10/02/2018
LTS: Nhân dịp ông Hoàng Phủ Ngọc Tường cho phổ biến bài viết “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn“, xin được đăng lại
bài viết của bà Nguyễn Thị Thái Hòa, là một nhân chứng sống trong vụ thảm sát Tết
Mậu Thân, kể về vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Phan, em trai của ông Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Bài viết này đã được phổ biến trên mạng năm 2012, nhưng có lẽ nhiều người
dân trong nước chưa được đọc qua.
_____
Nguyễn
Thị Thái Hòa
Tôi
xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người
anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu
Thân, như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân
trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung,
thay cho tất cả những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại
VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng Cộng
Sản, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc
Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…
Hoàng
Phủ Ngọc Phan, em trai Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nguồn: Hoàng tộc Bích Khê.
Thưa
ông,
Năm
1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những
giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều
toán. Mỗi toán từ 8 đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV
Trung Ương Huế.
Có
những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như
phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương … thì giờ thực tập được chia làm ba ca,
sáng, chiều và đêm … Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9
giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.
Mỗi
một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ. Hai tuần trước tết, toán của
tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn
vào ca đêm.
Tết
năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.
Thường
thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày
30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm
viếng bạn bè…
Sau
bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, anh Hai lấy xe Honda của anh đưa tôi
tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối
mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai
người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên!
Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng
những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng
qua nữa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi
lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu
không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán,
thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…
Lúc
đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng
3, 4 giờ sáng, bất thần không biết từ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người
tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần
đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một
số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một
số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món
nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.
Trong
lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần,
đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba… rớt ngay con đường phía trước cổng
chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn
chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra
khỏi phòng cấp cứu, tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy
đi đâu. Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy.
Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người, định thần ngó lại mới
biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ
chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi
“con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy
về phía nhà nguyện của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã
có hai bà sơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy
lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú
tại trường trung học Jeane d’ Arc.
Cha
Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội
nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại
đó với cha hai bà sơ, và mấy người nữa.
Bốn
năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và
cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên
ai ở đâu thì cứ ở đó.
Sau
khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp,
không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẩn trốn trong những trại bệnh khác
thì tôi không biết.
Tới
ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi
trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn về nhà. Cha
bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy sơ đi
đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính
mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như
để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không
biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà
thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì
sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì
ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi
chia nhau gặm…cầm hơi!
Tôi
quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục
dính đầy máu, tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo,
ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không
biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi
lạnh run, hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu
me đóng vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở
đây. Quá sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt
ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.
Văn
là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt
trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp
tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở
bên Văn Khoa. Toàn thân run rẩy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có
tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường
sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được
tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn
đạn trong nhà thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh
viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi
đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình”
nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.
Khi
đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau
đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy
tìm đường trốn.
Ra
khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà
Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào
không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người
đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh
Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan (HPNP)
và Nguyễn thị Đoan Trinh (NTĐT) cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên,
chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y
khoa cùng lớp với Phan.
Gặp
Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập
trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm
soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải
thương chứ không bị giết.
Bọn
Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người
khác rồi. Hải, Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước,
nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời
HPNP nói.
Vừa
vô tới giảng đường thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chỗ
phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của
anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ
đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe
Honda tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình
cờ gặp tôi trong đó.
Nghe
anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy
qua Văn Khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh
vô BV cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi
nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vừa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng
chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi,
mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc.
Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường
VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng
tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng
trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày cũng đằng đằng sát khí.
Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em
qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti
đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương!
Phan
không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống
đây mà đem thằng Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu.
Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người
này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể những người anh của
tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn
đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh đấu, lên đường xuống đường” của những
năm trước.
HPNP
to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem
xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy
một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường
Jeane d’Arc.
Văn
gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn
khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi
khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng
khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.
HPNP
vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau
là mi chết! Văn run rẩy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi
hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho
Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quãng đường
từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba.
Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho
chúng tôi đi.
Khúc
đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rãi rác. Nhiều
vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng,
tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chiếc xích lô,
trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng
tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai
nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó
chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.
Lúc
đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói
như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ
những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm
hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường
Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn, tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào
của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi
hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất
vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên
tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung
với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít
khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không
dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp
việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo
Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho
Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên
Phú Lương thì bị bắt giữ.
