Võ Thiêm
10/02/2018
LTS: Trưa nay, trang Tiếng Dân có đăng bài “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn“, của ông Hoàng Phủ
Ngọc Tường, được nhà văn Nguyễn Quang Lập đưa lên Facebook, cũng như lời bàn của
ông Lập ở phần cuối bài.
Bài viết có nhiều chi
tiết gây tranh cãi. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin được đăng tiếp bài phản
biện của ông Võ Thiêm, là người đã từng sống ở miền Nam trong giai đoạn Tết Mậu
Thân, hiện đang sống ở Nam California, Hoa Kỳ.
____
Võ
Thiêm
10-2-2018
Vừa
rồi Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) có viết lá thư nói về vai trò của ông ta trong
vụ Mậu Thân và nhờ Nguyễn Quang Lập (NQL) đăng. Đồng thời NQL cũng viết bài biện
minh cho HPNT. Tôi có vài góp ý:
Phần
1: VỀ LÁ THƯ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Mở
đầu HPNT viết, trích: “Tôi đọc cho con gái chép một bài viết nhỏ này xin gửi
tới bà con bạn bè thương mến, những ai yêu mến, quen biết và quan tâm đến tôi.
Còn những kẻ luôn đem tôi ra làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành
và bè đảng của ông ta, tôi không muốn mất thời giờ đối đáp với họ. Dĩ nhiên bài
viết này không dành cho họ.”
Lời
bàn:
Viết cho bạn bè mà nhờ người bỏ lên web thì tôi có quyền bàn vào, dù biết rằng
HPNT không “dành cho tôi.” Ý nghĩ ban đầu của tôi là, tuy có vẻ “lá thư cuối đời”,
giọng điệu HPNT vẫn còn sắt máu lắm.
Hoàng
Phủ Ngọc Tường (trái) và Nguyễn Khoa Điềm, cựu Trưởng ban Tuyên giáo Trung
ương. Ảnh chụp ngày 24/8/2015.Nguồn: Ngô Minh/ báo TN
Trích
tiếp:
“Năm nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những
gì tôi đã viết, đã nói, đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao
nhiêu cũng không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật.”
Lời
bàn:
HPNT lạc quan tếu, nếu quả có linh hồn, có cõi trời cõi phật, thì chắc gì ông
ta sẽ được “về” nơi đó! Địa ngục thì sao, vẫn mở cửa mà!
Trích
tiếp:
“Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim ‘Việt Nam một
thiên lịch sử truyền hình’ trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu
thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.
Tôi
xác nhận đây là link clip tung lên mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn:
Để
chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng
tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham
gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến.
Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200
người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi
mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu …Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi
rút ra ..”. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không
phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một
việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.”
Lời
bàn:
Hoá ra có nhiều HPNT chứ không phải một. Một HPNT như đồ tể nghiến răng đắc chí
tự nhận hành vi giết người với đài truyền hình Mỹ năm 1981 (tức đến 13 năm sau
vụ thảm sát) và một HPNT “biết xấu hổ” lúc cuối đời, khi bị thất sủng, khi
chanh đã khô nước. Tin HPNT nào bây giờ?
Xác
nhận chi tiết “đạp lên máu” không sai, mà vẫn đổ tội cho máy bay Mỹ thả bom bịnh
viện. Bịnh viện nào mà “có những “đường hẻm” đầy máu? Chắc ông phải đổi lại là
“hành lang” nhỉ?
Trích
tiếp:
“Cũng trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng
hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng,
tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó
là sự nguỵ biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra
ở Mậu thân 1968.”
Lời
bàn:
Tự nhận biết xấu hổ, chưa từng nói láo bên trên mà đoạn này lại nói “lúc đó vì
hăng cách mạng”, chỉ vài năm sau nhận ra là mình ngụy biện nhưng phải chờ đến
37 năm sau mới thú nhận! Ai tin được sự lương thiện này?
Ngôn
ngữ của ông vẫn còn láu cá kiểu CS lắm. Tại sao là “tội ác” của Mỹ mà chỉ là
“sai lầm” của “cách mạng”? Các ông không gây tội ác à? Nếu cho đến ngưỡng cửa của
cái chết mà ông vẫn nói “không” thì đừng hòng “về trời”! Thiên đường không có
chỗ cho kẻ dối trá, trừ “thiên đường cộng sản”.
Tiện
đây nói luôn, là người viết văn, có học, thì nên hiểu nghĩa chữ “cách mạng”. Bọn
CS các ông không làm cách mạng, các ông chỉ cướp chính quyền cho bè đảng các
ông thôi. Hiện tình xã hội VN là một bằng chứng rõ nhất.
Trích
tiếp:
“Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của
Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về
những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành
động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm
không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm
chiến tranh cách mạng.”
Lời
bàn:
Đây là đoạn trung thực rất hiếm hoi, dù ông có “thống thiết” cho nạn nhân không
thì không có gì để tin! Nhưng nếu ông biết vậy thì ngay bây giờ cũng chưa muộn,
hãy viết thư “thỉnh cầu” các đồng chí của ông đừng ăn mừng “chiến thắng Mậu
Thân” nữa! Việc ấy mới xảy ra khắp nước và ngay tại thành Hồ nơi ông ở. Làm
ngay đi. Tại sao ông không làm hay ông vẫn cho việc kỷ niệm là đúng đắn? Ăn mừng
thảm sát dân lành ư? Ông không thấy đó là nỗi xót xa cho dân Huế … của ông
(sic!) ư?
Mặt
khác, ngay lúc này, khi ông muốn chứng tỏ mình là người thành thật, thì hãy bỏ
đi từ “nổi dậy”! Nó láo và khốn nạn lắm! Hơn ai hết, các ông biết không hề có sự
nổi dậy nào của dân chúng toàn cõi Miền Nam thì đừng láo nữa, đừng lừa bịp con
cháu nữa! Những kẻ nằm vùng không phải là dân chúng nổi dậy.
Chắc
ông nhớ các cuộc tản cư suốt chiều dài cuộc chiến, đại lộ kinh hoàng 1972, di tản
năm 1975 từ Huế, Đà Nẵng, Tây Nguyên… và hơn nửa triệu người chết trên biển đó
chứ? Cụ thể hơn, con cái, bạn bè thân thiết của các ông cũng đã và đang di tản
đó! Họ không nổi dậy mà họ chạy trốn.
Trích
tiếp:
“Từ hai sai lầm nói trên tôi đã tự rước hoạ cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm
tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng
cực đoan vu khống và qui kết tôi như một tội phạm chiến tranh.”
Lời
bàn:
Ông vẫn không bỏ lối ăn nói sặc mùi CS. Vơ cái tốt vào mình và vu vạ kẻ khác.
Ai bảo ông có “niềm tin yêu của nhiều người dân Huế” để cho ông đánh mất? Nhiều
là bao nhiêu? Thế nào là chống cộng cực đoan? Thế có sùng Hồ, sùng cộng mù
quáng không? Vì sao người ta “vu khống” ông mà không phải người khác? Ông có
nghĩ là họ căn cứ vào hành vi của ông trước 1975 và ngay miệng ông thốt ra năm
1981 không? Nghe ông nói đằng đằng sát khí cho cả thế giới nghe và từ đó kết luận
ông là đồ tể, đao phủ là vu không ư?
Tóm
lại, người ta muốn quên tội ác của CS năm Mậu Thân và cá nhân ông mà không được.
Mỗi năm nhà cầm quyền CSVN cứ ăn mừng biến cố đau thương ấy và vô hình chung họ
đã hại ông!
Tên ông và vài đồng bọn như Nguyễn Đắc Xuân… đã gắn liền với cuộc thảm sát Tết. Mậu Thân tại Huế. Mọi biện bạch đều vô nghĩa nếu thiếu can đảm, thành khẩn về tội ác của mình.
Tên ông và vài đồng bọn như Nguyễn Đắc Xuân… đã gắn liền với cuộc thảm sát Tết. Mậu Thân tại Huế. Mọi biện bạch đều vô nghĩa nếu thiếu can đảm, thành khẩn về tội ác của mình.
Bàn
tay dính máu dân lành không dễ rửa, nhất là không thể rửa bằng lá thư “mẹ rượt”
như vầy!
Phần
2: VÀI LỜI VỀ LẬP LUẬN BÌNH VỰC CHO HPNT CỦA NGUYỄN QUANG LẬP
Là
người cầm bút thì điều quan trọng nhất là trung thực. Khi viết về người thân, bạn
bè của mình cho công chúng đọc thì hãy bỏ qua mọi tình cảm riêng và tự đặt câu
hỏi vì sao sự kiện ấy dính vào con người ấy mà không là ai khác.
Không
thể dùng sự quan hệ anh em, đồng nghiệp (tôi cố tránh từ đồng chí) và dựa vào
quan hệ tình cảm với vợ chồng HPNT mà cho là mình đã “hiểu” hết. Không ai thú
nhận tội ác của mình cả, nhất là tội ác trời không dung, người không tha như tội
ác của CS hồi tết Mậu Thân.
NQL
đã tìm hiểu về HPNT qua hầu hết các cán bộ CS (như bí thư tỉnh ủy, trưởng ban tổ
chức…) để tin rằng HPNT không “dính” tới vụ thảm sát. Với những người bên phía
nạn nhân thì NQL cho là cực đoan, không đáng tin.
Tôi
tuy không quen biết ông Liên Thành và, nói thẳng, không thích “cái ta quan trọng”
của ông ta (đây là nhận xét cá nhân của tôi) nhưng nếu bảo giữa Liên Thành và
các cán bộ CS như Nguyễn Trung Chính, Lê văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân… thì tôi phải
tin Liên Thành hơn. Tuy vậy, nên nhớ rằng nhóm HPNT được cho là tội đồ của dân
Huế đã có từ lâu, ngay sau vụ thảm sát, chứ không phải căn cứ vào sách của Liên
Thành mới đây.
