Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei), The American Interest
Chiến
lược sinh tồn của Đảng Cộng sản hậu Thiên An Môn đã cạn kiệt, còn chiến lược mới
của họ lại có khả năng đẩy nhanh sự sụp đổ của đảng.
Không
có chế độ chuyên chế nào thành công bằng Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong
thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Năm 1989, chế độ đã gần chạm cửa tử khi hàng
triệu người biểu tình ở các thành phố lớn trên cả nước, đòi hỏi dân chủ và trút
nỗi phẫn nộ của họ lên tham nhũng. Đảng đã được cứu sống chỉ với sự giúp sức của
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) với xe tăng của họ nghiền nát những
người biểu tình ôn hòa quanh Thiên An Môn và tại Bắc Kinh vào 4 tháng 6. Tuy
nhiên, trong một phần tư thế kỷ sau vụ thảm sát Thiên An Môn, ĐCSTQ đã nhiều lần
bất tuân dự đoán về sự sụp đổ sắp xảy ra của họ từ những kẻ ác mồm. Không những
vẫn sống sót sau cú sốc sụp đổ của Liên Xô mà ĐCSTQ còn vượt qua đuợc cuộc
khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997-98 và cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008. Kể từ vụ Thiên An Môn, nền kinh tế Trung Quốc đã tăng khoảng
10 lần giá trị thực. Mức thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ $980 đến
$13.216 về sức mua tương đương (PPP) trong cùng thời kỳ, đưa đất nước vào hàng
các nước có thu nhập trung bình cao.
Dễ
hiểu là thành tích đó đã khiến nhiều nhà quan sát, trong đó có các nhà quan sát
Trung Quốc dày dạn, tin rằng ĐCSTQ đã trở thành một chế độ độc tài bền vững với
nhiều sức mạnh bên trong mà hầu hết các chế độ chuyên quyền khác không có.
Ngoài những thứ khác, ĐCSTQ được cho là đã phát triển một quy trình chuyển giao
lãnh đạo hiệu quả, dựa trên các quy tắc và chuẩn mực đã thành nếp, một hệ thống
lựa chọn các quan chức có khả năng dựa trên tài năng và khả năng đáp ứng
nhu cầu quần chúng. Thay vì, là một chế độ cứng nhắc như Đảng Cộng sản Liên Xô
thời Leonid Brezhnev, ĐCSTQ thể hiện khả năng đáng lưu ý về học tập và thích ứng.
Thật
không may cho những người ủng hộ lý thuyết về “khả năng bền vững của sự độc
tài”, các giả định, chứng cứ và kết luận của họ đã trở nên khó bảo vệ hơn khi
cân nhắc của những diễn tiến gần đây ở Trung Quốc. Các dấu hiệu về tranh giành
quyền lực của giới chủ chốt (elite), nạn tham nhũng, mất động lực kinh tế và
chính sách đối ngoại quyết đoán, nguy cơ cao đều hiển hiện. Kết quả là, ngay cả
một số học giả mà nghiên cứu của họ có liên quan đến thuyết về khả năng bền
vững của độc tài đã bị buộc phải xem xét lại. Ngày càng rõ ràng rằng những diễn
biến gần đây làm thay đổi nhận thức về độ bền vững của ĐCSTQ là không theo
chu kỳ mà theo cấu trúc. Chúng là triệu chứng về sự cạn kiệt chiến lược sinh
tồn của chế độ sau vụ Thiên An Môn. Một số trụ cột quan trọng của chiến lược
này (như sự thống nhất của giới chủ chốt, tính chính đáng dựa trên thành tựu,
sự lựa chọn của giới chủ chốt trong xã hội và sự kiềm chế chiến lược
trong chính sách đối ngoại) đã gãy đổ hoặc trở thành rỗng ruột, buộc ĐCSTQ
càng gia tăng sự đàn áp và hô hào lòng yêu nước để bám lấy quyền lực.
Do
đó, giới chủ chốt cầm quyền Trung Quốc hiện phải đối mặt với sự lựa chọn khắc
nghiệt kể từ vụ Thiên An Môn: Mô hình phát triển chủ nghĩa tư bản bè cánh độc đoán,
hậu năm1989, đã chết, và họ có thể hoặc là đua tranh với Đài Loan hay Hàn Quốc
để dân chủ hóa và thu đạt được tính chính đáng lâu bền này, hoặc là sẵn
sàng áp dụng biện pháp đàn áp ngày càng gia tăng để duy trì sự cai trị độc đảng.
Cách họ chọn sẽ ảnh hưởng đến không chỉ Trung Quốc và Châu Á mà cả thế giới.
Mặc
dù các hình ảnh phổ biến về “quyền lực nhân dân” hay các cuộc cách mạng “Mùa
Xuân Ả Rập”, nguồn quan trọng nhất duy nhất của sự thay đổi thể chế ở các chế độ
độc tài là việc đổ vỡ sự thống nhất của giới chủ chốt cầm quyền. Diễn biến
này chủ yếu gây ra bởi sự tăng mạnh các xung đột giữa giới chủ chốt cầm quyền đối
với chiến lược giữ chế độ sinh tồn, việc phân chia quyền lực và đỡ đầu. Kinh
nghiệm từ các cuộc chuyển đổi dân chủ kể từ giữa thập niên 1970 cho thấy, khi
chế độ chuyên quyền đối đầu với những thách thức từ các lực lượng xã hội, đòi hỏi
thay đổi chính trị, vấn đề gây chia rẽ nhất trong giới chủ chốt cầm quyền là liệu
có nên đàn áp các lực lượng đó thông qua leo thang bạo lực hay là thích ứng
với các lực lượng đó thông qua tự do hoá. Nếu những người cải cách chiếm
ưu thế thì những bước đầu tiên tiến tới quá trình chuyển đổi chế độ, tiêu biểu
qua việc nới lỏng kiểm soát chính trị và xã hội, sẽ tiếp theo sau. Nếu phe bảo
thủ thắng cuộc thì đàn áp mạnh bạo hơn (nhưng xung đột xã hội và chính trị cũng
leo thang) sẽ kéo theo, ít nhất là cho đến khi chế độ đối mặt với một cuộc khủng
hoảng khác buộc nó phải quay lại câu hỏi liệu tiến trình đàn áp có là chiến lược
tốt nhất không. Một mối liên quan quen thuộc gây mất đoàn kết trong giới chủ
chốt là xung đột về phân chia quyền lực và do đó phạm vi của các mạng lưới đỡ
đầu. Về chế độ chuyên quyền xác lập vững hơn, chẳng hạn các nhà nước độc đảng
Lenin hậu toàn trị, xung đột này có xu hướng phát sinh khi cạnh tranh quyền lực
dẫn đến việc vi phạm các quy tắc và chuẩn mực đã xác lập từ lâu vốn bảo vệ sự
cân bằng quyền lực mong manh trong giới chủ chốt cầm quyền và tình trạng an
toàn thực tế của họ. Trong nhiều trường hợp, nếu không phải là hầu hết (và
Trung Quốc không là ngoại lệ) những vi phạm đó nhân danh cho các nhóm gia đình,
và do đó thể hiện việc tái phân chia hệ thống đỡ đầu trong chính trị.
