Trần Bình Nam
(Phần 1/2)
Tôi
sinh ngày 17 tháng 7 năm 1933. Đến ngày 17 tháng 7 năm 2013 tôi được 80 tuổi chẵn,
tôi quyết định thôi không bàn về thế sựnữa và để thì giờ luận
bàn về các vấn đề liên quan đến nhân sinh (*).
Tám
mươi năm, một quảng đường dài và tùy theo hoàn cảnh của từng cá nhân và biến
chuyển của xã hội có thể chỉ là một phút thoáng qua như một cái
chớp mắt, nhưng cũng có thể là một cuộc sóng gió của một đời người .
Ai
là người Việt Nam sinh ra và đã sống trong khoảng thời gian 80 năm đó đều phải
trải qua những sóng gió lịch sử trên đất nước Việt Nam như tôi. Tôi
sinh ra khi người Pháp bắt đầu củng cố chế độthuộc địa tại Đông
Dương. Lớn lên được giáo dục nửa Tây nửa ta, trong khi toàn quốc đang kinh qua
cuộc kháng chiến đánh đuổi người Pháp. Người Pháp thua trận rút về. Việt Nam
chia đôi. Miền Bắc cho phe Cọng, miền Nam cho người quốc gia. Người Mỹ đến
giúp người quốc gia chận đứng ý đồ xích hóa miền Nam của cọng sản. Chiến
tranh dai dẳng kết thúc năm 1975 với phe cộng toàn thắng. Hằng trăm ngàn người
từ miền Nam bỏ nước ra đi tìm tự do gây ra một làn sóng tị nạn
lớn chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.
Là
một trong những thuyền nhân rời bỏ Việt Nam trong màn chót của bi kịch Việt
Nam, tám mươi năm qua tôi đã là một nhân chứng bất đắc dĩ cho thảm kịch Việt
Nam .
Những
gì tôi viết sau đây là lời một nhân chứng của một tấn thảm kịch mà trong đó những
người thuộc thế hệ tôi từng chia sẻ. Lời chứng có thể vui hay buồn,
có thể hợp nhĩ với lớp người này và không hợp nhĩ với lớp người kia tùy
theo chỗ đứng của mỗi người, nhưng tôi bảo đảm một điều là tôi làm chứng
cho sự thật ít nhất từchỗ đứng của tôi.
**
Trần Bình Nam **
***
Thiếu thời:
Dòng
dõi họ Trần tôi xuất phát từ tỉnh Sơn Nam, Bắc Việt (nay là Nam Định,
hướng đông nam thành phố Hà Nội 74km). Gia phả ghi rằng trong thập
niên 1530s cố tổ tôi chống họ Mạc theo ông Nguyễn Kim vào Thanh
Hóa, và năm 1558 theo Nguyễn Hoàng (con Nguyễn Kim) đi sâu hơn vào miền
Nam. Cố tổ tôi là sĩ quan cấp nhỏ của Chúa Nguyễn, được
Chúa Nguyễn cấp ruộng đất tại làng Thành Trung (cách Huế 30km) thuộc huyện
Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thành Trung trở thành chánh quán của họ Trần
Văn. Vào thế kỷ thứ19, con cháu họ Trần đa số trở thành
nông dân sống với ruộng đất.
Thập
niên 1910, người Pháp mở trường Bá Công ở Huế (Bá Công làtrăm
nghề) để đào tạo cán sự trung cấp cho các ngành điện lực, điện
thoại, điện báo, hỏa xa và hành chánh. Ông nội tôi xin cho Ba tôi vào học trường
Bá Công. Ở Huế Ba tôi gặp Mẹ tôi và hai người xây tổấm trên
một khoảnh đất trong vườn nhà của ông ngoại tôi ở Phường Đúc. Ông ngoại
tôi thuộc dòng quận công Lê Chất, một trong những viên tướng đã giúp vua Gia
Long đánh bại nhà Tây Sơn thiết lập nên triều đại nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ 19.
Tôi
là con út trong gia đình, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1933, có hai anh và hai chị.
Ba tôi cho con trai đi học. Hai chị tôi ở nhà giúp Mẹbuôn bán và
bếp núc theo truyền thống các gia đình Việt Nam thời đó. Hai chị tôi chỉ biết
đọc chữ quốc ngữ .