Về
nhà văn Nhã Ca, vợ chồng bà là những người đã kinh qua sự phán xét, sàn lọc của
dư luận, nhất là “dư luận văn học” Miền Nam. Và nếu ai đó sinh ra từ miền Bắc
thì nên tìm hiểu. Miền Nam, tức VNCH, không có chỉ đạo văn nghệ, không có thông
tin một chiều. Chúng tôi rất tự hào về một nền giáo dục khai phóng và nền văn
nghệ tự do tại miền Nam. Tôi không nói quá lời, những việc ấy rất dễ kiểm chứng.
Nói
thế để hiểu rằng bà Nhã Ca là người chúng tôi rất kính trọng, dĩ nhiên tôi tin
bà hơn bất cứ cán bộ CS nào, dù đó là văn thi sĩ như Trần Vàng Sao, Nguyễn Khoa
Điềm!
NQL
dẫn chứng một đoạn đối thoại trong một chương sách trong tác phẩm “Giải khăn sô
cho Huế” của Nhã Ca và kết luận rằng Nhã Ca cũng công nhận HPNT không có mặt tại
Huế! Nhã Ca còn sống và hy vọng bà sẽ lên tiếng. Riêng tôi nghĩ đối thoại của
hai nhân vật trong sách là “em không thấy Phủ” (tức HPNT) trong một đêm đó
không có nghĩa là Phủ không về. Phủ có thể về chỗ khác, đêm khác. Mặt khác, nếu
chị em bà Nhã Ca chẳng may thấy, gặp “anh” Tường thì chắc bây giờ là ngày giỗ
thứ 50 của họ rồi.
Vì
sao NQL tin vào đoạn đối thoại ngắn của một trang sách và mồm của các cán bộ CS
(mà ai cũng biết là thiếu thành thật, bị kiểm soát) hơn là tin vào lời nói của
chính HPNT khi trả lời đài truyền hình Mỹ? Ở chỗ khác, NQL lại bào chữa cho
HPNT qua nhân vật xưng “tôi” trong tác phẩm “Những ngôi sao trên đỉnh Văn lâu”
là do lời kể qua tài liệu của Nguyễn Đắc Xuân cung cấp. Tại sao dễ dàng tin
nhân vật đó không phải là HPNT? Tự truyện của y mà!
Lẽ
nào tự hào, khoe khoang thành tích trong suốt 50 năm rồi bỗng dưng chối bỏ lời
mình và bảo đó là “do hăng say cách mạng” lại có thể là một bằng chứng cho sự
vô can? Cả tin, ngu dốt hay thiếu liêm sỉ của một người viết?
Trong
một đoạn NQL viết, trích: “Nhân đây nói luôn, chính bà Tùng Chi- Nguyễn Đình
Chi- đã kể lại, Liên Minh của bà, ts Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường… mới
thành lập chưa làm được gì nhiều ở Mậu Thân 68. Duy có một việc làm rất đáng kể,
ấy là khi Chính quyền Cách mạng muốn lập toà án để xử “những tên nợ máu của
nhân dân”, Liên Minh đã can gián Chính quyền nên đình chỉ những toà án như thế.
Và chính quyền đã nghe theo“.
Và
đoạn khác thì, trích: “Ông Lê Minh nói một câu tôi không thể quên: ‘Tường
không về Huế, mà có về Huế cũng không có quyền hành chi đâu. Chức Tổng thư ký của
Tường, nghe thì oai thực chất là thư kí cho ông Hảo bà Chi mà thôi. Với cả Tường
không có khả năng làm điều ác’.”
Rõ
chán! Những lời kể trên nếu NQL không bịa ra thì cũng không đáng tin! Khi bảo
nhóm HPNT không có “thá” gì thì làm sao can ngăn được những cái đầu hiếu sát
trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy!
Sau
cùng, sở dĩ tôi bàn đến NQL vì ít nhiều tôi cũng đọc trang Quê Choa và có chút
cảm tình chứ như từ một anh bồi bút nào thì khỏi mất thì giờ. Tuy vây, sau khi
đọc bài biện hộ này của NQL, một ý nghĩ cố hữu trong đầu mà tôi muốn xoá bỏ lại
hiện về.
Đó
là lớn lên, được giáo dục trong lò CS thì khó thoát khỏi sự gian dối trong đời
sống mà trong văn giới gọi là bẻ cong ngòi bút! Cũng có người viết trung thực,
nhưng cực kỳ hiếm! Cực kỳ hiếm!
Riêng
với ông NQL, tôi nghĩ rằng ông nên ỉa vào mặt vợ chồng HPNT như ông viết nếu quả
thật “anh Tường” là tên đồ tể!
Vâng,
HPNT, Nguyễn Đắc Xuân là những tên đao phủ đất Thần Kinh. Đừng lạc quan tin rằng
sau lá thư xảo quyệt đó chuyện anh Tường sẽ đi vào quên lãng!
Ông
ta đã đi vào lịch sử xứ Huế như một kẻ gớm ghiết nhất! Chết vẫn chưa hết đâu!
Võ Thiêm
San
Diego, 10-2- 2018
-------------------------------
10-2-
2018
Hoàng
Phủ Ngọc Tường
9-2-2018
Tôi
đọc cho con gái chép một bài viết nhỏ này xin gửi tới bà con bạn bè thương mến,
những ai yêu mến, quen biết và quan tâm đến tôi. Còn những kẻ luôn đem tôi ra
làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành và bè đảng của ông ta, tôi
không muốn mất thời giờ đối đáp với họ. Dĩ nhiên bài viết này không dành cho họ.
Năm
nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những gì tôi
đã viết, đã nói, đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao nhiêu
cũng không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật. Duy nhất có một điều nếu
không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt. Ấy là câu chuyện Mậu thân 1968. Vậy
xin thưa:
1.
Mậu Thân 1968 tôi không về Huế. Tôi, ts Lê Văn Hảo và bà Tùng Chi (những người
lên chiến khu trước) được giao nhiệm vụ ở lại trạm chỉ huy tiền phương- địa đạo
Khe Trái ( Thuộc huyện Hương Trà- tỉnh Thừa Thiên)- để đón các vị trong Liên
Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế như Hoà thượng
Thích Đôn Hậu, cụ Nguyễn Đoá, ông Tôn Thất Dương Tiềm…lên chiến khu. Mồng 4 tết
tôi được ông Lê Minh (Bí thư Trị- Thiên) báo chuẩn bị sẵn sàng về Huế. Nhưng
sau đó ông Lê Minh báo là “tình hình phức tạp” không về được. Chuyện là thế.
Tôi đã trả lời ở RFI, Hợp Lưu, Báo Tiền Phong chủ nhật… khá đầy đủ. Xin không
nói thêm gì nữa.
2.
Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim “Việt Nam một thiên lịch
sử truyền hình” trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu thân Huế 1968,
trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.
Tôi
xác nhận đây là link clip tung lên mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn:
Để
chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng
tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham
gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến.
Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200
người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi
mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu …Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi
rút ra ..”. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không
phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một
việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.
Cũng
trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo vệ
cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã
nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó là sự
nguỵ biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu
thân 1968.
Tôi
đã nói rồi, nay xin nhắc lại:
Điều
quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế,
đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những
tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động
giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm
không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm
chiến tranh cách mạng.
3.
Từ hai sai lầm nói trên tôi đã tự rước hoạ cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm
tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng
cực đoan vu khống và qui kết tôi như một tội phạm chiến tranh.
Tôi
xin thành thật nhìn nhận về hai sai lầm nói trên, xin ngàn lần xin lỗi.
Sài
Gòn, ngày 1 tháng 2 năm 2018
Hoàng Phủ Ngọc Tường.
----------------------
Bản
copy :
Lời
cuối cho câu chuyện quá buồn
Hoàng Phủ Ngọc Tường
----------------------
A.
Đôi lời của Nguyễn Quang Lập:
Tôi
vốn là em kết nghĩa của chị Lâm Mỹ Dạ năm 1975, mặc nhiên là em kết nghĩa của
anh Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ 1989-1992 tôi làm phó cho anh Tường, anh em gắn bó
với nhau cho tới khi Tạp chí Cửa Việt bị ông Trần Hoàn cho tạm đình bản, anh Tường
về Huế, tôi ra Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi luôn coi anh Tường như người anh, người
thầy, gắn bó không rời với anh và gia đình anh.
Nói
vậy để biết tôi và anh Tường rất hiểu nhau. Mọi tâm sự lớn nhỏ riêng chung
chúng tôi đều nói với nhau, trừ chuyện mậu thân Huế 1968. Chuyện này có lý do
riêng của nó.
Năm
1968 tôi chỉ là chú học trò lớp 5 ở Quảng Bình, chẳng biết gì Mậu thân Huế 68
và cũng không mấy quan tâm. Tới năm 1988, tôi được Thành uỷ Huế mời tham gia viết
về Mậu Thân Huế 68, được phân công ghi lời kể của ông Nguyễn Trung Chính, lúc
đó là Trưởng ban tổ chức Tỉnh uỷ Bình Trị Thiên (Ông Chính còn sống và còn rất
tỉnh táo). Tôi còn gặp gỡ thêm nhiều người khác để nghe kể bổ sung câu chuyện của
ông Nguyễn Trung Chính, trong đó có ông Lê Minh nguyên là bí thư chiến trường
Trị- Thiên. Do đó tôi nắm khá tốt toàn cảnh Mậu thân Huế 1968.