Trường
hợp Trung Quốc, việc đổ vỡ sự thống nhất trong giới chủ chốt không dựa trên cuộc
tranh luận giữa phe bảo thủ và cải cách, mà trên cuộc đấu tranh giành ưu thế
trong chính phe bảo thủ. Các dấu hiệu ban đầu của sự chia rẽ trong giới chủ chốt
chóp bu là việc thanh trừng Bạc Hi Lai, cựu bí thư đầy tham vọng của Trùng
Khánh, ngay trước thềm Đại hội ĐCSTQ lần thứ 18 vào năm 2012. Nhiều sự kiện sau
đó cho thấy rằng, sự sụp đổ của Bạc Hi Lai mới chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc
‘tổng vệ sinh’ nội bộ mà đảng chứng kiến, tính từ cuộc Cách mạng Văn hóa.
Sau khi Tập Cận Bình, người chiến thắng trong cuộc đấu, chính thức đảm nhận vị
trí tổng bí thư ĐCSTQ và tổng tư lệnh quân đội hồi tháng 11 năm 2012, ông ta
đã phát động chiến dịch chống tham nhũng dữ dội nhất trong thời gian gần đây để
đạt được uy thế chính trị qua việc tiêu diệt các đối thủ của mình. Mặc dù chiến
dịch của Tập Cận Bình có vẻ được ưa chuộng, gần như chỉ qua một đêm, nó đã
tháo dỡ hết hệ thống mà tầng lớp chủ chốt cầm quyền đã dầy công xây dựng để duy
trì sự đoàn kết của họ trong thời kỳ hậu Thiên An Môn.
Có
ba trụ cột chống đỡ hệ thống này. Trụ cột đầu tiên là sự cân bằng quyền lực
chính trị mong manh ở chóp bu, thường được biết như là sự lãnh đạo tập thể, được
thiết kế để ngăn chặn sự xuất hiện của một lãnh đạo kiểu Mao, kẻ có thể áp đặt
ý chí của mình lên đảng. Theo hệ thống này, các quyết định chính sách quan trọng
được thực hiện thông qua một quá trình xây dựng đồng thuận và thỏa hiệp, bảo đảm
bảo vệ các lợi ích của các lãnh đạo cấp cao và phe phái của họ. Trụ cột thứ hai
là an toàn cá nhân tuyệt đối cho các lãnh đạo chóp bu. Một trong những bài học
quan trọng từ sự thất bại của thời đại Mao là sự thống nhất của giới chủ chốt
là không thể có được nếu không có sự bảo đảm này, bởi vì chỉ có những người
cai trị không chạm tới được mới có khả năng và uy tín để đàm phán với nhau,
ngã giá, và giải quyết các xung đột trong nội bộ chế độ. Trụ cột thứ ba là một
hệ thống chia sẻ những lợi lộc của sự phát triển kinh tế trong giới chủ chốt,
chủ yếu là thông qua mạng lưới đỡ đầu to lớn và phức tạp. Chắc chắn, hệ thống
này đã tạo ra tham nhũng tràn lan, nhưng nó cũng đã cung cấp những khuyến
khích để giới chủ chốt làm việc hết mình vì chế độ.
Hiện
nay, chưa tròn ba năm sau khi Tập Cận Bình buớc lên vị trí tột đỉnh, hệ
thống này đã bị băm nhỏ ra. Tương đương với một thế giới “đa cực”, ở giới chóp
bu của chế độ ĐCSTQ hiện nay là một hệ thống “đơn cực”; “lãnh đạo tập thể”, đã
nhường bước cho quyền cai trị của người hùng (strongman) và một quá trình ra
quyết định do Tập Cận Bình chi phối. An toàn cá nhân tuyệt đối cho các nhà lãnh
đạo chóp bu được xác định là các uỷ viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị đương nhiệm
hoặc nghỉ hưu, cũng đã bị phá vỡ với sự rơi rụng của Chu Vĩnh Khang, một cựu uỷ
viên Ban Thường vụ và bộ truởng Công An vốn đã bị lôi vào một bản án tù
chung thân hồi năm 2015 sau khi ông kết tội tham nhũng. Động lực chống tham
nhũng và các biện pháp thắt lưng buộc bụng đi kèm cũng đã đặt dấu chấm hết
(ít nhất là tạm thời) tập tục chia sẻ lợi lộc trong giới chủ chốt, gây ở họ
nỗi cay đắng và thúc đẩy họ (theo như tường thuật) dấn vào việc đình công
để phản đối. Trong khi không chắc cuộc chiến chống tham nhũng của Tập Cận
Bình thật sự sẽ nhổ tận gốc nạn tham nhũng hay không, nó đã thành công trong
việc phá hủy cấu trúc khuyến khích hậu Thiên An Môn bên trong chế độ.
Trên
chính nó, sự chuyển đổi từ “lãnh đạo tập thể” sang “quyền cai trị của người
hùng” có thể không nhất thiết phải gỡ bỏ chủ nghĩa Lenin của Trung Quốc. Tuy
nhiên, kết quả ban đầu rõ ràng của sự chuyển đổi này cho đến nay là việc bốc
hơi sự thống nhất trong giới chủ chốt, chất keo kết dính hệ thống hậu Thiên An
Môn lại với nhau. Mặc dù hiện tại không có dấu hiệu công khai thách thức quyền
lực của Tập Cận Bình trong ĐCSTQ, sẽ an toàn khi cá cược rằng các đối thủ của
ông ta đang đợi thời cơ, chờ thời điểm thích hợp để phản công.