Tôi
định dừng lại hỏi thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “đi mau, ngó chi!”
Trên
đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội
chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc
đồ đen đi dép râu, mang súng.
Súng
nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc
Việt khắp nơi.
Trên
đường Hàm Nghi, Nguyễn Thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y
như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà,
người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la
thảm thiết… Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ
mẹ bây giờ…
Hai
chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lũi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi
gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và NTĐT rà xe lại gần bảo tôi,
không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!
Đẩy
lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm
Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần
cầu Kho Rèn.
Tôi
cũng không hề biết mặt Nguyễn Thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi
mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi HPNP biểu
cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng
đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau
cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.
Lên
tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân
tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ
ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con
đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông
tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui còn sống. Tôi
không khóc được, tôi run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con
còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô!
Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô
rồi, có thoát được không? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.
Tôi
không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà,
ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội
ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời
ơi, răng mà ra nông nỗi ni…
Chúng
tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai
người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không
cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói,
Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu
mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai
tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi
mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe
tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn
HPNP cũng vừa vào đến.
Thấy
Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi
con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó
ông nội hỏi, thằng Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn
giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây
mà ông không biết răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi
hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẽ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui
biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!
Mắt
Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan
một tiếng.
Tôi
đứng núp sau lưng ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó
nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp,
tụi mày không xuống tau bắn con Ti!
Nó
vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau
điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng.
Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa,
hắn biết chi mô.
Thằng
Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con
Ti.
Phan
xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một,
hai,ba… Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em
tau, tau xuống, để tau xuống… Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống,
hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai
chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu
thì HPNP đã nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống
sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc
ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh
Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng
của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng
ván.
Anh
Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh
người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt
trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng
Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn
ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại
ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi
ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi
lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai
con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong
ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao
lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc
tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẩm ướt. Tôi không còn sức
để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy
là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm với
ông nội đang ở trong nhà.
Họ
dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội
cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm,
phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc
cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở
miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông
tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi?
Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn
thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép
tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó
khiêng đi hết rồi. Bác Hâu còn giấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi
với nhau.
Ngày
hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hậu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh
sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đã
hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một
buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt
sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì
chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.
Vợ
chồng bác Hậu khóc lóc năn nỉ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi
tui đào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn
người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong
nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…
Chiều
tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy
thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra
vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại
trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người
thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuổng
xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất
ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi
bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng
súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng
bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra
cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước
đái trong người tôi túa ra.
Tôi
nghe tiếng mấy thằng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng
xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào
buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi
rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết
chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người
mô mà ác như rứa… Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau
lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông
tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn
hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai
vợ chồng bác Hậu không nở bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết
đa số dân Phủ Cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi
ráng ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết?
Con không muốn tìm mạ con răng?
Hôm
sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính
Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn
thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất
hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi
đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp
nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh
đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC
chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy
người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những
người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay
quân sát nhân ác độc.
Cuối
cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá
đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội.
Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo
Binh Phú Bài. Thấy mạ tôi như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi, ông
mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.
Sau
khi Huế được giải thoát, ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh,
và ông nội tôi, tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ
chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà
ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.
Ba
tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không
thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống.
Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần đường rầy xe
lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.
Thưa
ông Liên Thành,
Đó
là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng
kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của
tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ
dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều
là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau
Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm
thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau
biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Cộng Sản ác độc,
vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị
đày đọa trong lao tù CS.
Đã
40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một
đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân
Huế.
Tôi
là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết Mậu Thân cũng như sau
những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người
Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố
cáo Tội Ác của Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có
thể siêu thoát
Tôi
sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các
phương tiện truyền thông khi cần thiết.
Xin
trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại:
Tên ông nội: Nguyễn Tín, 70 tuổi (khi bị giết).
Ba người anh: Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.
Tên ông nội: Nguyễn Tín, 70 tuổi (khi bị giết).
Ba người anh: Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.
Nguyễn
Thị Thái Hòa
Tưởng
nhớ 7.600 người dân Huế bị thảm sát trong cuộc tổng tấn công của Cộng Sản, Tết
Mậu Thân, 1968
____
Mời đọc lại:
Thà ông im lặng còn hơn… (TD).
No comments:
Post a Comment