Anh
cả tôi, Trần Văn Bách bị lính Pháp bắn chết năm 1946 lúc 18 tuổi tại
Bến Cát, Thủ Dầu Một khi Pháp theo chân quân Anh trở lại Việt Nam sau
một thời gian bị Nhật đảo chánh.
Thời
gian “toàn quốc kháng chiến” bắt đầu từ cuối năm 1946, gia đình tôi tản
cư về Thành Trung. Đầu năm 1947 sau khi quân Pháp tái chiếm Huế, ba mẹ tôi
hồi cư trở về Phường Đúc. Ba tôi làm nghềxây cất, Mẹ tôi buôn
bán với chị áp tôi. Chị đầu đã đi lấy chồng. Tôi được vào học lớp nhất
trường tiểu học Trần Quốc Toản .
Năm
1948 tôi thi đậu kỳ thi tuyển vào học trường Trung học Khải Định. Chương trình
trung học gồm 7 năm và muốn tốt nghiệp trung học học sinh phải qua 3
kỳ thi. Kỳ thi trung học sau 4 năm. Hai năm sau thi Tú tài I và năm cuối thi Tú
Tài II.
Năm
1950 anh thứ nhì tôi, Trần Thanh Dương đi kháng chiến chống Pháp. Lúc đầu
ra Vinh thuộc tỉnh Nghệ An học trung học, sau đó vào khu 5 thuộc tỉnh Bình
Định. Sau khi ký hiệp định Genève, anh không ở trong thành phần tập kết
ra Bắc, trở về Huế mang theo vợ và 4 con. Chị đầu tôi
chết vì bệnh ung thư năm 1980. Hiện nay tôi còn một ông anh và một bà chị đều
trên 80 tuổi. Anh tôi sống ở Nha Trang, chị tôi sống ở Huế .
Trong
hai năm 1954-55, quân đội Pháp rút dần ra khỏi Việt Nam, người Mỹ đến giúp
củng cố chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Diệm đối mặt với nhiều khó
khăn. Các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài với sự tiếp tay của các tướng Nguyễn
Văn Hinh, Nguyễn Vỹ thân Pháp hoạt động gây bất ổn tại Sài Gòn. Tuy vậy
ông Diệm, với sự giúp đỡ của người Mỹ đãổn định tình hình
và định cư được khoảng một triệu người dân miền Bắc, đa số là tín đồ Thiên
chúa giáo trốn chạy cọng sản. Ông Diệm tổchức trưng cầu dân ý truất phế Bảo
Đại, quốc trưởng bù nhìn do Pháp dựng nên và thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH).
Năm
1954, sau khi đổ Tú tài I tại Huế, tôi vào Sài gòn theo học trường Cao đẳng
Vô Tuyến Điện, đồng thời tự luyện thi Tú Tài II đểhoàn tất chương trình
trung học.
Thời
gian đó, thanh niên đến tuổi đều phải nhập ngũ nên học sinh lớp cuối trung học
và đại học ai cũng tìm một đường để đi. Tôi thi đỗkỳ thi tuyển của Hải
quân VNCH tuyển mộ sinh viên sang học tại trường Hải quân Pháp. Chương
trình này do người Pháp viện trợ. Cuộc tuyển mộ năm 1955 là cuộc tuyển mộ cuối
cùng. Tôi theo học khóa đào tạo kỹ sư Hải quân. Chương trình học 3
năm. Hai năm đầu học tại trường Sĩ Quan Hải quân ở Brest, trong tỉnh
Finistère, bên bờĐại Tây Dương. Năm thứ ba các sinh viên, lúc này đã lên
Thiếu úy, sẽ được đi thực tập một năm trên chiến hạm Jeanne d’Arc chạy
vòng quanh thế giới để các tân sĩ quan có cơ hội tiếp xúc với
các quốc gia khác.
Khóa
tôi, học xong năm thứ hai cuối năm 1957 vào lúc quan hệ giữa
chính quyền VNCH và Pháp trở nên căng thẳng, Hải quân Pháp gởi trả chúng
tôi về Sài gòn.
Tôi
được bổ nhiệm đến Hải Vân Hạm Hát Giang (HQ 400). Vài tháng sau chuyển qua
Hộ Tống Hạm Đống Đa (HQ 03). HQ 03 sắp sửa đi Subic Bay, một căn cứ sửa
chữa tàu bè của Hạm đội 7 Hải quân Hoa Kỳ để đại tu bổ.