Nếu
sự mất đoàn kết trong giới chủ chốt bị thoái hóa thành một cuộc thách thức
chính trị và kéo theo việc loại bỏ hệ thống mà Tập Cận Bình đang cố xây dựng,
chỉ có hai kết quả có thể có. Một là đưa về trở lại hệ thống rệu rã hậu
Thiên An Môn. Trên bề mặt, điều này có vẻ là giải pháp hấp dẫn và hứa hẹn nhất,
nhưng nó sẽ không được việc: Một số trong các điều kiện cơ bản quan trọng vốn
chống đỡ hệ thống hậu Thiên An Môn, đặc biệt là sự tăng trưởng nhờ đầu tư và sự
phục tùng chính trị của tầng lớp trung lưu được bảo đảm bằng triển vọng thịnh
vượng ngày càng tăng, phần lớn đã biến mất. Nếu hiện trạng như trước không thể
phục hồi, ĐCSTQ sẽ cần một cách khác để thoát ra. Trong khi không ai biết đảng
sẽ lựa chọn điều gì, rất đáng để nhớ lại rằng, tới thời điểm đó, đảng đã cố
thử và vắt cạn ba mô hình quản trị độc đoán: chủ nghĩa Mao (cộng sản cực
đoan), chủ nghĩa Đặng (tư bản bè cánh), và mô hình Tập Cận Bình (quyền cai trị
của người hùng). Trớ trêu là ĐCSTQ có thể lại thấy chính mình nằm trong cùng
tuyệt lộ như Đảng Cộng sản Liên Xô vào giữa những thập niên 1980: thiếu các ý
tưởng và chiến lược để duy trì sự cai trị độc đảng vĩnh viễn, nó có thể tuyệt
vọng tới mức dám chơi trò may rủi với bất cứ điều gì, kể cả cải cách dân chủ và
đa nguyên chính trị, như một chiến lược dài hạn để làm cho đảng thành một lực
lượng có thể tồn tại trong một nước Trung Quốc hoàn toàn biến đổi bởi hiện đại
hóa kinh tế xã hội.
Nếu
sự thống nhất trong giới chủ chốt là chất keo của hệ thống hậu Thiên An Môn,
thành tựu kinh tế, như thường được thừa nhận, là nguồn quan trọng nhất của tính
chính đáng phổ biến cho đảng cầm quyền. Một phần tư thế kỷ tăng trưởng cao đã
mua một thời gian dài ổn định xã hội tương đối cho ĐCSTQ và cung cấp nó nhiều
nguồn lực rất lớn để tăng cường khả năng đàn áp và mua chuộc giới chủ chốt mới
trong xã hội và phát triển tầng lớp trung lưu thành thị. Tuy nhiên, vì bây giờ “phép
lạ kinh tế Trung Quốc” đang kết thúc, trụ cột thứ hai của hệ thống hậu Thiên An
Môn cũng sắp gãy đổ theo.
Bề
ngoài, suy thoái kinh tế mạnh bạo hiện nay của Trung Quốc có vẻ giống như sự giảm
tốc tự nhiên sau nhiều thập kỷ tăng trưởng nóng bỏng. Nhưng một cái nhìn sâu
hơn về các nguyên nhân của “sự sụp đổ lớn của Trung Quốc” gợi ra rằng, có những
trở ngại về cấu trúc và thể chế, chứ không phải những trở ngại mang tính chu
kỳ, nằm ngay trong hoạt động và rằng việc Trung Quốc đang bước vào một giai
đoạn tăng trưởng kinh tế từ thấp đến vừa, có thể gây nguy hại tính chính đáng của
ĐCSTQ. Những bản tin tường thuật về những rắc rối kinh tế gần đây của Bắc Kinh
tập trung chủ yếu vào các triệu chứng dễ thấy và kịch tính của tình trạng bất ổn
kinh tế của Trung Quốc, chẳng hạn như sự sụp đổ của bong bóng thị trường chứng
khoán và sự mất giá tiền tệ bất ngờ. Tuy nhiên, sự giảm tốc trong tăng trưởng của
Trung Quốc có nguồn gốc sâu xa hơn nhiều.
Về
mặt cấu trúc, sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc trong thời kỳ hậu Thiên
An Môn đã được thúc đẩy chủ yếu bởi các yếu tố thuận lợi hoặc sự kiện chỉ có một
lần, chứ không phải bởi tính ưu việt có chủ đích của một nhà nước độc tài.
Trong số những yếu tố hay sự kiện đó, quan trọng nhất là “sự phân chia dân số”,
yếu tố này cho ra một nguồn cung cấp, dường như vô tận, lao động trẻ, khoẻ, giá
rẻ cho công nghiệp hóa của Trung Quốc. Ngoài mức lương thấp, người nhập cư trẻ
từ các vùng nông thôn đến các trung tâm đô thị có thể có được một sự gia tăng
lớn ngay lập tức về năng suất lao động chỉ đơn giản là do đã được kết hợp với
nguồn vốn hoạt động mà không cần phải chuẩn bị giáo dục thêm nhiều. Do đó, chỉ
riêng việc bố trí lại lực lượng lao động dư thừa vùng nông thôn của đất nước
cho các nhà máy, cửa hàng, và các công trình xây dựng tại các thành phố có thể
làm cho nền kinh tế hiệu quả hơn. Theo số liệu của Trung Quốc, năng suất một
công nhân đô thị cao gấp bốn lần một nông dân vùng quê. Trong ba thập kỷ qua,
khoảng 270 triệu lao động nông thôn (không tính gia đình của họ) đã chuyển đến
các thành phố và hiện chiếm 70 % lực lượng lao động đô thị. Một số nhà kinh tế
ước tính rằng khoảng 20 % tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong thập niên 1980
và 1990 là từ việc đổi chỗ lao động nông thôn – thành thị. Nhưng vì dân số
Trung Quốc đang già đi nhanh chóng và việc di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị
đã đạt tới đỉnh, yếu tố cấu trúc thuận lợi chỉ thực hiện một lần này không thể
nhân rộng được.
Một
cú sốc tích cực khác, chỉ xảy ra một lần, góp phần vào tăng trưởng của Trung Quốc
từ vụ Thiên An Môn, là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm
2001. Trong thập niên 1990, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Trung
Quốc là 15,4% mỗi năm, nhờ việc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Nhưng sau
khi gia nhập WTO, Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm trong xuất khẩu
21,7% trong giai đoạn 2002-08. Tăng trưởng nhờ xuất khẩu bắt đầu chậm lại sau
năm 2011. Từ năm 2012 đến năm 2014, tăng trưởng xuất khẩu trung bình là 7,1%,
chỉ bằng 1/3 tăng trưởng trong thập niên trước. Trong 7 tháng đầu năm 2015, xuất
khẩu co lại khoảng 1%, diễn biến này có thể đã thúc đẩy Bắc Kinh phá giá đồng
nhân dân tệ.