Lúc
đó có nhiều xì xào về câu chuyện “thảm sát Mậu Thân Huế” và anh Tường dính líu
tới vụ này. Nên tôi không hỏi anh Tường, vì biết nếu hỏi thế nào anh cũng nói
không. Tôi chủ tâm đi hỏi người khác cho ra lẽ. Ông Nguyễn Trung Chính và tất cả
những ai ở Huế Mậu thân 68 mà tôi gặp gỡ hoặc tình cờ hoặc chủ ý đều cho tôi
hay Mậu thân Huế 68 anh Tường không về Huế hoặc là không hề thấy anh Tường ở Huế.
Có vài người cho hay họ nghe người này người kia nói “thấy bóng ông Tường”,
“nghe tiếng anh Tường”…. hoặc “thấy giống ông Tường”, không một ai, không một
bài viết nào xác thực anh Tường ở Huế trong tết mậu thân 1968.
Còn
như trong sách “Huế Thảm sát Mậu Thân” ông Liên Thành kể tù binh của ổng khai
Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế chủ tịch toà án nhân dân ở trường Gia Hội cùng với
2 thành ủy viên là Phan Nam, Hoàng Lanh… quả là câu chuyện tiếu lâm. Ông Tường
ngồi ghế chủ tịch toà án nhân dân mà dân Huế không ai biết, chỉ có ông Liên
Thành và tù binh của ổng biết(!)
Nhân
đây nói luôn, chính bà Tùng Chi- Nguyễn Đình Chi- đã kể lại, Liên Minh của bà ,
ts Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường… mới thành lập chưa làm được gì nhiều ở Mậu
Thân 68. Duy có một việc làm rất đáng kể, ấy là khi Chính quyền Cách mạng muốn
lập toà án để xử “ những tên nợ máu của nhân dân”, Liên Minh đã can gián Chính
quyền nên đình chỉ những toà án như thế. Và chính quyền đã nghe theo.
Về
câu hỏi: “Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt ở Huế mậu thân 68 hay không?”, tôi có
trong tay hai cuốn sách ra đời sau Mậu Thân Huế, những năm 1969-1971, viết về Mậu
thân Huế, đều với thể loại bút kí, đó là “Giải khăn sô cho Huế” và “Ngôi sao
trên đỉnh Phú Văn Lâu” đưa ra những thông tin trái chiều rất thú vị. “Giải khăn
sô cho Huế” của Nhã Ca, một cuốn sách cực chống cộng, đã dành gần hai trang kể
chuyện anh Tường ( dưới cái tên Phủ) để cho hay anh Tường không về Huế trong tết
mậu thân 68. Trong khi đó cuốn ”Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, một cuốn sách cực cách mạng, được tác giả viết với ngôi thứ nhất, mọi
việc diễn ra dưới mắt tác giả. Tuy nhiên giới văn nghệ Huế đều biết Hoàng Phủ
Ngọc Tường viết theo tài liệu của Nguyễn Đắc Xuân cung cấp. Cả anh Tường và anh
Xuân đều công khai chuyện này. Tôi tin điều này vì cũng chẳng có gì phải nói dối
ngoại trừ hai người muốn che giấu việc anh Tường về Huế. Nhưng nếu anh Tường về
Huế thật thì muốn giấu cũng chẳng được. Huế thì nhỏ, anh Tường thì quá nổi tiếng,
giấu làm sao được.
Dù
cuốn sách “Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu” đã được bạch hoá tác giả của nó sáng
tác theo tài liệu của người khác, cũng không vì thế mà khẳng định Hoàng Phủ Ngọc
Tường không có mặt ở Huế mậu thân 68. Tôi tiếp tục phỏng vấn nhiều người. Hồi
đó phỏng vấn không có ghi âm nên bây giờ dù có kể bao nhiêu cũng không mấy ai
tin, nên tôi không kể lại làm gì. Tôi chỉ nhớ nhất lời ông Lê Minh, ông nói
Liên Minh do ông Lê Văn Hảo làm chủ tịch chỉ là ngọn cờ cách mạng dựng lên để đối
thoại với Mỹ và Chính quyền Sài Gòn thôi, “Liên Minh mới thành lập, chưa được
tham gia chỉ huy chiến dịch Mậu Thân, ngoài lá cờ Liên Minh được treo ở Phú Văn
Lâu”. Ông Lê Minh nói một câu tôi không thể quên:”Tường không về Huế, mà có về
Huế cũng không có quyền hành chi đâu. Chức Tổng thư ký của Tường, nghe thì oai
thực chất là thư kí cho ông Hảo bà Chi mà thôi. Với cả Tường không có khả năng
làm điều ác”. Tôi nghe rất nhiều người nói câu này, bản thân tôi cũng tin vậy,
ai ở gần anh Tường cũng tin vậy.
Tôi
tin anh Tường không dính líu gì đến Mậu thân Huế 1968, dính líu tới cuộc thảm
sát lại càng không. Cuốn sách “Huế xuân 68” dày 344 trang nhắc tên hàng trăm
người tham gia mậu thân Huế 68, tuyệt không một dòng nào nói đến cái tên Hoàng
Phủ Ngọc Tường ( ngoại trừ khi kể chuyện ở chiến khu). Những nhân vật chủ chốt
tham gia chiến dịch mậu thân Huế đều có mặt trong cuốn sách, và không một ai
cho hay họ đã thấy hoặc nghe nói anh Tường từ chiến khu về Huế. Đủ cho tôi thấy
niềm tin của tôi là có cơ sở.
Cho
tới một ngày tôi được xem clip phát tán trên mạng về bản gốc cuộc phỏng vấn của
đoàn làm phim “Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình”. Thú thật tôi sốc rất nặng.
Anh Tường nói những gì tôi có thể hiểu, anh muốn gửi thông điệp của anh tới ai
tôi cũng hiểu, nhưng cái “liếm môi huyền thoại” và ánh mắt láo liên của anh trước
cuộc phỏng vấn thì tôi không thể hiểu nổi. Biết anh đã hết sức bối rối khi đứng
giữa sự thật và “ý đảng”, tổ chức mà anh đang nguyện phấn đấu, dù thế nào hành
vi ấy cũng thật đáng ngờ. Từ đó tôi lẳng lặng tìm kiếm sự thật, để nếu anh Tường
đúng là kẻ sát nhân như đồn đại thì tôi sẽ ỉa vào mặt anh và bỏ ra Hà Nội không
thèm làm phó cho anh, cũng chẳng chị em kết nghĩa với chị Dạ gì nữa. Ba mạ tôi
làm điều ác tôi cũng không tha thứ, đừng nói anh Tường.
Mặc
dù vậy, càng tìm hiểu tôi càng thấy anh Tường vô tội. Lý do thật đơn giản là
anh Tường không có mặt ở Huế mậu thân 1968. Anh cũng chẳng có một cái quyền chỉ
huy từ xa nào dù nhỏ. Nghĩa là anh Tường vô can mọi sự xaỷ ra ở Huế trong suốt
thời gian xảy ra chiến dịch mậu thân 1968. Tội lớn nhất của anh Tường là ở cái
clip kia. Nói cách khác, không có cái clip kia thì anh Tường không có tội gì hết.
Tuy
nhiên để chứng minh anh Tường vô tội không phải dễ. Tất cả những ai làm nhân chứng
đều bi coi là không đáng tin. Người sát cánh bên anh Tường từ 1967-1971 là Nguyễn
Đắc Xuân thì bị coi cùng một giuộc “đồ tể”. Tô Nhuận Vĩ, Trần Vàng Sao, Trần
Nguyên Vấn, Nguyễn Khoa Điềm đều là bạn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Họ nói gì
nói thế nào cũng bị nghi ngờ bao che cho Hoàng Phủ Ngọc Tường. Còn như những
lãnh đạo thời đó như Lê Minh, Lê Văn Hảo, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Vạn, Hoàng
Lanh… thì có nói bao nhiêu người ta cũng bảo cộng sản dối trá. Và vì anh Tường
không về Huế nên chẳng biết tìm ai phía bên kia để làm nhân chứng về cái sự
không về Huế ấy. Không lẽ lại hỏi: Ai biết Hoàng Phủ Ngọc Tường không về Huế dơ
tay lên?
Vào
khi tôi cực kì bế tắc trong cuộc giải toả tội trạng cho Hoàng Phủ Ngọc Tường
thì chiều ngày 23 tết, tức ngày 08/02/2018 anh Tường cho con gái gọi tôi sang
nhà đem cho bài viết này. Anh nói: “Nhờ Lập đăng bài này trước giao thừa.” anh
chỉ nói vậy thôi, không nói gì thêm. Tôi hiểu anh muốn kết thúc câu chuyện quá
buồn này trong năm nay, để từ năm sau trở đi nhà anh, con cháu anh, bạn bè anh…
và những người yêu mến anh sẽ không còn phải nghe sự chửi rủa nửa thế kỉ qua.
Mong
là như vậy nhưng khó lắm. Sẻ chia cảm thông có rất nhiều nhưng ác ý cay nghiệt,
đục khoét nhấm nháp nỗi đau của người khác cũng nhiều không kém. Luôn luôn là vậy.
Đời mà.
Với
tôi, câu chuyện Mậu thân Huế 68 vẫn còn và còn mãi cho tới khi nào Nhà nước
chính thức công bố sự thật nửa thế kỉ qua hoặc một uỷ ban điều tra quốc tế được
thành lập để làm rõ trắng đen, còn câu chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường có dính mậu
thân Huế 68 hay không đã chấm dứt kể từ khi anh Tường cho công bố bài viết này.
