy Trần, Dean Trần, Bee Nguyễn ; văn học có Nguyễn Thanh Việt,
Ocean Vương, Andrew Lâm, Thi Bùi.
Ông David Dương những năm đầu ở Mỹ đi thu lượm
thùng giấy, trước khi thành lập công ty xử lý rác California Waste Solutions.
Ông Lê Văn Chiêu từng đi bán thức ăn trưa bằng xe (lunch truck) trước khi có
chuỗi cửa hàng bánh mì Lee's Sandwich. Ông Charlie Quy Ton từng là thợ làm đẹp
móng tay trước khi mở hàng trăm tiệm Regal Nails trong các trung tâm thương mại.
Đón nhiều di dân nhất là California. Tiểu
bang với 40 triệu dân và có nền kinh tế đứng thứ 5 trên thế giới nếu California
là một quốc gia riêng biệt.
Người Việt cũng chuộng California, vì thế
trong số 1,3 triệu người Việt ở Mỹ, 40% sinh sống ở California.
Một nghiên cứu của hai giáo sư Karl Jackson từ
U.C. Berkeley và Jacqueline Desbarats từ U.C. Irvine vào đầu thập niên 1980 cho
thấy nhiều người Việt đã di chuyển từ các tiểu bang khác về California trong đợt
di cư thứ nhì sau năm 1975. Họ chọn California vì những lý do : có trợ cấp an
sinh xã hội tốt, dễ tìm được việc làm, khí hậu tốt, có đông đồng hương, dễ tìm
thức ăn Việt và California gần với quê hương Việt Nam hơn.
Người Việt đến Mỹ vào thập niên 1980, đúng
lúc công nghệ điện tử bùng phát nên "chồng tách, vợ ly" (technician
và assembly line) làm dây chuyền trong các hãng điện tử đã đem lại cuộc sống
sung túc ổn định cho nhiều gia đình chỉ sau chừng vài năm.
Qua thập niên 1990 nhiều công ty bắt đầu chuyển
ra nước ngoài thì chồng đi bỏ báo hay đi cắt cỏ, vợ làm thợ móng tay, vài năm
sau cũng có thể làm chủ một cơ sở thương mại. Nghề làm "lunch truck"
đi bán thức ăn trưa cũng có thu nhập khá để hai vợ chồng có thể mua được nhà
sau vài năm.
Những tiệm làm đẹp móng tay đã giúp cho nhiều
người Việt tạo dựng cuộc sống ổn định ở Hoa Kỳ (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Những ai muốn theo đuổi con đường học vấn
cũng có nhiều cơ hội và trường để chọn theo học, từ hơn một trăm đại học cộng đồng,
23 đại học tiểu bang đến 10 trường trong hệ thống University of California đứng
đầu thế giới, là nơi để nhiều người thỏa mãn ước mơ có nghề chuyên môn như luật
sư, kỹ sư, bác sĩ, khoa học gia, chuyên viên kinh tế, tài chính.
Muốn làm lao động trí óc "cổ trắng -
white collar" hay lao động tay chân "cổ xanh - blue collar"
California có rất nhiều cơ hội.
Ngay cả những người nhập cư trái phép vẫn có
thể đi học. Hai mươi lăm năm trước cử tri California bỏ phiếu chấp thuận dự luật
187 không cho người nhập cư bất hợp pháp được hưởng các dịch vụ y tế và giáo dục.
Những tổ chức bảo vệ di dân đã kiện và sau đó hầu như toàn bộ luật này đã bị vô
hiệu lực bởi những phán quyết của toà. Di dân không giấy tờ hợp pháp ở
California nay vẫn được đi học từ lớp 1 đến lớp 12. Lên đại học có thể được trợ
giúp tài chính.
California có nhiều việc ở những nông trại,
thu hút di dân từ Nam Mỹ. Các dịch vụ làm nhà hàng, siêu thị, sơn móng tay, cắt
cỏ, dọn dẹp cho các nhà thầu xây cất thường hấp dẫn người châu Á. Với di dân
không phép, làm những công việc này tuy thu nhập không cao, cuộc sống không
giàu, nhưng so với đời sống ở quê nhà vẫn khá hơn và còn có thể gửi tiền về
giúp gia đình.
Sống không hợp pháp tại Mỹ, nhiều di dân tìm
cách hợp thức hóa qua kết hôn để có thẻ xanh, rồi được thành công dân Mỹ. Nếu
không được như thế, nhiều người hy vọng một ngày nào đó sẽ được ân xá để trở
thành cư dân hợp pháp như đã có chính sách dưới thời chính quyền Reagan trong
thập niên 1980 và chính quyền Clinton trong thập niên 1990.
Đó là lý do mà nhiều người Việt, là du học
sinh, du khách hay công nhân xuất khẩu lao động, khi đã vào được Mỹ và nếu có
cơ hội hầu hết đều tìm cách ở lại.
