Hiệp
định Genève ngày 20-7-1954 chia hai Việt Nam dọc theo sông Bến Hải, tỉnh Quảng
Trị, ở vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở Bắc Việt Nam (BVN), do
đảng Lao Động (LĐ) cai trị. Đảng LĐ là hậu thân của đảng Cộng Sản Đông Dương
(CSĐD). Trong khi đó, Quốc Gia Việt Nam (QGVN) ở Nam Việt Nam (NVN), do cựu
hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng. Năm sau, thủ tướng Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu
dân ý ngày 23-10-1955, lật đổ quốc trưởng Bảo Đại và thành lập Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955 do ông Diệm làm tổng thống.
Đất
nước chia hai, nhưng đảng LĐ ở BVN không dừng lại ở đó. Tại Đại hội III đảng LĐ
từ 5 đến 10-9-1960, đảng LĐ quyết định động binh tấn công VNCH, mà CS gọi là
“giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Ngoài ra, đảng LĐ còn đưa ra chiêu
bài “chống Mỹ cứu nước” nhằm khích động lòng yêu nước của dân chúng Việt Nam và
để được các nước cộng sản (CS) giúp đỡ. Tuy nhiên, có một câu hỏi mà ít người
chú ý là Hồ Chí Minh (HCM) và đảng LĐ tức đảng CSĐD chống Mỹ cứu nước là để cứu
nước Việt Nam hay là cứu nước nào khác?
1.
Hồ Chí Minh tuyên bố chống Mỹ
Vào
cuối thế chiến thứ hai, HCM và đảng CSĐD hợp tác với tổ chức OSS của Hoa Kỳ. Tổ
chức OSS là Office of Strategic Services (Sở tình báo chiến lược), tiền thân của
C.I.A. (Central Intelligence Agency). Giữa tháng 4-1945, HCM cùng hai nhân viên
vô tuyến của O.S.S. từ Côn Minh (Kunming, Trung Hoa) về Cao Bằng. Từ đó, O.S.S.
giúp VM huấn luyện quân sự, sử dụng võ khí, truyền tin... (Chính Đạo,Hồ Chí
Minh, con người & huyền thoại, tập 2: 1925-1945, Houston: Nxb. Văn Hóa,
tt. 358-359.)
Khi
HCM và đảng CS cướp được chính quyền và lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
(VNDCCH) ngày 2-9-1945, thiếu tá OSS là Archimèdes Patti giúp HCM viết bản
tuyên ngôn độc lập.(Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, California:
University of California Press, Berkely, 1980, tr. 223.) Tuy nhiên, sau đó OSS
rời Việt Nam do Hoa Kỳ chủ trương không can thiệp vào Đông Dương để cho Pháp tự
do hành động. (A. Patti, sđd. tr. 379.) Từ đó giữa cộng sản Việt Nam (CSVN) và
Mỹ không còn hợp tác, nhưng cũng không đối đầu trực tiếp với nhau.
Sau
thế chiến (1939-1945), chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản (do Mỹ đứng đầu)
và CS (do Liên Xô lãnh đạo) bắt đầu năm 1946. Năm 1950, Mỹ thừa nhận chính phủ
QGVN và viện trợ giúp Pháp chống CS ở Việt Nam, nhưng Mỹ không gởi quân đánh
nhau với quân CSVN. Khi hội nghị Genève sắp kết thúc và các bên sửa soạn ký kết
hiệp định chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam ngày 20-7-1954, thì lần đầu tiên, HCM
lớn tiếng tuyên bố mục tiêu chiến đấu mới của CSVN trong giai đoạn sắp đến là
chống “đế quốc” Mỹ.
Báo
cáo tại hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương đảng LĐ khóa II ngày
15-7-1954, HCM nói: “Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới mà
Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam, Lào. Mũi nhọn
của ta cũng như mũi nhọn của thế giới đều chĩa vào Mỹ. Chính sách của Mỹ là mở
rộng và quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương. Chính sách của ta là tranh thủ hòa
bình để chống lại chính sách chiến tranh của Mỹ…” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập
7:1953-1955, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt.
313-315.)