Sài
Gòn ngày 9/2/2018
Nguyễn Quang Lập
____
B. Tư
liệu Tham Khảo
Chung
quanh việc Mậu Thân Huế và Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều bài nhưng hầu hết
chỉ là những bài viết thiên về cảm tính, ức đoán hoặc qui chụp… lặp đi lặp lại
của phía cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường có gây tội ác ở Huế. Thậm chí có nhiều
bài vu khống trắng trợn, mạt sát Hoàng Phủ Ngọc Tường rất nặng nề. Loại bài vở
này có rất nhiều ở google, bất cứ ai cũng tìm kiếm được. Ở đây tôi chỉ xin dẫn
ra một số bài để chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt ở Huế mậu thân 68
và vì sao lại như vậy, để mọi người một biết một kênh thông tin mà tôi truy tầm
được. Hãy xem đây như một chiều thông tin cho mọi người thẩm định để đưa ra
đánh giá của mình.
1. Giải
khăn sô cho Huế- Nhã Ca- Chương 10
Đoạn
trích dưới đây thuộc chương 10 của cuốn sách. Nhân vật Phủ được tác giả công
khai cho biết đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
“Có
người nói Ðắc với Ðoan với Ngọc cùng trốn một lượt. Lần này Ðắc trở về, chắc Ngọc
và Phan cũng trở về rồi. Tôi thầm lo ngại, ngày trước Phủ có một cô nhân tình
cũng ở trong thành nội này, sau khi Phủ đi ít lâu, cô tình nhân đã vội thay
lòng đổi dạ theo một người khác. Ngoài việc bị khổ sở vì trốn tránh, Phủ còn mất
luôn người yêu nữa. Lần này nếu trở về, chắc Phủ sẽ đau khổ ghê lắm. Liệu chuyện
gì sẽ xảy ra? Tôi hỏi gặng mãi em gái tôi có nhìn thấy Phủ không. Có ai nhìn thấy
Phủ không? Nó quả quyết là nó không thấy, cả bạn bè của nó đi họp cũng nói
không thấy. Tôi hơi yên tâm và mừng thầm cho kẻ phản bội. Nếu Phủ trở về, thêm
một mối thù hận nữa, cô bé thay lòng kia chắc cũng không tránh được hậu quả
thương tâm. Nhưng em gái tôi cười gượng:
“Anh
tưởng về tới Phủ mới biết răng! Em tin là Phủ không chấp nhận mô. Nhưng Phủ và
Ngọc không có mặt ở nội thành.”
2. Thuỵ
Khuê nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu thân ở Huế- RFI-12-1997
Đây
là bài Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời pv khá đầy đủ xung quanh Mậu thân Huế và
vai trò của anh, anh ở đâu làm gì khi chiến dịch xảy ra.
3.
Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường- Đặng Tiến- Thông Luận 1/1995
Trên
Thông Luận tháng 11-1994, mục Tạp ghi, trang 31, bạn Nguyễn Gia Kiểng đã có đoạn
viết quá đáng về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi xin được bổ túc, một mặt để
bạch hóa trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường, mặt khác đả thông quan hệ giữa nhừng
người, không nhiều, trong và ngoài nước, hiện đang đấu tranh cho dân chủ, trong
gian nan và đơn lẻ.
Bạn
Kiểng lấy lý do trả lời Đinh Quang Anh Thái, một cộng tác viên Thông Luận. Ngay
khi đăng câu hỏi, là có ác ý với Hoàng Phủ Ngọc Tường : « Nghĩ thế nào về
trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh ta có trách nhiệm lớn trong vụ thảm sát tại
Huế, nhưng giờ đây lại xuất hiện như một khuôn mặt trí thức tiến bộ ».
Nguyễn Gia Kiểng trả lời lấp lửng : « Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ cho mượn
tên chứ có lẽ không có trách nhiệm trực tiếp nào… ». Sự thật là : khi xảy
ra vụ Mậu Thân 1968, Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt tại Huế, điều này đã được
chính đương sự khẳng định, và nhiều người trong cuộc xác nhận từ lâu. Trong một
bài ký viết năm 1978, Nguyễn Đắc Xuân đã kể lại lúc được lệnh từ chiến khu về
Huế : « Chuyện giận nhau xảy ra giữa tôi và Tường – người bạn thân nhất của
tôi – lý do đơn giản : tôi có trong danh sách xuất quân đợt 1, trong lúc đó Tường
được cử làm tổng thư ký Mặt Trận Liên Minh, ở lại chiến khu chuẩn bị đón các vị
nhân sĩ ở Huế sắp ra (trong đó có Lê văn Hảo, bạn cũ của chúng tôi). Lúc cầm
cái lệnh xuất quân trong tay, tôi không còn đủ kiên trì để ngôi vỗ vỗ chà chà
(…) in cho xong tập thơ Nổi Lửa. Tường trách tôi nôn nóng ra đi, để việc in dở
dang cho người ở lại. Thế là chúng tôi giận nhau. » (Huế, những ngày nổi dậy,
nxb Tác Phẩm Mới, Hà Nội, 1979, tr.82). Chính Lê văn Hảo cũng xác nhận điều đó
trong một bài ký khác (Huế, Xuân 68, nxb Thành Ủy Huế, 1988, tr. 241) và trong
một tuyên bố gần đây tại Paris, trên báo Quê Mẹ. Thời điểm Mậu Thân 1968, Lê
văn Hảo làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Minh, bà Nguyễn Đình Chi làm phó chủ tịch đã
ghi lại : « Những ngày cuối tháng hai đầu tháng ba năm 68 thật bận rộn.
Các cơ quan văn hóa văn nghệ ở căn cứ thăm chúng tôi luôn… Anh Lê văn Hảo và
anh Thuyết (tức là nhà văn HP) đến thăm… » (Huế, Xuân 68, sđ d, tr.
254-255). Bà Nguyễn Đình Chi lên đến chiến khu Khe Trái ngày 18 tháng 2. Hòa
Thượng Thích Đôn Hậu đến ngày 19 tháng 2-1968, nghĩa là đúng thời điểm xảy’ ra
vụ thảm sát Mậu Thân, vậy họ cùng với Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt tại Huế.
Hoàng
Phủ Ngọc Tường cũng không « cho mượn tên » như Nguyễn Gia Kiểng nói.
Lúc đó, anh tranh đấu thật sự cho một lý tưởng, mà anh và nhiều người khác cho
là đúng, và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho lý tưởng đó, chứ không phải chỉ «
cho mượn tên ».
Sau
đó, Nguyễn Gia Kiểng còn bồi thêm cho Tương một nhát dao trí mạng : « Điều
kinh khủng gấp nhiều lần là, hơn mười năm sau đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn
tuyên bố, trong một phim truyền hình được chiếu tại Mỹ và tại Pháp, rằng những
nạn nhân đó chỉ là những tên phản bội, và (lời Hoàng Phủ Ngọc Tường) «
cách mạng giết chúng cũng như giết loài rắn độc mà thôi ». Tôi đồng ý với
bạn Kiểng rằng một câu nói như vậy là vô đạo, không thể chấp nhận được. Và tôi
tìm hiểu. Tôi hỏi Tường : ông nói câu ấy thời điểm nào, hoàn cảnh nào ? Thì
đương sự không nhớ, chỉ nhớ là có trả lời một phóng viên Mỹ, trong một bài phỏng
vấn dài, mà câu trên chỉ là trích đoạn, rời khỏi văn mạch. Trên bộ phim, ngày
nay còn có thể kiểm chứng, thì đại ý là : « Dân chúng tích lũy thù hận quá
lâu, đã vùng dậy trả thù và giết họ như loài rắn độc ». Bạn Kiểng trích vội,
thành ra « Cách mạng giết họ… » lại càng xa nguyên ý. Hình tượng « rắn
độc » hết sức thô bạo, nằm trong ngôn từ cộng sản, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từ vị
trí tiêu thụ, trở thành nạn nhân và tòng phạm. Hãy nghe ông Tố Hữu nói về Nhân
Văn Giai Phẩm, những người từng ăn một mâm, nằm một chiếu, đã từng « chia
củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng » (Việt Bắc), ông bảo
« đánh rắn phải đánh đập đầu, đánh tận hang, diệt tận trứng »
(4-6-1958). Trong đám « rắn » này có Phùng Quán, cháu gọi ông bằng cậu ruột. Rồi
ông Hoài Thanh, bàn thêm tán rộng : « Vấn đề là phải tẩy trừ những nọc đọc
bọn họ phun ra. Những luận điệu (..) chạy rông như chuột dịch… Trong khi Bạch Tố Trinh
khao khát được làm người thì thứ rượu tai ác kia bắt nàng trở lại nguyên hình
kiếp rắn » (Tuyển Tập II, nxb Văn Học, Hà Nội, 1982, tr.324-325). Tôi chọn
trích dẫn Tố Hữu, Hoài Thanh ở cấp lãnh đạo cao nhất, chứ ở lớp văn nghệ cung
đình điếu đóm thì không thiếu gì văn thơ rắn rết và chuột dịch như thế.
Dĩ
nhiên, dưới bất cứ hình thái nào, một câu nói như trên vẫn không chấp nhận được
vì nội dung vô đạo của nó. Nhưng chúng ta còn nhớ sau ngày nước Pháp giải
phóng, một người hiền hòa và độ lượng như Albert Camus mà đã tuyên bố :
« Một nước thất bại việc thanh lọc thì thất bại việc canh tân » (Un
pays qui manque son épuration manque sa rénovation), báo Combat ngày 5-1-1945.
Lời lẽ văn hoa, nhưng nội dung cũng đại khái vậy thôi.