Chính sách mới về di dân của chính quyền
Trump trong ba năm qua có làm giảm số người nhập cư vào Mỹ, nhưng môi trường
giáo dục và thị trường lao động vẫn cho di dân nhiều cơ hội để thành công vì
lúc này mức thất nghiệp tại Mỹ đang thấp nhất trong nửa thế kỷ qua.
Với thảm kịch 39 người Việt chết trong thùng
xe hàng đông lạnh ở Anh, khi quyết định ra đi chắc chắn họ và người thân trong
gia đình cũng đã phải cân nhắc giữa thành công và rủi ro trước khi quyết định bỏ
ra một số tiền lớn để được dẫn đi.
Cuộc sống của người nhập cư bất hợp pháp ở
Anh cũng giống như ở Hoa Kỳ. Một khi đã đến nơi họ có thể tìm được việc làm,
không chỉ đủ nuôi sống bản thân mà còn giúp được gia đình.
Khi thông tin về cái chết của những nạn nhân
được truyền đi qua mạng xã hội, kèm lời nhắn của một cô gái gửi cho bố mẹ ít
phút trước khi chết vì ngộp thở, một số lời bình đã quy lỗi cho cô, cho những
người cùng đi vượt biên và chê trách họ chọn con đường đến Anh làm những chuyện
phi pháp như trồng cỏ, làm "gái" để mong chóng giàu.
Như nhiều người cùng làng xã đã qua được đến
đó, đi làm và gửi tiền về cho gia đình xây những ngôi nhà đẹp gọi là làng tỉ
phú giữa quê nghèo.
Vụ việc này có phải là buôn người hay chỉ là
đưa người nhập cư lậu vào nước Anh mà thôi ?
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, chủ tịch của Boat
People SOS nhận định : "Đây là vụ buôn lậu người tức là đưa người đi lậu
có trả tiền. Nếu sống sót, có thể một số sẽ trở thành nạn nhân buôn người".
Hôm 2/11/2019 ông có một bài viết trên tạp chí Mạch Sống phân tích về vấn
đề này :
"Thường thì những người nhập cảnh lậu dễ
trở thành nạn nhân buôn người vì tình trạng cư trú bất hợp pháp, vì không có chọn
lựa về sinh kế, vì các khoản nợ lớn ở quê nhà, hay vì bị khống chế bởi băng đảng
tội phạm. Tuy nhiên cũng có những người nhập cư lậu không bị rơi vào tình cảnh
bị bóc lột sức lao động và do đó họ không là nạn nhân buôn người. Trường hợp của
39 nạn nhân chết trong container là buôn lậu người. Nếu sống, thì có những người
có thể trở thành nạn nhân buôn người".
Tổ chức Boat People SOS trong hơn ba thập
niên qua đã giải cứu cho nhiều nghìn người lao động Việt khỏi cảnh bị bóc lột ở
đảo American Samoa, ở Jordan, hay đưa ra ánh sáng những đường dây buôn lậu người
từ Việt Nam sang Nga.
Tiến sĩ Thắng viết : "Mỗi đường dây buôn
lậu người là lãnh địa của một nhóm xã hội đen có sự móc nối và ăn chia với các
quan chức địa phương để dễ dàng đưa người lậu xuyên biên giới. Họ cũng sử dụng
cò và môi giới để tìm các con mồi. Họ chắp nối cơ hội với những nhóm buôn lậu
người ở từng quốc gia tạo nên một xâu chuỗi dẫn từ quốc gia khởi thuỷ đến quốc
gia mục tiêu".
Đó cũng là hành trình mà 39 nạn nhân đã đi
qua và thật không may trên đoạn đường cuối cùng trước khi đến đích họ đã tử nạn.
Còn theo cô Vương Ngọc Diệp, 39 nạn nhân đã bị
nhóm tổ chức vượt biên lừa để họ tưởng là nhập cư vào Anh không khó khăn lắm và
có thể làm ra tiền dễ dàng, đâu ngờ gặp nạn chết người.
Cô Diệp hiện là chủ tịch của Pacific Links
Foundation có trụ sở ở California với nhiều chương trình chống nạn buôn người tại
Việt Nam và trên thế giới.
Khi thấy có bình luận cho rằng 8 cô gái mệnh
yểu tìm đường vào nước Anh để bán thân lấy tiền, cô Diệp tỏ ra bất bình phát biểu
: "Có ai bỏ cả mấy chục nghìn đôla để
đi làm gái ở nước ngoài không ?".
Nêu câu hỏi liệu người của chính quyền địa
phương có liên quan đến việc tổ chức đưa người đi vượt biên, cô Diệp cho biết :
"Khi
người đi lậu, tiền thuế sẽ không thu về được nên về chính sách mà nói, chính
quyền sẽ không có lý do để ủng hộ việc đi vượt biên này. Họ chỉ quan tâm đến những
người đi xuất khẩu lạo động chính thức, vì đó là nguồn tài chính về thuế".