Tháng
6 năm 1958, tàu còn ở Subic Bay, tôi được lệnh thuyên chuyển đến
Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân tại Nha Trang (TTHL/HQNT). Trung tâm huấn luyện
này do Hải quân Pháp xây cất năm 1952 để đào tạo binh sĩ Hải
quân gồm sĩ quan và thủy thủ các ngành chuyên nghiệp để làm việc với
Hải quân Pháp, và vừa được chính thức chuyển giao cho Hải quân Việt Nam. Trường
SQHQ là một trong những trường thuộc TTHL/HQNT. Tháng 10 /1958 tôi đến
đơn vị mới. Lúc đó trường đang huấn luyện khóa 8 SQHQ. Việt ngữđược dùng
làm chuyển ngữ thay vì dùng chữ Pháp như các khóa trước.
Cuốn “Danh từ Khoa học” Pháp ngữ - Việt ngữ của giáo
sưHoàng Xuân Hãn đã giúp chúng tôi nhiều trong việc biên soạn tài liệu huấn luyện.
Nhưng các môn học Hải quân cần nhiều danh từ kỹthuật hơn nên chúng tôi hết
sức chật vật đánh đu với chữ nghĩa chuyên môn.
Tôi
phục vụ Hải quân 16 năm và làm việc liên tục tại TTHL/HQNT
13 năm, dưới quyền của 8 trong 9 vị Chỉ huy trưởng của Trung tâm từ ngày
thành lập cho đến khi kết thúc chiến tranh (**). Tôi đến
Nha Trang với cấp Thiếu úy và giải ngũ ở cấp Trung Tá năm 1971 sau
khi đắc cử dân biểu đại diện thành phố Nha Trang tại Quốc hội VNCH
khóa 2.
Tôi
kết hôn với Nguyễn Thị Phương Thảo năm 1959 và lúc giải ngũ tôi có 5 người
con: 2 trai, 3 gái tất cả đều sinh ra và lớn lên tại Nha Trang.
Wife : Nguyễn Thị
Phương Thảo 1935 - 2007
Tại
Quốc hội
Bản
Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa công bố ngày 18/3/1967 ấn định tổ chức
bầu cử Tổng thống và Thượng nghị viện, Hạ nghị viện vào cuối
năm. Hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ ra ứng cử trong một
liên danh tổng thống - phó tổng thống và đắc cử nhiệm kỳ 1967-1971. Ông Kỳ
chịu đứng phó cho ông Thiệu với lời hứa của ông Thiệu giao Quốc hội cho Kỳ kiểm
soát. Kỳ định dùng Quốc hội xây dựng thế chính trị cho mình, nhưng
sau đó Thiệu đã khéo léo lấy hết quyền của Kỳ. Vào cuối nhiệm kỳ
1967-1971 Thiệu nắm chắc hành pháp trong tay và đàn em của Thiệu trong
Quốc hội cũng lấn áp ảnh hưởng của Kỳ.
Tại
Quốc hội tôi gia nhập khối đối lập Dân Tộc Xã Hội (DTXH) . Khối DTXH gồm hai
nhóm chính trị: Dân Tộc và Xã Hội. Nhóm Xã Hội thành lập trong pháp
nhiệm 1967-1971 gồm các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) do dân biểu
Phan Thiệp cầm đầu và một sốdân biểu độc lập có khuynh hướng Phật giáo và một
vài dân biểu khác trong vùng Sài gòn, Gia Định như bác sĩ Hồ Văn
Minh, nhà báo Hồ Ngọc Nhuận … Nhóm Xã Hội chống khuynh hướng độc tài của tổng
thống Thiệu .
Nhóm
Dân Tộc gồm các dân biểu được giáo hội Phật giáo ủng hộ. Giáo hội Phật
giáo tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội năm 1967, nhưng quyết định tham dự cuộc
bầu cử năm 1971 và giúp 19 dân biểu đa số gốc miền Trung vào quốc
hội, trong đó có tôi đắc cử tại thị xã Nha Trang. Hai dân biểu uy tín
nhất là Lê Đình Duyên và Lý Trường Trân.