Bạn
Nguyễn Gia Kiểng còn trách Hoàng Phủ Ngọc Tường « chưa hề công khai hối
tiêc câu nói đó. Có thể sau này sẽ xin lỗi ». Thật ra, những câu nói vô ý
thức, người nói dễ quên, và đương sự cũng đã quên béng nói đi rồi. Hơn nữa, đất
nước sau bao nhiêu chìm nổi, con người đã làm việc nọ, nói việc kia, biết đâu
là sai là đúng. Bây giờ thì ai có quyền hỏi tội, và ai có quyền tha thứ ? Phạm
Công Thế, một danh sĩ khởi loạn thời Lê, trước khi ngửa cổ chịu chém, còn trả lời
triều đình : « Lâu nay danh phận không rõ, lấy gì phân thuận nghịch ?
». Hoàng Phủ Ngọc Tường có nông nổi nói sai, thì từ đó đến nay đã đem cuộc đời
mình ra để đấu tranh cho tự do dân chủ, làm báo Sông Hương tại Huế, 1989, bị dẹp,
chạy ra Quảng Trị làm Cửa Việt, cũng bị dẹp. Trả lời Tào Tháo kể lể công ơn,
Quan Vân Trường đáp rằng chém Nhan Lương, giết Văn Xú, là đủ lễ, bây giờ lấy
hai tờ Sông Hương và Cửa Việt ra chuộc lời nói vô ý thức thốt ra trong bóng chạng
vạng giữa sói và cầy, vô tình lọt lên màn ảnh Phương Tây, chưa đủ lễ sao ?
Cuối
cùng bạn Kiểng kết luận rằng : « Sẽ không ai có thể thuyết phục được tôi rằng
một người như Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức ». Ai trí thức ai không
trí thức, trên cõi đời này, ai công đâu mà đi thuyết phục ai những chuyện trần
ai như vậy ?
Đấu
tranh cho dân chủ, chúng ta làm việc đội đá vá trời. Sức yếu thế cô, chúng ta
phải tranh đấu với một chế độ đã nhiều vũ lực lại lắm mưu cơ. Đã thế, khi đánh
vào thành đồng vách sắt kia, chúng ta chỉ đánh bằng một tay, mà là tay trái,
còn tay phải thì thủ sau lưng, đề phòng đánh nhau, hoặc khều nhau chơi. Ví dụ,
sau vụ Hoàng Phủ Ngọc Tường, thì Thông Luận khều sang Phan Đình Diệu. Trong bài
« Đảng Cộng sản và phương pháp cây kiểng » (tháng 12-1994), ông (bà)
Mai Chi nào đó đã vi vu : « Một trí thức đảng viên rất có tiếng vì kiên
trì xin đảng bố thí dân chủ cho mọi người (..) đã trả lời trước một số anh em
có mặt hôm ấy rằng anh ta lúc nào cũng làm hai báo cáo : một báo cáo chân thật
theo tình thực tế, một báo cáo theo ý thích các cụ (..) Anh ấy là
Phan Đình Diệu ». Theo chỗ tôi biết, anh Diệu không phải là đảng viên, lại
càng không phải là người hai lưỡi. Dân chủ, và những quyền làm người khác, chưa
bao giờ là của bố thí trong lịch sử nhân loại, và cộng sản chưa bao giờ bố thí
cái gì cho ai trong lịch sử đảng dài non thế kỷ. Phan Đình Diệu đấu tranh cho
dân chủ, tiếng nói vang vang trên nhiều diễn đàn trong và ngoài nước, không làm
chuyện « kiên trì xin bố thí ». Nếu lấy hình ảnh ăn mày, ta chỉ có thể xếp Phan
Đình Diệu vào hàng ngũ những « anh em khất thực trong dòng khổ tu Cách Mạng »,
ces frères de l’ordre mendiant de la Révolution, như những nhân vật của André
Malraux trong La Condition Humaine.
Báo
Thông Luận trong tinh thần hòa giải và hòa hợp, trong cuộc đấu tranh cho dân chủ
nên tránh khơi dậy hận thù và gây hiềm khích, chia rẽ giữa những người dù không
đi cùng đường, cùng nhìn về một hướng.
Đặng Tiến
Noel
1994
4. Cái
hoạ của người nổi tiếng– Thanh Tùng thực hiện-Đăng lần đầu ở Báo Tiền
Phong chủ nhật số 18 (từ 28/4-4/5/2008)
Phỏng
vấn này nói rất rõ về cuốn “Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu” vì sao lúc đầu lấy
tên Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân, về sao chỉ có tên Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
5. Ký
ức Mậu thân 68 và lời cầu nguyện cho những linh hồn đã khuất – Phỏng vấn nhà
văn Trần Nguyên Vấn – Báo Dân Việt online 03/02/2018
Trích:
“Như ông vừa nói thì lúc đó có cả nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, vậy thực tế ông
Hoàng Phủ Ngọc Tường có trở về Huế trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu
Thân 1968?
-Anh
Hoàng Phủ Ngọc Tường là bạn thân của tôi từ khi học Trường Trung học Khải Định ở
Huế, niên khóa 1953-1954, anh Tường học đệ tư B3 tôi học đệ tứ B6. Khi chúng
tôi thi bằng Diplom thì Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trương Quang Minh là người đỗ
nhất nhì.
Tháng
6 năm 1967, tôi vào chiến trường, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường thay mặt ban Tuyên
giáo đi đón tôi và chúng tôi cùng ở, làm việc với nhau. Sau đó tôi lên khu ủy
làm việc mấy tháng rồi quay trở lại ở cùng các anh Hoàng Phủ Ngọc Tưởng, Hoàng
Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Lê Khánh Thông. Lúc đó, chúng tôi làm
tờ báo “Cờ giải phóng” và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường là Tổng thư ký Liên minh dân
tộc dân chủ hòa bình thành phố Huế. Nhiệm vụ anh Tường được giao rất vất vả,
luôn túc trực máy ghi âm, ghi chép để làm những lời kêu gọi, hưởng ứng các chủ
trương của trong Nam ngoài Bắc và viết các tuyên bố sự việc xảy ra ở Huế, cho
nên anh Tường rất bận rộn và anh không về Huế trong dịp Mậu Thân.
Sau
này, tôi có đọc được những bài viết nói anh Tường lập toà án Huế để xử và gây
ra những vụ thảm sát ở Huế. Bản thân tôi năm 2002, sang Mỹ 3 tháng, tôi cũng gặp
một số bạn bè và nhiều người hỏi tôi về anh Hoàng Phủ Ngọc Tường thì tôi cũng
đã từng trả lời là anh Tường không về Huế và không có mặt ở Huế trong sự kiện Mậu
Thân.
Sơ
xuất xảy ra từ khi anh Tường nhận tài liệu của anh Nguyễn Đắc Xuân để viết
“Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”, anh đã tả những cảnh đẫm máu như là người
trong cuộc. Sau này nhiều người cứ vin vào câu nói anh viết rằng: “anh đi trong
thành nội, đi ở dưới bùn nhưng mà đấy thực chất là máu…” chính sự thiếu cẩn trọng
khi viết đã để xảy ra điều đáng tiếc, chứ bản thân anh Tường là một người tham
gia phong trào đấu tranh năm 1966, sau đó lên rừng hoạt động và trở thành cây
bút chiến đấu dũng cảm, kiên trì. Anh viết văn và bút ký của anh rất hay, là
người gắn bó với phong trào, sống hết lòng với công việc của mình.
Thời
gian ở trong rừng điều kiện khó khăn lắm, nhưng mỗi lần phải suy nghĩ để viết
thì rất vất vả, thèm thuôc lá mà không có thuốc hút anh còn phải lấy rau tàu
bay, hơ lửa để cuốn thành điếu thuốc. Những lời độc địa được thêu dệt thêm, hoặc
chỉ dựa vào một vài thông tin để bịa đặt là điều khó chấp nhận.
Thực
tế, anh Tường vất vả để lo lời tuyên bố, lời kêu gọi nên đã không về Huế. Bản
thân anh Tường khi viết hồi ký cho tướng Lê Minh, chỉ huy chiến dịch mà trong
cuốn Huế – Xuân 68 có trích: “Rốt cuộc là đã có những người bị xử lý oan trong
chiến tranh. Dù lý do thế nào thì trách nhiệm vẫn thuộc về lãnh đạo, trong đó
có trách nhiệm của tôi. Nhiệm vụ này bây giờ của cách mạng là phải minh oan cho
gia đình con cái của những người đã chết, trong hoàn cảnh như vậy, trong khi luật
pháp cách mạng chưa hề có ý định xử họ vào tội chết; có một người phải minh oan
cho một người, có một trăm người cũng phải minh oan cho một trăm người. Đó là lẽ
phải và tình thương, quần chúng sẽ thông cảm và không bao giờ lẫn lộn đen trắng”.
6. Nhà
báo Minh Tự phỏng vấn một số nhân vật tham gia Mậu Thân Huế 1968.
Nhà
báo Minh Tự đã giúp tôi (NQL) phỏng vấn các nhân chứng về việc ông Hoàng Phủ Ngọc
Tường có về Huế trong Tết Mậu Thân hay không. Bản Phỏng vấn có ghi âm rất dài,
dưới đây là những tóm lược chính từ băng ghi âm:
1/
Ông Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa – lịch sử, hiện đang
sống tại Huế. Ngày 28-1-2018, ông Xuân đã trả lời:
Tôi
xin khẳng định một lần nữa: ông Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt ở thành phố
Huế trong những ngày Tết Mậu Thân 1968. Điều này tôi đã nói nhiều lần, đã viết
trong nhiều bài báo, đã in trong sách hồi ký “Từ Phú Xuân đến Huế” (Nxb Trẻ,
2012), đã đăng trên Facebook của tôi.
Vì
sao ông Tường lại không về Huế trong những ngày mà hầu như các lực lượng trên
chiến khu đều có mặt ở thành phố Huế để tham gia cuộc tổng tấn công và nổi dậy?