Có
lẽ khía cạnh rắc rối nhất của triển vọng kinh tế dài hạn của Trung Quốc là
khoản lời từ chiến lược tăng trưởng nhờ đầu tư đang giảm dần. Là một quốc
gia đang phát triển với trữ lượng vốn tương đối thấp, Trung Quốc ban đầu được
hưởng lợi lớn từ sự gia tăng bền vững trong tỉ lệ đầu tư của mình. Trong thập
niên 1980, Trung Quốc đưa trung bình 35,8% GDP vào nhà máy, cơ sở hạ tầng và
nhà ở. Tỉ lệ này về trung bình tăng 42,8% trong thập niên 2000 và đã đạt mức
47,3% kể từ năm 2010. Gia tăng lớn như vậy trong đầu tư, chiếm hơn một nửa tăng
trưởng GDP của Trung Quốc, là động cơ chính của việc mở rộng kinh tế trong 15
năm qua.
Tuy
nhiên, tăng trưởng nhờ đầu tư trong bối cảnh Trung Quốc đã có ba hậu quả tiêu cực.
Một là khoản lời giảm dần trong đầu tư, bởi vì mỗi một gia tăng nhỏ trong sản
lượng, đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn, được đo bằng tỉ số sản lượng vốn (số tiền
đầu tư cần thiết để tạo ra thêm một nhân dân tệ GDP). Trong thập niên 1990, tỉ
số sản lượng vốn của Trung Quốc là 3,79. Trong thập niên 2000, nó đã tăng đến
4,38. Xu hướng này (tăng trưởng đòi hỏi đầu tư ngày càng tăng) chỉ đơn giản là
không bền vững. Trung Quốc đang đầu tư gần một nửa GDP của nước này, một con số
lạ thường có được nhờ nhà nước kiểm soát việc phát triển cơ sở hạ tầng. Tầm mức
dư thừa và phân bổ sai vốn cũng đều lạ thường.
Một
tác hại khác gây ra cho nền kinh tế là việc đầu tư bóp nghẹt mức tiêu thụ của
hộ gia đình (36% GDP trong năm 2013, so với 60% ở Ấn Độ), gây ra sự mất cân bằng
cấu trúc lớn lao và làm cho tăng trưởng bền vững thành bất khả. Sự tăng trưởng
bền vững đó phải xuất phát từ việc tách ra khỏi các phương thức dựa trên xuất
khẩu để chuyển sang sự tăng trưởng thị trường trong nước, nhưng nó không
thể cắm rễ được với mức tiêu thụ hộ gia đình thấp giả tạo như thế.
Cái
giá cuối cùng phải trả của tăng trưởng nhờ đầu tư của Trung Quốc là, phần lớn
điều đó do tín dụng cấp vốn và đuợc cấy vào những ngành công nghiệp đã bị
nạn dịch dư thừa công suất. Với tỉ lệ nợ trên GDP vượt quá 280% GDP hiện nay
(so với 121% vào năm 2000), rủi ro của một cuộc khủng hoảng tài chính toàn diện
tăng lên vì những con nợ lớn nhất (chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà
nước, và nhà phát triển bất động sản) lại có khả năng trả nợ kém do cơ sở thuế
nhỏ hẹp (chính quyền địa phương), dư thừa năng suất và khả năng sinh lợi thấp
(doanh nghiệp nhà nước), và bong bóng bất động sản xì hơi (nhà đầu tư bất động
sản).
Nếu
khủng hoảng kinh tế dài hạn của Trung Quốc chỉ thuần là cấu trúc, triển vọng của
đất nước này không nhất thiết là thảm khốc. Các cải cách hiệu quả có thể tái
phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn để làm cho nền kinh tế hiệu quả hơn. Nhưng sự
thành công của những cải cách này cốt yếu lại xoay quanh bản chất của nhà nước
Trung Quốc và các tổ chức chính trị của nó. Việc tạo ra sự giàu có bền vững
chỉ có thể diễn ra tại các quốc gia mà ở đó quyền lực chính trị bị nền pháp
trị (rule of law) kiềm chế, quyền sở hữu tư nhân được bảo vệ một cách hiệu quả,
và có nhiều cách vươn tới các cơ hội. Ở các nuớc bị một nhóm chủ chốt nhỏ
thống trị, điều ngược lại sẽ xảy ra: Những kẻ nắm quyền lực chính trị trở
thành những kẻ trấn lột, sử dụng các công cụ cưỡng chế của nhà nước để chiếm
lấy của cải của xã hội, bảo vệ đặc quyền của họ, và làm dân thường nghèo đi.
Chắc
chắn, các chính sách kinh tế của ĐCSTQ đã thay đổi không còn nhận ra kể từ cuối
thời đại Mao. Tuy nhiên, nhà nước độc đảng Trung Quốc vẫn chưa tỏ rõ bản
năng trấn lột và các tổ chức của nó. Mặc dù trên lời nói thì hô hào tôn trọng
các quyền thị trường và tài sản, chính sách và hành động thực tế của giới cầm
quyền cho thấy rằng, họ không tôn trọng quyền sở hữu tư nhân và cũng không muốn
bảo vệ các quyền này. Các bằng chứng hùng hồn nhất về sự thiếu vắng sự sẵn sàng
của họ trong việc hạn chế khả năng và nỗi thèm khát trấn lột của nhà nước độc
đảng là sự thù địch không dấu giếm của các lãnh đạo chóp bu đối với ý tưởng
về chủ nghĩa hợp hiến mà bản chất của nó là các giới hạn thực thi được đối với
quyền lực của nhà nước và các nhà cai trị. Việc ĐCSTQ không chấp nhận bất cứ
giới hạn có ý nghĩa nào đối với quyền lực của họ, trong ý nghĩa thực tế, hàm ý
rằng Trung Quốc không thể có các cơ quan tư pháp thật sự độc lập hoặc cơ quan
quản lý có khả năng thực thi pháp luật và các quy định. Vì nền kinh tế thị trường
đích thực không thể hoạt động mà không có các tổ chức hoặc cơ quan như vậy,
rõ ràng là chừng nào đảng còn đặt mình trên luật pháp thì các cải cách kinh tế
theo thị trường thật sự là không thể có.
Nhiều
nhà quan sát cho rằng, dù vậy chế độ độc đảng vẫn có khả năng thực hiện các cải
cách theo thị trường, và nêu lịch sử thời hậu Mao của Trung Quốc như là bằng
chứng. Lập luận như vậy đã bỏ qua thực tế cốt lõi là các cải cách kinh tế thời
hậu Mao, dù ấn tượng trên bề mặt, phần lớn đều cạn kiệt hết tiềm năng. Hơn nữa,
hệ thống chủ nghĩa Mao đã rất không hiệu quả đến mức thậm chí các cải cách từng
phần cũng có thể bật ra sự gia tăng năng suất rất lớn, đặc biệt là trong một xã
hội mà ở đó năng lượng kinh doanh của người dân đã bị đè nén bằng khủng bố độc
tài toàn trị trong ba thập kỷ. Quan trọng hơn nữa, những cải cách kinh tế từng
phần này chưa thọc sâu vào nền tảng kinh tế của sự cai trị của ĐCSTQ: sở hữu
nhà nước hầu hết các tư liệu sản xuất như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, phát
điện, viễn thông, ngân hàng, dịch vụ tài chính, và các ngành công nghiệp nặng.