Một
điều khá lạ lùng là từ khi OSS về nước, bang giao với Mỹ bị gián đoạn, HCM hầu
như chưa lần nào công kích Mỹ nặng nề. Lúc nầy Mỹ chưa viện trợ trực tiếp cho
chính phủ QGVN, kẻ thù của CS mà chỉ giúp đỡ gián tiếp qua tay người Pháp. Nói
cách khác, cho đến 1954, giữa VM và Mỹ chưa đối đầu trực tiếp, chưa hận thù sâu
sắc, ngoài những kỷ niệm thời 1945. Thế mà đột nhiên sau hội nghị Liễu Châu,
HCM xem Mỹ là “kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam, Lào.” Để
tìm hiểu vấn đề tại sao HCM lại tuyên bố chống Mỹ sau vụ Liễu Châu, xin trở lại
với hoàn cảnh chính trị phức tạp trước khi hiệp định Genève được ký kết ngày
20-7-1954.
Hội
nghị Genève bắt đầu từ ngày 8-5-1954 đến ngày 21-7-1954, chia thành hai giai đoạn:
1) Từ 8-5 đến 20-6-1954. 2) Từ 10-7 đến 21-7-1954. Giữa hai giai đoạn là 20
ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo và nghỉ ngơi.
Trong
thời gian hội nghị tạm nghỉ, xảy ra ba sự kiện quan trọng ở ba nơi khác nhau
trên thế giới: Mendès-France lên làm thủ tướng Pháp ngày 17-6-1954. Ngô Đình Diệm
nhận chức thủ tướng QGVN ngày 7-7-1954 (ngày Song thất). Châu Ân Lai (CÂL) và
HCM bí mật gặp nhau tại Liễu Châu (Liuzhou), tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), Trung Hoa,
từ 3 đến 5-7-1954, bàn về giải pháp kết thúc chiến tranh. Lúc đó, không ai biết
về hội nghị nầy.
Cũng
tại hội nghị Liễu Châu chắc chắn hai bên, CÂL và HCM, duyệt xét lại toàn bộ
tình hình thế giới và tình hình Đông Á sau chiến tranh Triều Tiên, mà Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) đang đối đầu với Mỹ.
2.
Tình hình Đông Á trước hội nghị liễu Châu
Tại
Trung Hoa, đảng Cộng Sản (CS) do Mao Trạch Đông (MTĐ) lãnh đạo, chiếm được lục
địa, và tuyên bố thành lập CHNDTH tức Trung Cộng (TC) ngày 1-10-1949. Tưởng Giới
Thạch và Quốc Dân Đảng di tản ra Đài Loan (Taiwan), tiếp tục chính phủ Trung
Hoa Dân Quốc (THDQ). Tuy rất nhỏ so với TC, nhưng nhờ Mỹ hậu thuẫn, THDQ vẫn giữ
ghế đại diện Trung Hoa tại Liên Hiệp Quốc (LHQ), và giữ luôn ghế hội viên thường
trực, có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ.
Năm
sau, chiến tranh bùng nổ ngày 25-6-1950 giữa Bắc Triều Tiên (BTT) và Nam Triều
Tiên (NTT). Quân cộng sản BTT bất ngờ tiến đánh NTT, vượt qua vĩ tuyến 38, đường
phân chia BTT và NTT từ 1945, chiếm thủ đô Hán Thành (Seoul). Theo đề nghị của
Hoa Kỳ, ngày 27-6-1950 LHQ yêu cầu các nước giúp NTT.
Ngày
12-9-1950, đại tướng Hoa Kỳ là Douglas Mac Arthur cầm đầu quân đội LHQ, bất thần
đổ bộ vào hải cảng Inchon, tây bắc NTT, giáp với BTT. Quân LHQ đẩy lui quân
BTT, tái chiếm Hán Thành ngày 19-9, tiếp tục truy đuổi bắc quân CS, vượt vĩ tuyến
38, chiếm thủ đô BTT là Bình Nhưỡng (Pyongyang), tiến đến sông Áp Lục (Yalu
River), ở vùng biên giới Mãn Châu, thuộc TC.
Ngày
26-11-1950, 250,000 quân TC vượt biên giới, giúp BTT, đẩy lui quân LHQ xuống
phía nam, tái chiếm Hán Thành. Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman gởi tướng Matthew
Ridgway thay tướng Mac Arthur. Quân LHQ đẩy lui bắc quân khỏi vĩ tuyến 38 vào
tháng 1-1951. Cuộc thương thuyết giữa hai bên bắt đầu từ tháng 7-1951, và hai
bên ký kết hiệp ước Bàn Môn Điếm (Panmunjom) ngày 27-7-1953, lấy
vĩ tuyến 38 chia hai Triều Tiên. Bên nào ở yên bên đó, không xâm phạm lẫn
nhau.