Để trả lời câu hỏi này, tôi phải kể lại câu chuyện sau đây, cho rõ ngọn ngành.
Tôi
và Hoàng Phủ Ngọc Tường vốn xuất thân trong phong trào đấu tranh đô thị. Sau bị
chính quyền Sài Gòn truy nã, chúng tôi đã thoát ly lên rừng theo Mặt trận Giải
phóng, vào tháng 7-1966. Cả hai chúng tôi được Thành ủy Huế bố trí làm báo Cờ
Giải Phóng. Đến cuối năm 1967, chúng tôi được gọi vào gặp Thường vụ Thành ủy
báo cáo về phong trào đấu tranh đô thị ở Huế. Thành ủy đánh giá phong trào này
rất tiến bộ và cho biết Trung ương có chủ trương thành lập thêm một Mặt trận thứ
hai gồm các vị nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà tu hành, doanh nhân liên
minh với Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam để đấu tranh giải phóng đất nước.
Đó là Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Thành phố Huế.
Hoàng
Phủ Ngọc Tường là người văn hay chữ tốt, đã chấp bút hoàn thành bản thảo Cương
lĩnh cho Liên minh. Ông Tường cũng viết thư mời TS Lê Văn Hảo – giáo sư Đại học
Văn khoa và Đại học Sư phạm Huế – tham gia Liên minh này. Ngoài ra, Thành ủy Huế
còn mời hòa thượng Thích Đôn Hậu, bà Nguyễn Đình Chi… Sau đó, Liên minh này của
Huế được thành lập, giáo sư Lê Văn Hảo làm Chủ tịch Liên minh, hòa thượng Thích
Đôn Hậu và bà Nguyễn Đình Chi làm phó chủ tịch, Hoàng Phủ Ngọc Tường làm Tổng
thư ký.
Liên
minh thành lập, nhưng mới chỉ có ông Lê Văn Hảo từ Huế ra chiến khu vào khoảng
cuối tháng 1-1968, các vị còn lại phải sau khi đã chiếm được thành phố mới ra
được chiến khu. Thành ủy Huế đã đào một địa đạo xuyên núi ở Khe Trái phía tây
huyện Hương Trà để làm nơi ở và làm việc của Liên minh. Địa đạo Khe Trái là cơ
quan bí mật của Thành ủy Huế, ai không có trách nhiệm làm việc với Liên minh
thì không được vô. Vì vậy, nhiều người có hoạt động trên chiến khu nhưng vẫn
không biết chỗ này. Bây giờ địa đạo Khe Trái vẫn còn đó, đã thành di tích lịch
sử.
Trong
những ngày diễn ra trận chiến Tết Mậu Thân ở TP Huế, ông Tường là Tổng thư ký của
Liên Minh nên phải ở tại địa đạo Khe Trái để đón những vị còn lại của lãnh đạo
Liên minh từ thành phố Huế đang chuẩn bị lên. Các vị lãnh đạo Liên minh lớn tuổi,
lại mới lên rừng nên mọi việc của Liên minh đều trong tay anh Tường. Ngoài hòa
thượng Thích Đôn Hậu và bà Nguyễn Đình Chi, còn có cụ Nguyễn Đóa, ông Tôn Thất
Dương Tiềm, ông Nguyễn Thúc Tuân.
Sau
Tết Mậu Thân 1968, vùng chiến khu Thừa Thiên Huế bị bom đạn dữ dội. Khoảng đầu
tháng 3-1968, đoàn Liên Minh phải lên tá túc ở chiến khu Trị Thiên giáp biên giới
Lào. Đến tháng 7-1968 thì được đưa ra Hà Nội. Nhưng tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường
vẫn ở lại Khe Trái, sau đó cùng làm báo Cứu lấy quê hương.
Ông
Tường ở đó, không ra đến cửa rừng nữa là về Huế, mà sao người ta cứ nghĩ là ông
có về Huế, cũng là vì một chuyện khác có liên quan đến tôi. Đầu năm 1969, chúng
tôi dự Đại hội văn nghệ Trị Thiên. Sau đai hội tình hình ở Thành ủy Huế đang gặp
khó khăn, không về được, chúng tôi gồm Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Nguyễn Hữu Vấn, Lê Công Cơ, Trần Thân Mỹ bày ra viết chuyện Mậu Thân. Chúng tôi
đều về Huế tham gia chiến dịch Mậu Thân nên có chuyện để viết, còn ông Tường
không về Huế nên phải khai thác tư liệu do tôi ghi chép về những thanh niên Huế
giữ cột cờ Thành Nội Huế những ngày Tết Mậu Thân. Cái bút ký mà tôi phác thảo ban
đầu đặt tên là “Ngọn cờ trên đỉnh Phu Văn Lâu”. Ông Tường viết lại và đặt tên
là “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”. Tường viết câu chuyện này theo thể loại
bút ký văn học, tức là có hư cấu. Viết xong gởi ngay cho Nhà xuất bản Giải
phóng in luôn; không đưa cho tôi xem, nên tôi không biết anh viết cái gì trong
đó. Người ta đọc bút ký đó và thấy rõ ràng là ông Tường có về Huế, đi trên những
con đường đầy máu. Những chi tiết đó là do ông Tường tưởng tượng ra để viết bút
ký văn học, chứ có phải là bài viết về sử đâu mà nói là người thật việc thật.
Cũng phải nói thêm là vị trí của ông Tường khi đó quan trọng lắm, Tổng thư ký
Liên minh, nên các phát ngôn của ông là theo quan điểm của Liên minh.
Từ
khi lên rừng đến năm 1973 ra Quảng Trị làm Trưởng ty Văn hóa, ông Tường chưa
bao giờ về lại Huế.
Trong
những ngày lực lượng Giải phóng chiếm thành phố, người ta có nghe lời kêu gọi của
Liên minh, do ông Lê Văn Hảo và Hoàng Phủ Ngọc Tường đọc. Vì vậy, người ta càng
tin rằng ông Tường có mặt ở Huế. Nhưng mà lời kêu gọi đó là băng ghi âm lời của
mấy ổng ở trên rừng mang về phát lại.
2/ Ông
Nguyễn Trung Chính – nguyên phó bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế, vào
thời điểm Tết Mậu Thân, sau khi thành lập chính quyền nhân dân cách mạng, ông
Chính làm Bí thư quận 1 – Tp Huế, tức khu vực Thành Nội. Hiện ông Chính đang
còn sống, nhà riêng 56 Hùng Vương – Huế. Ngày 29-1-2018, ông Chính cho biết:
Vào
thời điểm diễn ra chiến dịch Mậu Thân, tôi ở tuyến trước, anh Hoàng Phủ Ngọc tường
ở tuyến sau, nên tôi không rõ lắm. Nhưng lúc đó tôi biết anh Tường là Tổng thư
ký Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình. Khi chiếm được thành
phố, thành lập chính quyền nhân dân cách mạng, tôi làm Bí thư quận 1, tức khu vực
Thành Nội, anh Nguyễn Hữu Vấn làm chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng quận 1.
Anh Hoàng Phủ Ngọc Phan – em trai anh Tường – có tham gia trong ủy ban này. Tại
đây, còn có anh Nguyễn Đắc Xuân, phụ trách đội công tác thanh niên. Còn có nhiều
người về Huế nữa, nhưng tôi không thấy anh Tường.
3/
Ông Nguyễn Đính, tức nhà thơ Trần Vàng Sao, từng là sinh viên Huế, tham
gia phong trào tranh đấu bị chính quyền Sài Gòn truy nã nên thoát ly lên chiến
khu năm 1965, hoạt động ở đơn vị công tác thanh niên thuộc Thành ủy Huế. Hiện
ông Đính đang sống tại phường Vĩ Dạ – TP Huế. Câu trả lời này ghi vào ngày
14-8-2016.
Tường
chưa bao giờ về Huế cả. Tường ở với tui trên rừng. Tết Mậu Thân, Tường không về
Huế, tui bảo đảm như rứa, tui làm chứng. Còn sau đó đi mô tui không rõ. Hoàng
Phủ Ngọc Phan thì có về Huế. Sau khi rút khỏi Huế lên lại rừng, Phan có gặp
tui, nói Nhân ơi, tau đã về Huế, đã nhìn thấy cầu Trường Tiền. Nhân là bí danh
của tui, còn Tường thì có bí danh là Thuyết.
4/
Ông Nguyễn Thúc Tuân, nguyên thầy giáo Trường nữ trung học Đồng Khánh – Huế,
nguyên thành viên Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình năm
1968, hiện đang sống tại Thành Nội – Huế. Trong tết Mậu Thân, ông Tuân là cơ sở
của cách mạng, sống tại Huế. Sau tết thì ông lên chiến khu Khe Trái cùng với
các ông Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, để tham gia Liên minh.
Vào
tháng 12-2015, trong lần trả lời nhà báo Phạm Xuân Dũng (Đài PT-TH Quảng Trị),
ông Tuân khẳng định tết Mậu Thân ông Tường không về Huế. Ông Tuân nói ông là đầu
mối hậu cần của Thành ủy Huế để đón lực lượng trên rừng về Huế, nên những người
trên rừng về là ai, ông đều biết. Ông không thấy ông Tường trong số những người
trên rừng về Huế. Và ngay sau tết, ông Tuân lên chiến khu Khe Trái thì đã thấy
ông Tường ở đó cùng với ông Lê Văn Hảo, để đón ông cùng các vị khác từ Huế ra
tham gia Liên minh.