Cái đang kềm giữ nền kinh tế Trung Quốc không phải là khu vực tư nhân năng động
mà là các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả vốn vẫn tiếp tục nhận được các khoản
trợ cấp và phung phí nguồn vốn quý giá.
Cải
cách kinh tế đích thực và đầy đủ, nếu thật sự được chấp nhận, sẽ đe dọa phá
hủy các nền tảng như vậy. Trong mọi khả năng có thể xảy ra, từ bỏ hầu hết sự
kiểm soát đối với nền kinh tế và tài sản quốc gia to lớn của Trung Quốc sẽ dẫn
đến sự sụp đổ về tổ chức của ĐCSTQ. Đảng cấp kinh phí và trợ giúp các cơ sở hạ
tầng tổ chức rộng lớn của nó (các cấp uỷ đảng và các chi bộ trong khắp xã hội
Trung Quốc) bằng các quỹ công, số tiền chính xác là rất lớn nhưng vẫn chưa được
biết. Phần lớn kinh phí cho tổ chức và hoạt động của ĐCSTQ được cấp qua ngân
sách không rõ ràng của nhà nước Trung Quốc. Nếu ĐCSTQ từ bỏ quyền kiểm soát
kinh tế và việc chi tiêu của chính quyền được thực hiện thật trong suốt thì
đảng sẽ không còn có nguồn tài chính để tồn tại. Đảng sẽ trở nên bất khả
trong việc tài trợ các quyền lợi xa hoa và các đặc quyền trong đảng, chẳng hạn
như chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, ngân sách giải trí lớn, nhà ở miễn phí,
và các khoản phụ cấp khác vốn được cấp cho các quan chức như là phần thưởng cho
thành viên trong câu lạc bộ giới chủ chốt.
Một
hậu quả thảm khốc của các cải cách hoàn chỉnh theo thị trường sẽ là sự hủy diệt
hệ thống đỡ đầu mà ĐCSTQ dựa vào để bảo đảm sự trung thành của những người ủng
hộ. Nền móng của hệ thống này là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hệ thống
quan chức kinh tế do đảng kiểm soát và các cơ quan điều hành. Nếu cải cách
thị trường dẫn đến tư nhân hóa đích thực các doanh nghiệp này (chiếm ít nhất
một phần ba GDP của Trung Quốc), ĐCSTQ sẽ không còn có thể dùng những chỗ làm
tốt và những hợp đồng béo bở để thưởng cho những người trung thành, do đó có
nguy cơ mất hoàn toàn sự ủng hộ của họ. Được biết, trong kế hoạch cải cách kinh
tế của ĐCSTQ công bố vào mùa thu năm 2013, ban lãnh đạo mới nhắc lại rằng đảng
sẽ không loại bỏ các DNNN.
Vì
vậy, việc các tổ chức trấn lột của Trung Quốc tiếp tục tồn tại sẽ loại đi
những cải cách thị trường hoàn chỉnh, triệt để và thành công. Tính bất khả của
nhiệm vụ xây dựng một nền kinh tế thị trường đích thực được nền pháp trị hậu
thuẫn có thể được tóm tắt trong câu tục ngữ Trung Quốc, dữ hổ mưu bì (yu
hu mou pi/与虎谋皮), hay thương lượng với
cọp để nó cho lột da. Triển vọng dài hạn đối với tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc, chìa khóa cho sự sống còn của ĐCSTQ, không chút lạc quan. Vì thời kỳ tăng
trưởng nhanh chóng nhờ những cải cách từng phần và các yếu tố hay sự kiện thuận
lợi chỉ có một lần đã kết thúc, để Trung Quốc duy trì tăng trưởng đòi hỏi một
cuộc cải tổ triệt để các tổ chức kinh tế và chính trị để đạt được hiệu quả cao
hơn. Nhưng vì bước đi định mệnh này sẽ phá hủy các cơ sở kinh tế của sự cai trị
của ĐCSTQ, rất khó để tưởng tượng rằng đảng sẽ thật sự muốn tự huỷ hoại về kinh
tế, và do đó tự huỷ diệt về chính trị. Những ai thấy không thuyết phục bởi lập
luận như vậy nên đếm số lượng các chế độ độc tài trong lịch sử sẵn sàng từ bỏ đặc
quyền và quyền kiểm soát kinh tế vì sự thịnh vượng lâu dài cho đất nước.
Lừ
đừ tiến tới đàn áp và chủ nghĩa dân tộc
Nếu
như tình trạng trì trệ kinh tế dài hạn xảy ra thì sự ủng hộ của tầng lớp trung
lưu Trung Quốc đối với nguyên trạng sẽ bị xói mòn. Lựa chọn của tầng lớp trung
lưu phát triển nhanh (một trụ cột quan trọng trong chiến lược sinh tồn hậu
Thiên An Môn của ĐCSTQ), đợt bùng nổ kinh tế trong phần tư thế kỷ vừa qua có khả
năng thực hiện được. Suy thoái kinh tế lâu dài của Trung Quốc chắc chắn sẽ làm
giảm đi cơ hội, tướt bớt kỳ vọng và hạn chế chuyển dịch đi lên cho các thành
viên của nhóm xã hội quan trọng này, mà việc họ chấp nhận sự cai trị của ĐCSTQ
phụ thuộc vào khả năng mang đến thành tựu kinh tế đạt yêu cầu và liên tục.
Với
việc bốc hơi sự thống nhất trong giới chủ chốt, sự trì trệ kinh tế đang thấp
thoáng, và sự xa lánh có vẻ đang hiển hiện của tầng lớp trung lưu, mô hình hậu
Thiên An Môn chỉ còn có hai trụ cột: đàn áp và chủ nghĩa dân tộc. Các chế độ độc
tài đương đại, thiếu tính chính đáng có được qua một tiến trình chính trị cạnh
tranh, chủ yếu có ba phương cách để nắm giữ quyền lực. Một là, hối lộ người
dân với các lợi ích vật chất, cách thứ hai là đàn áp họ bằng bạo lực và sợ hãi,
và cách thứ ba là gợi tình cảm dân tộc trong họ. Các chế độ chuyên quyền khôn
khéo và thành công hơn, những người cai trị dựa trên tính chính đáng nhờ vào
thành tựu (hối lộ) nhiều hơn là dựa trên sự sợ hãi hay chủ nghĩa sô vanh hiếu
chiến chủ yếu là vì đàn áp phải trả giá cao, còn chủ nghĩa dân tộc thì có thể
nguy hiểm. Trong thời đại hậu Thiên An Môn, chắc chắn là ĐCSTQ sử dụng cả ba
công cụ này, nhưng họ lệ thuộc chủ yếu vào thành tựu kinh tế và cũng viện đến
đàn áp (có chọn lọc) cùng với chủ nghĩa dân tộc chỉ như là một phương cách phụ
trong việc cai trị.