Khi
chiến tranh Triều Tiên bùng nổ năm 1950, thì Hoa Kỳ phái Đệ thất hạm đội đến bảo
vệ Đài Loan và eo biển Đài Loan. Sự hiện diện của hạm đội Hoa Kỳ ở eo biển Đài
Loan làm cho TC quan ngại. Trong eo biển Đài Loan, hai quần đảo Kim Môn-Mã Tổ
(Kinmen-Mazu), nằm cách hải cảng Hạ Môn (Xiamen), tỉnh Phúc Kiến (Fujian) của lục
địa TC khoảng 15 Km, trong khi cách bờ biển hải đảo Đài Loan khoảng 270 Km,
nhưng hai quần đảo nầy lại thuộc quyền của THDQ (Đài Loan).
Sau
hiệp ước Bàn Môn Điếm, chấm dứt chiến tranh Triều Tiên, NTT tức Cộng
Hòa Triều Tiên ký với Hoa Kỳ tại thủ đô Washington DC ngày 1-10-1953 Hiệp
định Phòng thủ Hỗ tương (Mutual Defence Treaty) có hiệu lực từ ngày
17-11-1954.
Bên
cạnh NTT là Nhật Bản (NB). Tại hội nghị hòa bình San Francisco (Hoa Kỳ) từ 4 đến
8-9-1951, NB tuyên bố từ bỏ mọi quyền hành trên các hải đảo mà NB đã chiếm
trong thế chiến thứ hai (1939-1945). Cùng ngày 8-9-1951, NB và Hoa Kỳ ký Hiệp
ước an ninh hỗ tương (Mutual Security Treaty) cho phép quân đội Hoa Kỳ
đóng quân trên đất NB.
Ngày
8-3-1954, hai nước Hoa Kỳ và NB ký kết thêm Thỏa ước Phòng thủ chung
(Mutual Defence Assistance Agreement), có hiệu lực từ 1-5-1954, cho phép
quân đội Hoa Kỳ trú đóng trên đất NB vì mục đích hòa bình và an ninh trong khi
khuyến khích NB tăng cường quốc phòng.
Các
hiệp ước Hoa Kỳ ký với NTT và với NB đều nhắm mục đích giúp bảo vệ an ninh của
hai nước nầy, chống lại sự đe dọa từ bên ngoài, thực sự là chống lại sự đe dọa
của TC. Hơn nữa, Hoa Kỳ gởi Hạm đội số 7 đến eo biển Đài Loan, chính là để bảo
vệ Đài Loan và vùng biển nầy.
Những
hoạt động trên đây của Hoa Kỳ làm cho TC bận tâm lo lắng vì cảm thấy bị bao vây
từ nhiều phía: Ở phía tây, TC giáp với Liên Xô. Từ khi Stalin qua đời ngày
5-3-1953, cuộc bang giao giữa TC với Liên Xô càng ngày càng xấu. Ở tây nam, TC
bị Ấn Độ chận đứng. Ở phía đông là Thái Bình Dương, TC lại bị các nước NTT, NB,
THDQ bao vây. Các nước nầy được Mỹ bảo vệ. Trên Thái Bình Dương thì Đệ thất hạm
đội Mỹ chập chờn canh chừng. Vì vậy, TC rất căm thù Hoa Kỳ.
Tại
Hoa Kỳ, lúc đó phong trào chống cộng rất mạnh. Vào đầu năm 1950, thượng nghị sĩ
tiểu bang Wisconsin là Joseph Raymond McCarthy đưa ra chủ trương “tố cộng” mạnh
mẽ khắp nước Mỹ. Tinh thần chống cộng của người Mỹ lúc đó mạnh đến nỗi đáng chú
ý là khi khai mạc hội nghị Genève về Việt Nam vào ngày 8-5-1954, trưởng phái
đoàn Hoa Kỳ là ngoại trưởng John Foster Dulles không bắt tay trưởng phái đoàn
TC là thủ tướng kiêm ngoại trưởng CÂL. (Henry Kissinger,White House Years,
Toronto: Little, Brown and Company, 1979, tr. 1054.) Có lẽ CÂL khó quên kỷ niệm
không vui nầy.