Hai
nhóm Xã Hội và Dân Tộc là nòng cốt của khối đối lập DTXH gồm 29 dân biểu. Trong
khối còn có các dân biểu thuộc nhóm tướng Dương Văn Minh như Hồ Ngọc
Nhuận, Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, Lý Quý Chung và 3 dân biểu độc lập:
Trần Văn Tuyên ở Sài gòn, Đinh Xuân Dũng ở Phan thiết và Trần
Cao Đễ ở Vũng Tàu .
Lúc
đầu, giáo hội Phật Giáo định ủng hộ Lê Đình Duyên làm trưởng khối.
Duyên là con trai của bác sĩ Lê Đình Thám, người chấn hưng phong trào Phật giáo
tại miền Trung trong thập niên 1930. Các nhà lãnh đạo Phật giáo như Thượng
tọa Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh và hấu hết các nhà lãnh đạo Phật giáo
đương thời đều do chương trình chấn hưng của bác sĩ Thám đào tạo .
Nhưng
sau cùng các vị lãnh đạo Phật giáo ủng hộ luật sư Trần Văn
Tuyên làm trưởng khối. Tuyên sinh năm 1913 tại tỉnh Tuyên Quang, Bắc
Việt, phía bắc Hà Nội 128 km. Ông gia nhập VNQDĐ năm 16 tuổi,và sau
khi tốt nghiệp cử nhân luật tại Hà Nội ông được bổ nhiệm tri huyện tại
tỉnh Tuyên Quang. Nhưng ông từ chức sớm về Hà Nội dạy học tại trường
trung học tư thục Thăng Long. Ông Võ Nguyên Giáp đang dạy Sử tại đó
và hai người quen biết nhau. Nhưng hai người đi theo hai con đường chính trị khác
nhau và trở thành địch thủ nhau cho đến năm1975, Giáp trở thành
kẻ chiến thắng, Tuyên chết trong tù. Tuyên là một trong những nhân vật ký
tên vào bản Tuyên ngôn Caravelle năm 1960 (2) kêu gọi tổng
thống Ngô Đình Diệm cải tổ và bị ông Diệm cầm tù.
Sau
khi Diệm bị lật đổ, ông Tuyên trở thành Phó thủ tướng cho Thủtướng
Phan Huy Quát. Nhưng chỉ trong 4 tháng (tháng 2 đến tháng 6- 1965), Quát
không chịu nổi áp lực của quân nhân từ chức trao quyền cho các ông tướng.
Tuyên trở về hành nghề luật sư, sau đó được bầu làm thủ lãnh
Luật sư đoàn. Ông ra ứng cử dân biểu nhiệm kỳ 1971-1975 và đắc cử tại
Saigon – Gia Định đại diện hai Quận 1 & 3.
Quyết
định ủng hộ ông Tuyên làm trưởng khối DTXH là một quyết định chính trị khôn
khéo của giáo hội Phật giáo. Tuyên đã gíúp giữcho khối đối lập không tan rả trước
nhiều lực xâu xé. Trước hết, tổng thống Thiệu không muốn làm
việc với đối lập mà ông cho là thân Cộng; thứ hai là nỗ lực của cọng
sản độn nhập vào để thao túng; và sau cùng Hoa Kỳ không có một chương
trình giúp xây dựng dân chủvì mục tiêu của Hoa Kỳ vào thời gian đó là chấm dứt
chiến tranh và rút quân.
Trong
nhiệm kỳ 1967-71 Thiệu gạt bỏ ảnh hưởng chính trị của Kỳ.
Trong nhiệm kỳ 2 (1971-75) Thiệu chọn ông Trần Văn Hương đứng phó. Hương là một
giáo sư trung học, nguyên hội trưởng Hội Hồng Thập Tự Việt Nam và có
thời làm Đô trưởng Sài gòn. Ông Hương có uy tín với nhóm Liên trường, gồm các cựu
học sinh các trường Trung học lớn ở Nam bộ. Trong cuộc bầu cử tổng
thống năm 1971, liên danh Thiệu – Hương ra tranh cử một
mình vì vào phút chót cả haiứng cử viên Dương văn Minh và Nguyễn Cao
Kỳ đều rút tên. Tuy nhiên với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, ông Thiệu vẫn
theo đường lối cứng rắn.