Tuy
nhiên, xu hướng kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền vào cuối năm 2012 cho thấy
rằng, đàn áp và chủ nghĩa dân tộc đang giữ vai trò ngày càng nổi bật trong chiến
lược sinh tồn của ĐCSTQ. Một cách giải thích hiển nhiên là vì tăng trưởng kinh
tế sút kém đang tạo ra những căng thẳng xã hội và làm xói mòn sự ủng hộ của
công chúng đối với ĐCSTQ, do đó buộc chính quyền phải ngăn chặn mầm móng thách
thức xã hội bằng bạo lực và chuyển hướng sự chú ý của công chúng bằng chủ nghĩa
dân tộc. Tuy nhiên, có một cách giải thích cũng có cùng giá trị mà nhiều nhà
quan sát đã bỏ qua. Chiến lược sinh tồn phụ thuộc vào việc mang lại tăng trưởng
kinh tế để duy trì tính hợp pháp vốn tự nó không bền vững, không chỉ vì tăng
trưởng kinh tế không thể nào bảo đảm được và kỳ vọng không ngừng gia tăng của
người dân sẽ không thể đáp ứng nổi, mà còn vì tăng trưởng kinh tế bền vững tạo
ra những thay đổi kinh tế xã hội về mặt cấu trúc, như các nghiên cứu khoa học
xã hội và lịch sử của quá trình chuyển đổi dân chủ đã cho thấy, vốn gây đe dọa
có tính sống còn đến sự kéo dài của chế độ chuyên quyền.
Chế
độ chuyên quyền buộc phải ngã giá kiểu Faust (bán linh hồn cho quỷ Satan
đổi lấy những tiện ích trần tục) với tính chính đáng dựa trên thành tựu,
chắc chắn sẽ bị thua cược vì những thay đổi kinh tế xã hội do tăng trưởng
kinh tế sẽ tăng cường khả năng tự chủ của các lực lượng xã hội ở thành thị,
như doanh nhân, trí thức, chuyên gia, tín đồ tôn giáo, và công nhân bình thường
thông qua các cấp văn hoá cao hơn, tiếp cận nhiều hơn với các thông tin, tích
lũy của cải riêng tư, và năng lực tổ chức hành động tập thể được nâng cao. Nghiên
cứu khoa học đã xác lập một mối tương quan mạnh mẽ giữa mức độ phát triển kinh
tế và sự tồn tại của nền dân chủ, cũng như giữa thu nhập tăng cao và xác suất sụp
đổ của các chế độ chuyên quyền. Trong thế giới hiện đại, mối quan hệ tích cực
giữa sự giàu có (đo bằng thu nhập bình quân đầu người) và dân chủ có thể được
nhìn thấy trong biểu đồ dưới đây, nó cho thấy rằng tỉ lệ phần trăm dân chủ (hay
“tự do” – theo phân loại của Freedom House) tăng lên đều đặn khi mức thu nhập
tăng lên. Các nước tự do một phần giảm đi khi thu nhập tăng lên. Sự phân bố của
các chế độ phi dân chủ, hoặc các chế độ độc tài, có dạng giống hình chữ U.
Trong khi nhiều chế độ độc tài có thể tồn tại ở các nước nghèo (2/5 các nước dưới
đáy về thu nhập bình quân đầu người), sự hiện diện của các chế độ này ở
2/5 các nước trên đỉnh dường như bác bỏ quan điểm cho rằng sự giàu có tỉ lệ thuận
với dân chủ. Tuy nhiên, khi nhìn sâu hơn về các dữ liệu, có thể thấy rằng gần
như tất cả các nước giàu cai trị bởi chế độ độc tài là những nước sản xuất dầu
mỏ, ở đó giới cầm quyền có khả năng tài chính để mua chuộc người dân chấp nhận
sự cai trị độc đoán.
Nguồn:
Tính toán sử dụng dữ liệu thu nhập dựa trên sức mua trên đầu người (PPP) do
Ngân hàng Thế giới cung cấp. Chỉ số tự do do Freedom House cung cấp.
Nhìn
vào biểu đồ này, nhà cầm quyền Trung Quốc sẽ phải lo lắng về triển vọng trung hạn
và dài hạn của họ. Có 87 quốc gia có thu nhập đầu người, được đo theo PPP, cao
hơn Trung Quốc. Có 58 nước trong số đó là dân chủ, 11 nước được Freedom House
phân loại là “tự do một phần”, và 18 nước là độc tài (“không tự do”, theo
Freedom House). Nhưng trong số 18 quốc gia “không tự do” với thu nhập bình quân
đầu người cao hơn Trung Quốc thì 16 nước là nước dầu hoả (Belarus cũng nằm
trong nhóm này vì Nga cung cấp năng lượng, được trợ cấp đáng kể). Hai quốc gia
không có dầu là Thái Lan (một chế độ độc tài quân sự đã lật đổ chế độ nửa dân
chủ vào năm 2014) và Cuba (cũng là nền độc tài độc đảng Leninist). Trong số 11
quốc gia tự do một phần, Mexico và Malaysia là hai nước sản xuất năng lượng
đáng kể còn Kuwait và Venezuela các nước có dầu hoả từ lâu. Điều sẽ cho các nhà
lãnh đạo ĐCSTQ thậm chí nhiều lý do để lo lắng là thu nhập bình quân đầu người
Trung Quốc là $13.216 (PPP) năm 2014 tương đương với Đài Loan và Hàn Quốc trong
những năm cuối thập niên 1980, khi cả hai bắt đầu dân chủ hoá. Nếu như kinh
nghiệm chuyển đổi chế độ tại các nước thu nhập mức trung bình cao, bao gồm
cả Đài Loan và Hàn Quốc, được áp dụng thì ĐCSTQ sẽ phải trông chờ đòi hỏi
và vận động xã hội cho thay đổi chính trị sẽ tăng trong thập kỷ tới (một số dấu
hiệu của sự vận động này có thể đã được phát hiện).