Tại
hội nghị Liễu Châu từ 3 đến 5-7-1954, chắc chắn CÂL đã trình bày toàn cảnh tình
hình Đông Á trên đây với HCM. Vừa thù nước, vừa giận riêng, phải chăng CÂL đã
chỉ thị cho HCM, nên khi về nước, HCM chĩa mũi dùi ngay vào Hoa Kỳ tại Hội nghị
lần thứ 6 Ban CHTƯĐ/LĐ khóa II ngày 15-7-1954.
Ở
đây, xin ghi nhận thêm giao tình giữa HCM và các lãnh tụ TC:
Thứ
nhứt, khi Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS) gởi điệp viên Lý Thụy (HCM) đến Quảng
Châu (Trung Hoa) hoạt động năm 1924, thì Lý Thụy mở những khóa huấn luyện cán bộ
và mời các lãnh tụ CSTH đến giảng dạy như Lưu Thiếu Kỳ, CÂL, Lý Phúc Xuân, Bành
Bài…(Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The
University of North Carolina Press, 2000, tr. 10.).
Thứ
hai, sau khi bị giữ lại ở Liên Xô từ 1934 đến 1938 để điều tra, Nguyễn Ái Quốc
(HCM) được QTCS gởi qua Trung Hoa vào 1938, đến căn cứ phía bắc TC là Diên An,
học tập và hoạt động tình báo. Lúc đó, Quốc với tên mới là Hồ Quang, mang quân
hàm thiếu tá trong quân đoàn Bát lộ quân của TC, để dễ di chuyển và hoạt động.
(Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh, the Missing Years, Diên Vỹ và
Hoài An dịch, Diễn đàn www.x-cafevn.org tt.
190-191.)
Sau
đó, Hồ Quang đến Quế Lâm (Quảng Tây) hoạt động. Khoảng đầu thu 1940, Hồ Quang
(HCM) cử người đến Diên An, ký mật ước với TC, theo đó đại diện đảng TC tại cục
Tình báo Á châu của ĐTQTCS, phụ trách lãnh đạo công tác của CSVN. Cộng Sản Việt
Nam sẽ cử cán bộ đến Diên An thụ huấn, và CSTH sẽ trợ cấp cho CSVN 50,000 quan
Pháp mỗi tháng để trang trải chi phí sinh hoạt tại Trung Hoa. (Tưởng Vĩnh
Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, Nxb.
Truyện Ký Văn Học, Đài Bắc, 1972, bản dịch của Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại
Trung Quốc, Nxb. Văn Nghệ, California, 1999, tt. 167-168.)
Thứ
ba, trong chiến tranh với Pháp từ năm 1946, CSVN thua chạy dài. Sau khi CHNDTH
được thành lập năm 1949, HCM qua Bắc Kinh, rồi qua Moscow cầu viện năm 1950.
Mao Trạch Đông cũng có mặt tại Moscow. Stalin uỷ nhiệm cho MTĐ giúp cho
CSVN.
Cùng
đi trên chuyến xe lửa từ Moscow đưa MTĐ về Bắc Kinh, HCM đến xin MTĐ giúp đỡ.
(Trương Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống
Pháp”, trong sách Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về
việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm
tác giả, Bắc Kinh: Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, do Trần Hữu
Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Montreal: Tạp chí Truyền Thông, số
32 & 33, 2009, tr. 47.) Từ đó, TC viện trợ tối đa cho CSVN. Nhờ thế, CSVN
phản công và thành công năm 1954.
Chỉ
cần nhắc lại những chuyện trên đây đủ thấy rõ HCM và đảng CSVN quá nặng nợ với
TC. Khi TC viện trợ rộng rãi cho CSVN, HCM và CSVN chẳng có gì để trả nợ, nên
chỉ còn cách là phải đáp lại những đòi hỏi, yêu sách hay mệnh lệnh của TC để trả
ơn.
3.