7. Bi kịch
Hoàng Phủ Ngọc Tường- Ngô Minh- Talawas 2008
Bài
viết cho biết khi trong những ngày tết Mậu thân Huế người ta thu âm lời hiệu
triêụ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, cho lên xe phát thnh khắp Thành phố. Vì thế nhiều
người nhầm là Hoàng Phủ Ngọc Tường về Huế.
8.
Sự thật về 3 nhân vật bị kẻ thù gọi là “đồ tể khát máu”: Sự vu khống tráo trở…
– Phan Bùi Bảo Thi- Báo An Ninh Thủ Đô ngày 12/1/2003
Bài
này viết kĩ về lai lịch ông Liên Thành và cái gọi là kì án Hoàng Kim Loan, kẻ
đã “ thấy” Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế chủ tịch toà án nhân dân ở Trường Gia
Hội.
9.
Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, Tường và tôi
Trần
Nguyên Vấn
Đây
là bai viết mới nhất anh Trần Nguyên Vấn vừa viết chưa ráo mực, chưa in ở báo
nào.
Nếu
khoá 1953 -1954 Hoàng Phủ Ngọc Tường học lớp Đệ tứ B1, tôi là Trần Nguyên Vấn học
lớp Đệ Tứ B6 trường Trung học Khải Định ( Quốc học Huế). Kỳ thi tốt nghiệp
Trung học đệ nhất cấp ngày 28 tháng 5 năm 1954, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trương
Quang Minh thi đậu cao nhất. Ở trường Khải Định hồi đó, chúng tôi thường chơi với
nhau.
Sau
hiệp nghị Genève tháng 7 năm 1954, tôi xin gia đình đi ra Bắc tiếp tục đi học.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Sài Gòn khoá I, ban Việt
Hán (1960), Cử nhân Triết Đại học Văn Khoa Huế ( 1964). Từ năm 1960 đến 1966,
anh dạy ở trường Quốc học Huế. Năm 1966, anh lên chiến khu Trị- Thiên.
Tháng
6 năm 1967, từ Hà Nội vào chiến trường Trị Thiên Huế. Thật bất ngờ và vui sướng
khi tôi được Hoàng Phủ Ngọc Tường và nhà báo Ngô Kha sinh viên ngành Sử ở trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội mà tôi từng quen biết – ra đón ở Trạm giao liên để đưa
về Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế. Tôi đã làm báo Cờ Giải Phóng của Uỷ ban Mặt trận
dân tộc giải phóng thành phố Huế cùng với các anh Thanh Hải, Ngô Kha, Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Khánh Thông, Nguyễn Đính ( Trần Vàng Sao)…
Có
lần Tường và tôi đi gùi gạo. Một buổi trưa, có cụ già người PaKô mời chúng tôi
uống rượu đoác và trò chuyện thân tình. Hôm sau, không thấy tôi đi cùng Tường,
cụ già hỏi Tường: “Thằng con mất tóc của tao đâu rồi?” – Chả là tôi hói trán
nên cụ gọi như thế. Tường trả lời: “Thằng con mất tóc của cụ hôm nay phải ở nhà
làm việc”. Có những lúc đi đường, chúng tôi ngồi bên bờ suối nhìn những đám rẫy
vừa phát đang chờ đốt dọn để gieo hạt. Bất ngờ cả hai chúng tôi cùng nói: “Giống
như những tấm thảm bay!” Chỉ có vậy thôi mà nhớ mãi.
Sau
mấy tháng làm báo Cờ Giải phóng, nhà thơ Thanh Hải và tôi được đưa lên Ban
Tuyên huấn Khu uỷ Trị Thiên Huế do Thiếu tướng Lê Chưởng làm Trưởng ban, nhạc
sĩ Trần Hoàn và ông Lê Dự làm Phó Trưởng ban. Tháng giêng năm 1968, nhiều anh
chị em ở Ban tuyên huấn Khu uỷ Trị Thiên Huế được điều về tăng cường cho Quảng
Trị và thành phố Huế.
Chúng
tôi lo làm báo Cờ Giải phóng và chuẩn bị các tài liệu để đưa về Huế trong dịp Tết
Mậu Thân. Lúc này tin chiến dịch đã rộn rang khắp nơi. Chúng tôi nôn nao chờ được
lệnh về Huế. Đi chiến dịch mừng lắm, nhưng mừng hơn là được về Huế. Ai cũng nhớ
Huế đến nao lòng. Nhất là những người mới rời Huế lên rừng như Hoàng Phủ Ngọc
Tường thì nhớ lắm.
Gần
Tết, chiến dịch Mậu Thân 68 bắt đầu. Các anh Thanh Hải, Hoàng Phủ Ngọc Phan,
Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Hồ Như Ý, Lê Khánh Thông, Lê Minh Trường, Nghiêm Sĩ
Thái…. cùng các anh chị ở Đoàn Văn Công Quân Giải phóng như Thế Linh, Thuận Yến,
Phạm Ngọc Cảnh ( Vũ Ngàn Chi), Thu Luỡng, Kim Vàng… có tên trong danh sách về
Huế đợt đầu, chuẩn bị theo các cánh quân tiến về Huế.
Tôi
không được về đợt đầu. Khi đó Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà
bình thành phố Huế vừa thành lập. Vốn là người của Tiếng nói Việt Nam, tôi được
giao một máy ghi âm Phi – líp để ghi tiếng nói của một số vị lãnh đạo chiến dịch,
tiếng nói của một số nhân sĩ, tri thức, cán bộ Liên Minh, chuẩn bị các bài viết
để tiếp thu đài Phát Thanh Huế khi bộ đội ta chiếm được.
Nhà
thơ Trần Vàng Sao ( Nguyễn Đính) bị thương vì pháo một năm trước ở chân không
đi đâu xa được đành phải ngồi chép tin đọc chậm qua máy thu thanh. Hoàng Phủ Ngọc
Tường theo dõi các sự kiện xảy ra ở Huế để lên tiếng kịp thời bằng những bản
tuyên bố đanh thép. Anh có nhiệm vụ quan trọng là ở lại để đón các thành viên
trong Liên Minh từ Huế lên Khu uỷ.
Tôi
biết mình chắc chắn được tham gia chiến dịch, tức là được về Huế. Nhưng Hoàng
Phủ Ngọc Tường và Trần Vàng Sao thì chắc chắn không được tham gia chiến dịch,
chấm dứt giấc mộng “về Huế với em”. Tường không nói ra nhưng chắc trong lòng bức
bối khó chịu lắm. Anh không tin việc đón người Liên Minh của anh không quá quan
trọng tới mức không có người thay thế, buộc anh phải ở lại. Anh nghi cách mạng
chưa tin tưởng anh, càng thêm buồn bực. Có lẽ vì trong lòng bức bối khó chịu
nên Tường và Nguyễn Đắc Xuân cãi nhau to trong khi gấp rút in tài liệu rô- nê-
ô cho chiến dịch. Tôi không biết vì chuyện gì mà họ cãi nhau nhưng lý do chính
là Tường ghen tị với Xuân vì Xuân được về Huế. Ngày đó chúng tôi còn trẻ lắm.
2h33
phút ngày 31.1.1968, những loạt đạn ĐKB làm hiệu lệnh đã nổ mở đầu việc đánh
vào thành phố Huế.
Cả
đêm, những người ở lại rừng thức trọn theo dõi qua làn sóng điện các Đài phát
thanh. Tin chiến sự dồn dập ở Huế làm cho chúng tôi đứng ngồi không yên. Chúng
tôi hình dung bạn bè của mình đang về trong Đại Nội, Tây Lộc, Khu Gia Hội, Từ
Đàm, Trường Quốc học, Trường Đồng Khánh, Nhà lao Thừa Phủ… Dù ai cũng nôn nao,
không tập trung, bụng dạ chỉ nghĩ về Huế, chúng tôi vẫn lo tròn công việc của
cơ quan.
Tôi
vào khu địa đạo Khe Trái, nơi có nhiều vị nhân sĩ, trí thức để trò chuyện, phỏng
vấn, ghi âm. Nhạc sĩ Trần Hoàn lo đôn đốc các công việc cấp thiết của Tuyên huấn.
Đang khi công việc bộn bề, anh Trần Hoàn bỗng dẫm vào nồi chè vừa nấu chín, bị
bỏng phải nằm võng mấy ngày. Những anh em không được về Huế dịp này cũng chung
một tâm trạng: Bao giờ mới đến lượt mình được về Huế đây? Buồn quá! Người ta đi
từng đoàn mà mình lại ngồi nhà. Có lúc tôi bức xúc qúa đọc hai câu thơ:
Kẻ
ngoại lai được vào thành Huế
Dân
đô thành ở lại chép tin!
Trong
những ngày bồn chồn thấp thỏm như thế, hơn một tuần sau chiến sự diễn ra ở Huế,
tôi được anh Trần Hoàn bảo chuẩn bị máy ghi âm và băng ghi âm, tài liệu để đi về
Huế. Tôi mừng quá, chỉ thương cho Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trần Vàng Sao không
được về Huế dịp này. Tường chia tay tôi bằng cái nắm tay rất chặt, anh không
nói gì. Nhìn cái mặt buồn của Tường tôi cũng không dám nói gì, sợ nói ra câu gì
Tường chịu không thấu lại bật khóc, dễ bị qui là tiểu tư sản.
Đoàn
chúng tôi theo tướng Lê Chưởng qua dốc Ông Ầm, qua vùng giáp ranh và các làng
La Chử, Cổ Bưu, Trúc Lâm, An Ninh Thượng, An Ninh Hạ… Trụ sở Bộ chỉ huy chiến dịch
đóng ngay trong vườn cũ của bà ngoại tôi ở xóm Guốc xã Hương Long. Nhạc sĩ Trần
Hoàn cùng tôi về Kim Long và tôi đưa anh vào thăm nhà bác sĩ Hồ Văn Cang, nơi
tôi trọ học năm 1952 – 1954 cùng một vài gia đình khác. Anh Trần Hoàn còn cho
phép tôi tranh thủ lên thăm nhà ở Trúc Lâm, gặp bà nội, ba mạ và em trai tôi là
Trần Ngọc Trác cùng nhiều bà con.