Còn ảnh hưởng của ô nhiễm biển do Formosa gây
ra cách đây ba năm, cô Diệp nhận định :
"Tôi
nghĩ việc này không ảnh hưởng nhiều đến cư dân trong vùng trong quyết định bỏ
quê ra đi, trả một số tiền lớn như vậy. Từ nhiều thập kỷ qua đã có nhiều người
dân đi lao động ở nước ngoài.
Nghệ
An là tỉnh có nhiều người đi xuất khẩu lao động nhất Việt Nam. Đương nhiên là
có một số người vì biểu tình chuyện Formosa mà không ở lại Việt Nam được. Rất
đông người trong diện này đã đi sang Thái Lan và xin tị nạn ở đó".
Khi đọc được những lời cuối của Trà My gửi về
cho gia đình, với lời xin lỗi bố mẹ, cô Diệp xúc động nói : "Thử tưởng tượng nỗi nhục, xấu hổ của
những người thất bại và bị trục xuất về lại Việt Nam. Điều này khiến cho họ khó
có cách nào mở miệng để kể cho mọi người nghe về thực trạng của cuộc sống lao động
bên Anh".
Với cái chết của 39 người Việt trên đường vượt
biên. Họ là những nạn nhân được tìm thấy. Nhưng còn bao nhiêu người Việt nữa đã
mất tích hay chết bờ, chết bụi ở một nước châu Âu nào đó mà chỉ có gia đình nạn
nhân biết, còn công luận thì không.
Như bao nhiêu người Việt khác đã vùi thây trong
lòng biển. Trong mọi thảm kịch như thế, chính phủ Việt Nam không bao giờ nhận họ
có phần trách nhiệm trong đó.
Khi có làn sóng thuyền nhân ra đi từ Việt Nam
vào cuối thập niên 1970, dư luận quốc tế biết đến thảm cảnh qua phóng sự do
phóng viên Ed Bradley thực hiện từ trại Bidong và được chiếu trong chương trình
"60 Minutes" trên kênh truyền hình CBS.
Những nhà làm chính sách, giới chức tị nạn của
Liên Hiệp Quốc lên tiếng kêu gọi thế giới giang tay đón nhận người tị nạn Việt
Nam. Cùng lúc chính phủ Hà Nội cũng đã chịu nhiều áp lực để tìm cách giải quyết
vấn nạn này.
Một số người tổ chức vượt biển bị Hà Nội bắt
giam và kết án tù nhiều năm. Năm 1979, chính phủ Việt Nam cũng đồng ý cho mở ra
chương trình ODP - ra đi có trật tự - để những ai đủ điều kiện được thân nhân bảo
lãnh đi đoàn tụ ở nước ngoài được rời Việt Nam bằng máy bay, tránh phải vượt biển
nguy hiểm đến tính mạng.
Tuy nhiên những giải pháp đó không bền vững
và hiệu quả để làm giảm số người vượt biển. Chương trình ODP bị Hà Nội ngưng tiến
hành và người dân vẫn ra đi bằng cách hối lộ công an để mua bãi, để công an
biên phòng làm ngơ.
Có những chuyến đi còn được chính công an địa
phương tổ chức để thu đôla hay vàng.
Mãi đến đầu thập niên 1990, khi thuyền nhân
phải qua thanh lọc gắt gao và những ai không hội đủ điều kiện để được hưởng qui
chế tị nạn thì bị trả về. Sau hai mươi năm kể từ ngày đất nước Việt Nam thống
nhất 30/4/1975 thì làn sóng thuyền nhân mới chấm dứt. Trang sử thuyền nhân
không có trong bộ lịch sử cận đại Việt Nam theo quan điểm của Hà Nội.
Ngày nay người Việt vẫn bỏ nước ra đi, được gọi
bằng những danh từ mới như "tị nạn giáo dục", "tị nạn môi trường".
Họ ra đi bằng con đường kết hôn với người nước ngoài, bằng đường du học hay xuất
khẩu lao động.
Việt Nam không chỉ xuất khẩu lao động sang những
quốc gia tân tiến như Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Úc, Mỹ mà cả những nước nghèo
như Togo, châu Phi nơi tôi đã gặp mấy bạn trẻ qua đó buôn bán, mở nhà hàng và
làm việc tại phòng rửa hình.
Một bạn sống ở Togo tám năm cho biết ở đây ăn
uống không sợ có chất độc, không khí trong lành. Người thân cứ nghĩ đời sống
bên châu Phi khó khăn, nhưng anh nói anh có một cuộc sống rất thoải mái.
Với nhiều người Việt, những yếu tố thúc đẩy họ
phải rời quê hương vẫn còn mạnh lắm.
Bùi Văn Phú
(18/11/2019)
No comments:
Post a Comment