Chiêu bài “chống mỹ cứu nước”
Sau
hội nghị Liễu Châu, trong báo cáo của HCM tại hội nghị Ban CHTƯĐ/LĐ ngày
15-7-1954, HCM chỉ nhắc sơ là có gặp và trao đổi với thủ tướng CÂL. Về sau, khi
ấn hành lại bản báo cáo nầy trong Hồ Chí Minh toàn tập tập 7,
Nxb Chính Trị Quốc Gia chỉ chú thích sơ lược cuộc gặp gỡ ở cuối trang 315.
Về
phía CÂL, TC cũng không loan báo tin tức hội nghị nầy, mãi cho đến năm 2005,
Trung Cộng đảng sử xuất bản xã phát hành sách Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa
hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève], chuyện Liễu Châu mới được tiết
lộ công khai. Tại Liễu Châu, CÂL khuyên HCM nên chấp nhận giải pháp chia hai Việt
Nam ở vĩ tuyến 17 để Pháp ra đi và Mỹ không can thiệp. Ngược lại HCM bàn với
CÂL là sẽ chôn giấu võ khí, cài cán bộ, đảng viên ở lại NVN, trường kỳ mai phục
để đợi thời cơ tái tục chiến tranh.
Vì
BVN trường kỳ mai phục, chuẩn bị sẵn sàng hành động ở NVN, nên ngay từ năm
1955, BVN đề nghị với NVN họp hội nghị để tổ chức tổng tuyển cử, thống nhứt đất
nước, mà BVN cho rằng do hiệp định Genève quy định, nhưng bị NVN từ chối, vì
NVN cho rằng QGVN đã không ký vào hiệp định Genève. Bắc Việt Nam còn đề nghị
nhiều lần sau đó, cũng đều bị NVN từ chối.
Thật
ra, hiệp định Genève không liên hệ đến việc tổng tuyển cử, không có điều khoản
nào đề cập đến việc tổng tuyển cử, mà chỉ là hiệp định đình chỉ chiến sự, chấm
dứt chiến tranh. Sau khi hiệp định Genève được ký kết vào tối 20-7-1954, các
phái đoàn họp tiếp vào ngày 21-7-1954, đưa ra bản "Tuyên bố cuối cùng của
Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương".
Bản
tuyên bố (déclaration) gồm 13 điều; trong đó quan trọng nhứt là điều 7, ghi rằng: "Hội
nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực
hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi
những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho
việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể
tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự
kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám
sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày
20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp
gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông
Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53.) (Vào google đọc bản chữ
Pháp: Déclaration finale de la conférence de Genève en 1954.)
Khi
được hỏi ý kiến, các phái đoàn tham dự đều trả lời miệng, chứ không có phái
đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố nầy. Bản tuyên bố không có chữ ký không phải
là một hiệp ước, không có tính cách cưỡng hành, mà chỉ có tính cách khuyến cáo
hay đề nghị mà thôi. Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định
Genève ngày 20-7-1954 và cũng không ký vào bản "Tuyên bố cuối cùng…"
ngày 21-7-1954. Phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ chỉ đưa ra tuyên bố riêng để minh định
lập trường của chính phủ mình.
Nói
cách khác, cả hai bên Bắc và Nam Việt Nam đều không bị bắt buộc phải thi hành lời
khuyến cáo hay đề nghị trong bản tuyên bố không chữ ký. Vì vậy, VNCH có quyền từ
chối đề nghị tổng tuyển cử mà không thể kết luận rằng VNCH không thi hành hay
vi phạm hiệp định Genève 20-7-1954.
Khi
NVN từ chối đề nghị tổng tuyển cử do BVN đưa ra, thì BVN hô hoán lên rằng NVN
vi phạm hiệp định Genève, trong khi đó BVN đã vi phạm trước, vì BVN đã chôn giấu
võ khí, cài cán bộ ở lại NVN từ 1954. Bắc Việt Nam tổ chức Đại hội đảng LĐ lần
thứ III tại Hà Nội từ 5 đến 10-9-1960, đưa ra hai mục tiêu là “xây dựng BVN
tiến lên xã hội chủ nghĩa và giải phóng NVN bằng võ lực”.
Khai
mạc Đại hội III đảng LĐ tại Hà Nội ngày 5-9-1960, HCM nhấn mạnh: "Ngày
nào chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, chưa giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ-Diệm, thì nhân dân ta vẫn chưa thể ăn
ngon, ngủ yên. Bởi vậy không thể nào tách rời cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình,
thống nhất nước nhà với cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ.”( Hồ Chí Minh toàn
tập tập 10 1960-1962, Hà Nội: Nxb Chính Trị Quốc Gia, xuất bản lần thứ hai,
2000, tr. 200.)