Hệ
quả duy nhất có thể rút ra từ phân tích này là, trừ khi Trung Quốc muốn theo
gương của Cuba và duy trì một nền kinh tế khép kín để bảo đảm sự tồn tại của chế
độ độc đảng, TQ sẽ phải đối mặt với việc giảm cơ may trong việc tiếp tục nắm
giữ quyền lực (với điều kiện không có điều kỳ diệu làm cho Trung Quốc biến
thành một nước tương đương với Saudi Arabia). Nhưng vì Trung Quốc sẽ không bao
giờ là một nước dầu hoả, ĐCSTQ có thể có một cơ hội sống sót dài hạn bằng cách
đưa ra một hình thức chính trị cạnh tranh nào đó và trở thành một chế độ “tự do
một phần” (bước tiến quyết định ra khỏi hiện trạng Leninist của chế độ). Hoặc
cách khác, ĐCSTQ có thể chống lại thậm chí các cải cách ôn hòa và đánh cược sự
tồn tại của mình với việc leo thang đàn áp và châm dầu chủ nghĩa dân tộc.
Phán
đoán từ các chính sách và biện pháp của lãnh đạo ĐCSTQ hiện tại, đảng dường
như có ý định đánh cược với lịch sử. Trong ba năm qua, đảng đã tăng cường đàn
áp rất nhiều. Trong những bước đáng chú ý nhất, ĐCSTQ đã hùng hổ thắt chặt kiểm
duyệt internet, truyền thông xã hội, và báo chí, thông qua luật an ninh quốc
gia được thảo ra chủ yếu nhằm ngăn bớt các tổ chức phi chính phủ và bảo đảm an
toàn cho chế độ, phá hủy hàng trăm thánh giá nhà thờ để hạn chế quyền tự do
tôn giáo, tăng cường kiểm soát tư tưởng tại các trường đại học, và bắt giữ hàng
chục luật sư nhân quyền và các nhà hoạt động dân sự về những tội danh vu vạ.
Trong nhiều cách, mức độ đàn áp hiện nay là cao hơn so với bất kỳ lúc nào kể từ
cuộc đàn áp Thiên An Môn.
Đáng
lo ngại không kém nhưng nguy hiểm hơn là việc leo thang hô hào chủ nghĩa dân tộc
Trung Hoa của Bắc Kinh. ĐCSTQ thực hiện tất cả, ngoại trừ từ bỏ chủ trương giấu
mình chờ thời và chính sách đối ngoại không đối đầu của Đặng Tiểu Bình, nghiêng
về một chiến lược cơ bắp hơn với bên ngoài đưa Trung Quốc vào tiến trình va
chạm với Hoa Kỳ. Bằng chứng của việc Bắc Kinh vực dậy chuyện hô hào lại chủ
nghĩa dân tộc và chính sách đối ngoại quyết đoán có thể được tìm thấy trong việc
dàn dựng cuộc diễu quân đầu tiên kỷ niệm ngày Nhật Bản thua trong Đệ Nhị Thế
chiến (mặc dù ĐCSTQ quá lắm chỉ giữ một vai trò bên lề trong chiến tranh),
trong chiến dịch tuyên truyền kỷ niệm “Giấc mơ Trung Quốc” (mà bản chất là sự
hồi sinh Trung Quốc như một cường quốc lớn), trong đòi hỏi gần như rõ ràng được
sánh ngang với Hoa Kỳ (diễn đạt bằng lời kêu gọi của Bắc Kinh về “loại quan hệ
mới giữa các cường quốc lớn”), trong các cuộc tấn công không ngừng nghỉ mạng
của chính phủ và các cơ sở thương mại Mỹ, và trong các hành động khiêu khích
và nguy hiểm tới hạn ở Biển Hoa Đông và Biển Đông (lập vùng nhận dạng phòng
không đầy tranh cãi bên trên Quần đảo Senkaku / Điếu Ngư đang tranh chấp cùng
việc bồi đắp đất hàng loạt và xây dựng đảo ở các vùng biển tranh chấp trên Biển
Đông).
Nếu
ĐCSTQ tin rằng việc leo thang đàn áp và chủ nghĩa dân tộc sẽ cho phép họ duy
trì quyền lực trong giai đoạn có sự đảo lộn trong giới chủ chốt, thành tựu kinh
tế suy giảm, và căng thẳng xã hội tăng cao thì họ cần phải cân nhắc những rủi
ro to lớn và cái giá phải trả cho chiến lược sinh tồn mới này. Ngoài việc đưa
Trung Quốc thụt lùi, chiến lược này nguy hiểm và không hề bền vững. Đàn áp có
thể có tác dụng trong một giai đoạn, nhưng các chế độ chuyên quyền quá phụ thuộc
vào nó phải được chuẩn bị leo thang sử dụng bạo lực liên tục và áp dụng các biện
pháp hà khắc hơn bao giờ hết để ngăn chặn các lực lượng đối lập. Đàn áp cũng có
thể có hại cho doanh nghiệp vì nhà cầm quyền buộc phải cắt giảm các luồng thông
tin và tự do kinh tế để bảo đảm an ninh của chế độ. (Trên thực tế, các công ty
phương Tây đã phàn nàn về những bất tiện do “Vạn lý Tường lửa” gây ra. Nâng cao
mức độ đàn áp khi nền kinh tế đang chìm vào trì trệ sẽ làm căng thẳng nguồn lực
của ĐCSTQ, vì đàn áp đòi hỏi phải duy trì một mạng lưới hao tốn những kẻ chỉ điểm,
cảnh sát chìm, kiểm duyệt, và các lực lượng bán quân sự. Đàn áp cũng phải gánh
chịu chi phí rất lớn về đạo đức và có thể kích động một cuộc tranh luận chia rẽ
trong lòng chế độ. Đặt câu hỏi một cách thẳng thừng: Liệu Trung Quốc thật sự sẵn
sàng để trở thành một Bắc Triều Tiên?
Lợi
dụng chủ nghĩa dân tộc và trương cơ bắp có thể mang lại lợi ích chính trị ngắn
hạn, nhưng chỉ với cái giá phải trả là tình trạng an ninh lâu dài của ĐCSTQ. Một
trong những lựa chọn chiến lược khôn ngoan nhất do Đặng Tiểu Bình thực hiện là
phát triển quan hệ thân thiện với phương Tây do Mỹ đứng đầu để đẩy mạnh chương
trình hiện đại hóa của Trung Quốc. Trong thời kỳ hậu Đặng Tiểu Bình, hai người
tiền nhiệm của Tập Cận Bình, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, cũng đã học được
bài học quan trọng từ sự sụp đổ của Liên Xô: một cuộc xung đột chiến lược với
Hoa Kỳ sẽ gây nguy hiểm đến sự sống còn thật sự của ĐCSTQ. Chi phí của một cuộc
chạy đua vũ trang mới là khó có thể kham nổi, và sự thù địch dứt khoát trong
quan hệ Trung-Mỹ sẽ phá hủy quan hệ kinh tế song phương.