Một
buổi chiều, máy bay trinh sát bay quẩn quanh trên xóm Guốc và bắn rốc két trúng
vào chiếc micro tôi đặt trên miệng hầm để ghi âm tiếng súng tiếng bom từ Cửa
Chánh Tây vọng lại. Sau đó Mỹ cho máy bay ném bom trong vườn bà ngoại tôi. Anh
Lê Chưởng và anh Trần Hoàn đang ở trong một hầm vội nhảy lên vào một hầm khác
khi bom nổ rất gần. Ngôi nhà vườn bên cạnh bị bom bốc cháy. Có mấy người dân
trúng bom Mỹ chết.
Không
chiếm được đài phát thanh. Tôi không còn việc gì phải làm. Tối hôm đó tôi theo
đoàn của anh Lê Chưởng và anh Trần Hoàn về lại hậu cứ. Gặp lại anh Hoàng Phủ Ngọc
Tường đang ở địa đạo Khe Trái, tôi kể cho anh nghe chuyến về Huế ngắn ngủi của
tôi và chia sẻ nỗi buồn của anh. Cũng như khi chia tay, Tường không nói gì, chỉ
nắm tay tôi rất chặt. Có lẽ khi nghe tôi kể chuyện Huế, Tường sợ anh bật khóc.
Sau này tôi đọc Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca mới biết khi đó Tường
đang có một cô người yêu ở Huế. Giá lúc đó biết chuyện này, tôi có thể khẩn khoản
anh Trần Hoàn xin cho Tường về Huế. Anh Trần Hoàn tính hay mủi lòng, biết chuyện
“Tường có người yêu đang đợi ở Huế” chắc sẽ tìm cớ cho Tường được về Huế.
Đã
không được về Huế lại bị vu cho là “đồ tể” sát hại dân lành Huế , án oan ấy kéo
dài nửa thế kỉ. Thật đáng sợ.
Hà
Nội 9.2.2018
6 Comments
"Sư
nói sư phải, vãi nói vãi hay". Chừng nào lịch sử chưa sắm đúng vai trò
khách quan của nó thì những bóng mây đen hoài nghi vẫn còn đó. Ít nhất có một
điều luôn đúng: sự dối trá, bưng bít, cuồng tín của những người cộng sản là hiện
hữu. Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường "dính chàm" cũng chỉ là nạn nhân của thảm
họa đó. Ông Nguyễn Quang Lập có thanh minh hộ ông Tường cũng chẳng ai tin, bởi
ông cũng chỉ là người ngụp lặn trong thảm họa đó, cho dù hai ông có thành tâm đến
mấy đi nữa. Nói ra thì vơi...sầu, nhưng đừng hy vọng người đời tin các ông.
Cứ
coi như HPNT thật là ông ta không có mặt ở Huế lúc đó(Tết MT)?!Thì nội cái việc
mạo nhận công trạng,cũng đủ chứng tỏ cái gan ruột của ông ta về cuộc thảm sát
này như thế nào rồi!Nếu không coi đây là một thành tích ,một chiến công..thì chả
vạ gì mà vơ vào như thế!Điều này cũng phản ảnh tư cách hèn hạ của một đám trí
thức cơ hội một thời!!!!!Riêng đối với tác giả bài viết:Ông chả cần đem cha mẹ
ra thề thốt để chứng tỏ lòng ngay thẩng của ông!Chuyện này chẳng làm sáng tỏ
thêm cái nghi án lịch sử đau thương này.Dù sao cũng cám ơn ông đã có lòng làm rộng
đường dư luận.
Trích
bài chủ, Hoàng Phủ Ngọc Tường:
“Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu …Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra ..”. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.” (Hết trích).
Trả lời:
Nguyên văn ông Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn đài Open Vault – WGBH ngày 01 tháng 3 năm 1981:
[“Tôi đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rồi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn.”] (từ phút 5:55)
Toàn văn: http://www.oirmusicas.com/music/ziN7IROOSc8.html
Kết luận: Bút sa gà chết. Một lời nói, một đọi máu! Đời văn nghệ sĩ không độc lập là rứa đó!
“Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu …Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra ..”. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.” (Hết trích).
Trả lời:
Nguyên văn ông Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn đài Open Vault – WGBH ngày 01 tháng 3 năm 1981:
[“Tôi đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rồi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn.”] (từ phút 5:55)
Toàn văn: http://www.oirmusicas.com/music/ziN7IROOSc8.html
Kết luận: Bút sa gà chết. Một lời nói, một đọi máu! Đời văn nghệ sĩ không độc lập là rứa đó!
Bon
Pham ·
Này
ông Tường,thời gian còn lai trên cõi đời này không còn nhiều,đừng thanh minh
nói gì về mình nữa.Cần bây giờ là làm sao cho người dân hiểu đúng bản chất đảng
công sán VN nói chung,học thuyết cs nói riêng.Sự tham gia trực tiếp vào” sự
nghiệp cách mang” và kiến của ông ông nếu được nói lên chân thực sẽ rất có ích
cho xã hôi hiện nay và mai sau.
Hoàng
Phủ Ngọc Tường, ông đã 81 tuổi rồi nhưng vẫn còn tính xảo ngữ.
Ông nói: “tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi”. Tui cũng là một đứa con của Huế, nhưng tui và những người chung quanh không ai tin yêu ông. Vì ông và những người đồng chí của ông đã đem đến nhiều tang thương cho người dân xứ Huế.
Niềm tin của ông thì ông gọi là: “hăng say cách mạng”, còn niềm tin của người khác thì ông gọi là: “kẻ chống cộng cực đoan”. Chính sự hăng say cách mạng mù quáng của những người như ông đã mang lại hậu quả thảm sát tết Mậu Thân.
Dân Huế sống nặng về tâm linh và luôn quan niệm nghĩa tử là nghĩa tận. Nhưng một mai khi ông chết, có người đào mả, và lấy xác ông đem lên Chín Hầm thì đó cũng là điều dễ hiểu.
Linh hồn những nạn nhân cuộc thảm sát tết Mậu Thân đang chờ đón ông.
Ông nói: “tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi”. Tui cũng là một đứa con của Huế, nhưng tui và những người chung quanh không ai tin yêu ông. Vì ông và những người đồng chí của ông đã đem đến nhiều tang thương cho người dân xứ Huế.
Niềm tin của ông thì ông gọi là: “hăng say cách mạng”, còn niềm tin của người khác thì ông gọi là: “kẻ chống cộng cực đoan”. Chính sự hăng say cách mạng mù quáng của những người như ông đã mang lại hậu quả thảm sát tết Mậu Thân.
Dân Huế sống nặng về tâm linh và luôn quan niệm nghĩa tử là nghĩa tận. Nhưng một mai khi ông chết, có người đào mả, và lấy xác ông đem lên Chín Hầm thì đó cũng là điều dễ hiểu.
Linh hồn những nạn nhân cuộc thảm sát tết Mậu Thân đang chờ đón ông.
------------------------------
10-2-2018
Muốn
comment dưới cái note tự bạch của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường bên facebook nhà
văn Nguyễn Quang Lập mà nghĩ hay về đây viết để tránh ồn
ào tranh cãi.
Xuyên
suốt bài viết của ông Tường là lời phân trần việc ông không có mặt tại Huế
trong sự kiện Mậu Thân 1968 như nhiều lời cáo buộc lâu nay, và ông thừa nhận
ông đã không trung thực khi trả lời phỏng vấn trong bộ phim tài liệu do Mỹ sản
xuất.
Việc
thừa nhận mình không trung thực thật ra đã quá trễ khi suốt bao năm qua bao nhiêu
thế hệ độc giả đã từng bị yêu thích những lời hay ý đẹp của ông qua các bài
thơ, tản văn, bút ký… Nhưng thôi, chuyện cũng qua và ông thừa nhận mình khi biết
“sắp về trời” vậy cũng có thể hiểu một thời người ta đã say mê và đứng về phía
sự lừa dối thế nào.
Còn
việc bây giờ ông mới lên tiếng để tự minh oan cho mình. Thật lòng tôi nghĩ nếu
ông không thể trung thực được với lịch sử để thế hệ sau như chúng tôi được đọc
– được học, thà rằng ông im lặng luôn như lâu nay, có khi tôi vẫn nghĩ về ông
như một người cầm bút. Ông lên tiếng vì nỗi oan ức của ông, nỗi oan bị người ta
nói không đúng (xuất phát từ chính việc làm của ông trong quá khứ), nhưng ông vẫn
không nói một lời nào đối với nỗi oan của hàng ngàn mạng người bị dập vùi trong
cái tết năm ấy. Ông chỉ dám nhắc tới một chút nhưng vẫn cố lôi “tội ác của Mỹ”
vào để che chắn cho chính ông và đồng đội của ông.
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ảnh:
internet
Ông
có thể bị oan về việc có mặt ở Huế trong sự kiện năm đó, nhưng với sự kiện Mậu
Thân ông không phải là kẻ vô can. Với những người bị chết đầy oan khuất ông vẫn
nợ họ một câu trả lời nếu ông tự coi mình là người cầm bút. Khi nào ông chưa
nói được hết những sự thật khủng khiếp của cái sự kiện mà ông đã góp phần tích
cực cả gián tiếp và trực tiếp thì mãi mãi tên ông vẫn bị nhắc tới với sự hằn học
mỗi khi người ta nói về Mậu Thân.
No comments:
Post a Comment