Trong
phần kết luận bài phát biểu nầy, HCM tiếp: "Hiện nay, đế quốc Mỹ
là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực
tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống Mỹ…” (Hố
Chí Minh, sđd. tr.319.)
Đáng
chú ý, suốt bản báo cáo, HCM luôn nhấn mạnh đến chuyện chống Mỹ, và kết luận “mọi
việc của ta đều nhằm chống Mỹ”.
Kết
luận
Vào
cuối thế chiến thứ hai, HCM và đảng CSVN hợp tác với OSS là một tổ chức tình
báo Mỹ, nhờ OSS huấn luyện và trang bị những phương tiện thông tin cần thiết.
Sau đó, tuy chưa có gì va chạm, nhưng vì Mỹ không muốn làm mất lòng Pháp ở Đông
Dương, nên Mỹ rút các toán OSS ra khỏi Việt Nam. Trong cuộc chiến 1946-1954,
HCM hầu như không đả động gì đến việc chống Mỹ.
Bất
ngờ, sau hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây) với CÂL vào đầu tháng 7-1954, HCM đưa
ra chủ trương chống Mỹ mạnh mẽ. Nói trắng ra, phải chăng chính HCM vâng lệnh
CÂL tại hội nghị nầy, nên khi về nước, HCM triệu tập liền hội nghị lần thứ 6
Ban chấp hành Trung ương đảng LĐ khóa II ngày 15-7-1954, để phổ biến ngay chủ
trương chống “đế quốc” Mỹ?
Sau
hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng LĐ phải tốn một thời gian ổn định BVN, quốc
doanh toàn bộ công thương nghiệp thành phố, cải cách ruộng đất để làm chủ nông
thôn, triệt tiêu tất cả những phản kháng của giới trí thức và văn nghệ sĩ. Sau
những chiến dịch nầy, đảng LĐ tức đảng CSĐD nắm vững BVN trong khuôn khổ độc
tài toàn trị CS, liền nghĩ đến chuyện NVN.
Đảng
LĐ tổ chức Đại hội III từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960 để phát động chiến tranh tấn
công NVN, đưa ra hai chiêu bài chiến lược song song là “giải phóng miền Nam” và
“chống Mỹ cứu nước”.
Thực
ra, ngay từ 1954, trước khi ký kết hiệp định Genève, tại Liễu Châu, CSVN đã cho
thấy tham vọng tấn công NVN nhằm thống trị toàn bộ đất nước chứ không phải “giải
phóng miền Nam”.
Còn
HCM chủ trương "mọi việc của ta đều nhằm chống Mỹ” là HCM
làm theo lời MTĐ đã từng nói là nếu CSVN “giải tỏa được mối đe dọa của
bọn xâm lược, đó là Việt Nam giúp Trung Quốc.” (La Quý Ba trích dẫn, “Mẫu
mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, trong Hồi ký của những người
trong cuộc, sđd. tr. 27).
Như
thế, CVSN chống Mỹ không phải để cứu nước Việt, mà để cứu Tàu, theo yêu cầu của
Tàu, vì lợi ích của Tàu. Chính vì vậy mà Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng LĐ từ
năm 1960, đã nhận: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc.” Lời
của Lê Duẩn là niềm hãnh diện của CSVN, được viết thành biểu ngữ khá lớn treo
ngay trước nhà thờ Lê Duẩn ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Niềm
hãnh diện nầy cho thấy sự nghiệp “giải phóng miền Nam”, “chống Mỹ cứu nước” của
HCM và CSVN nằm trong kế hoạch “tự Hán hóa” (autochinization /
autochinalization) của CSVN, nghĩa là không phải Tàu khựa áp đặt nền đô hộ tại
Việt Nam, mà CSVN tự nguyện Hán hóa Việt Nam dưới sự đô hộ của Tàu khựa.
Cộng
sản Việt Nam phản quốc đến thế là cùng. Tồi tệ nhứt trong lịch sử nước nhà!
(Trích Lịch sử sẽ phán xét, xuất bản tháng 6-2016.)
(Toronto,
28-2-2016)
No comments:
Post a Comment