Hiện
chưa rõ liệu lãnh đạo ĐCSTQ có hiểu hết những nguy cơ chiến lược sinh tồn mới của
họ và nguy cơ chiến lược sinh tồn đó vẫn còn đang tiến triển hay không. Nếu các
thành viên của ĐCSTQ tin chắc rằng, chỉ có chiến lược này mới có thể cứu vãn được
quyền cai trị của ĐCSTQ, hiện đang bị đe dọa bởi việc gãy đổ những trụ cột
chính của mô hình hậu Thiên An Môn, thì có khả năng họ sẽ tiếp tục trên con đường
hiện nay. Trớ trêu thay, con đường đó, nếu phân tích bên trên là đúng, càng chắc
chắn hơn sẽ đẩy ĐCSTQ sụp đổ nhanh hơn, thay vì ngăn chặn sự sụp đổ của họ.
____
Bùi
Mẫn Hân (Minxin Pei) là giáo sư về Chính quyền học tại trường ĐH Claremont
McKenna College và là thành viên cao cấp không thường trực của Quỹ Marshall Đức
của Hoa Kỳ. Cuốn sách mới nhất của ông, China’s Crony Capitalism: Dynamics of
Regime Decay (Chủ nghĩa tư bản bè cánh của Trung Quốc: Động lực làm phân rã chế
độ), sẽ được Đại học Harvard xuất bản vào năm 2016. Bài viết này được rút ra từ
một dự án nghiên cứu lớn hơn về quá trình chuyển đổi chế độ có khả năng xảy ra
của Trung Quốc được ủng hộ tài chính từ Quỹ Smith Richardson, Tổng công ty
Carnegie của New York, Quỹ John D. và Catherine T. MacArthur.
___
[1] Các tài liệu về “sự
độc tài bền vững” của Trung Quốc là rất nhiều. Công trình tiêu biểu bao gồm
Andrew J. Nathan, “Authoritarian Resilience” (Tính bền vững của độc tài)”,
Journal of Democracy (tháng 1 năm 2003); David L. Shambaugh, China’s Communist
Party: Atrophy and Adaptation (Đảng Cộng sản Trung Quốc: Hao mòn và thích ứng)
(University of California Press, 2008).
[2] Andrew Nathan thừa
nhận năm 2013 rằng, “Sự đồng thuận mạnh mẽ hơn bất cứ lúc nào kể từ cuộc khủng
hoảng Thiên An Môn năm 1989 tới mức tính bền vững của chế độ độc tài ở Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) đang đến gần giới hạn của nó.” Nathan, “Foreseeing
the Unforeseeable,” [“Nắm bắt cái có thể lường trước,”] trong Andrew Nathan,
Larry Diamond, và Marc Plattner, eds., Will China Democratize? [Trung Quốc sẽ
dân chủ hóa?] (Johns Hopkins University Press, 2013); David Shambaugh xuất bản
một bài luận dài với nhiều ghi chú, “The Coming Chinese Crackup,” [Sự nứt rạn đang tới của Trung
Quốc,” trên tờ Wall Street Journal ngày 06 tháng 3 năm 2015 cho rằng các nước cờ
tàn [endgame] cho chế độ CPC đã bắt đầu.
[3] Samuel P.
Huntington, The Third Wave: Democratization in the Late Twentieth Century [Làn
sóng thứ ba: Dân chủ hóa cuối thế kỷ 20] (Đại học Oklahoma Press, 1993);
Guillermo O’Donnell và Philippe C. Schmitter, Transitions from Authoritarian
Rule: Tentative Conclusions about Uncertain Democracies [Chuyển đổi khỏi nền
cai trị độc tài: Kết luận dự kiến về các nền dân chủ bất ổn] (Johns Hopkins
University Press, 2013).
[4] Xem Aviezer Tucker,
“Why We Need Totalitarianism” [Tại sao chúng ta cần chế độ độc
tài], The American Interest (May / June 2015).
[5] Cai Fang Wang Dewen,
“Impacts of Internal Migration on Economic Growth and Urban Development in
China,” [Tác động của Di dân tới tăng trưởng kinh tế và phát triển đô thị ở
Trung Quốc], trong Josh DeWind và Jennifer Holdaway, eds., Migration and
Development Within and Across Borders [Di dân và Phát triển bên trong và xuyên
qua biên giới] (The Social Science Research Council, 2008.)
[6] Tài liệu về nhà nước
trấn lột t và tổ chức bòn rút là rất nhiều. Các công trình có ảnh hưởng nhất là
Daron Acemoglu và James Robinson, Why Nations Fail [Tại sao các quốc gia thất bại]
(Crown Publishing, 2012); Douglass North, Institutions, Institutional Change
and Economic Performance [Tổ chức, thay đổi thể chế và hiệu suất kinh tế]
(Cambridge Universitỉ Press, 1990).
[7] Sự kém hiệu quả rất
lớn của các doanh nghiệp nhà nước, so với sự năng động của khu vực tư nhân của
Trung Quốc, được nêu chi tiết trong Nick Lardy, Markets over Mao: The Rise of
Private Business in China [Thị trường vượt qua Mao: Sự trỗi dậy của Doanh nghiệp
tư nhân ở Trung Quốc] (Viện kinh tế quốc tế Peterson, năm 2014)
[8] Seymour Martin
Lipset, “Some Social Requisites of Democracy: Economic Development and
Political Legitimacy,” [Một số đòi hỏi xã hội phải có cho dân chủ: Phát triển
kinh tế và tính chính đáng chính trị], American Political Science Review (tháng
3 năm 1959); Adam Przeworski, Democracy and Development: Political Institutions
and Well-Being in the World, 1950–1990 [Dân chủ và phát triển: thể chế chính trị
và tình trạng hạnh phúc trên thế giới, 1950-1990] (Cambridge Universitỉ Press,
2000).
[9] Nghiên cứu khoa học
cũng đã xác lập một liên kết mạnh mẽ giữa dầu hoả và độc tài. Xem Michael Ross,
“Does Oil Hinder Democracy?” [Liệu Dầu kiềm hãm Dân chủ?” World Politics (tháng
4 năm 2001).
[10] Yu Liu và Dingding
Chen, “Why China Will Democratize,” [Tại sao Trung Quốc sẽ dân chủ hóa],
Washington Quarterly (mùa đông năm 2012).
No comments:
Post a Comment