Lập
trường của khối DTXH đối với cuộc thương thuyết tại Paris là đạt được một thỏa ước
chính trị dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết để nhân dân miền
Nam tự chọn lấy chế độ chính trị của mình. Nhưng Tuyên biết
sự việc không đơn giản như vậy. Ông nghi ngờ chương trình thương
thuyết của tổng thổng Nixon và bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger. Năm
1972 ông Ronald Reagan có công việc riêng tạt qua Sài gòn đến thăm Tuyên để đáp
lễ chuyến thăm của Tuyên năm 1965 tại Sacramento. Năm 1965 Tuyên là Phó thủ tướng
đi công cán và ông Reagan đang làm thống đốc bang California. Trong một buổi họp
Khối Tuyên cho biết ông Reagan hỏi theo ý ông thì nên chấm dứt cuộc chiến Việt
Nam bằng cách nào. Qua câu chuyện với ông Reagan Tuyên có cảm tưởng Hoa Kỳ sẽ đi
đến một thỏa ước chấm dứt chiến tranh bất lợi cho VNCH. Khối DTXH ủng
hộ lập trường của tổng thống Thiệu là không chấp nhận một thỏa ước
không có điều khoản buộc quân đội Bắc việt phải rút về miền Bắc cùng một
lúc với quân đội Hoa Kỳ và đồng minh.
Tuy
nhiên dưới áp lực cắt viện trợ đi đôi với lời hứa của tổng thống Nixon sẽ can
thiệp quân sự mạnh mẽ - nếu Hà nội vi phạm thỏa ước tung quân
đánh miền Nam - Thiệu miễn cưỡng đồng ý ký Hiệp định Paris ngày
27/1/1973. Hiệp định không bắt buộc quân đội Bắc Việt rút quân.
Trước
Tết Nguyên Đán Quý Sửu, nhằm ngày 2/2/1973 khối DTXH tuyệt thực trước thềm quốc
hội phản đối Hoa Kỳ ký kết hiệp định Paris. Tuyên nói Hiệp định này sẽ làm
miền Nam mất vào tay cọng sản. Về mặt thực tế, còn nước còn tát, Tuyên
thuyết phục hai bên thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, cho rằng đó là cách duy nhất
để cứu miền Nam. Do đó khối DTXH ủng hộ và đứng ra thành lập Lực
lượng Thứ ba tham gia Hội đồng Hòa hợp Hòa giải Dân tộc
ba thành phầnquy định bởi Hiệp định và có nhiệm vụ tổ chức bầu cử.
Tuy nhiên, hai bên tiếp tục vi phạm hiệp định bằng cách lấn đất giành dân và Hội
đồng Hòa Hợp Hòa giải Dân tộc chưa bao giờ được hình thành.
Tuyên
từng tham gia cuộc thương thuyết tại Genève chấm dứt chiến tranh Pháp- Việt
chia đôi Việt Nam năm 1954. Ông biết cọng sản sẽkhông ngừng tay chừng nào họ chưa
chiếm được miền Nam, và muốn tồn tại không có phương cách nào khác hơn là xây dựng
một miền Nam dân chủ có một nền kinh tế tự lập vững mạnh.
Tuyên
nghĩ nếu Nam Hàn có thể đứng vững trước tham vọng thôn tính của cọng sản Bắn
Hàn tại sao miền Nam Việt Nam lại không? Hơn nữa VNCH còn nhận được nhiều
viện trợ của Hoa Kỳ hơn Nam Hàn. Nhưng ông cũng biết có một khác biệt quan
trọng. Hoa Kỳ muốn rời Nam Việt Nam, trong khi họ muốn ở lại Nam
Hàn. Còn nữa, Nam Việt Nam không có người lãnh đạo vững vàng như ông Pak
Chung Hee. Tổng thống Thiệu và các tướng lãnh của ông đều xuất thân từ lò
đào tạo quân sự của người Pháp mục đích để phục vụ nỗ lực
Pháp trở lại Việt Nam chứ không phải để tranh đấu cho nền độc lập
của đất nước.
Trong
khi đó khối DTXH gồm 3 nhóm đồng sàng dị mộng. Nhóm thân Phật giáo chống
Thiệu, nhóm Quốc Dân Đảng lo xây dựng lực lượng và thanh thế cho đảng,
nhóm thân tướng Dương Văn Minh có chương trình ủng hộ ông Minh trở lại
nắm quyền. Nhờ uy tín của Tuyên Khối DTXH mới không tan rã. Ngoài ra Tuyên
còn liên minh với một thành phần Công giáo do linh mục Trần Hữu Thanh cầm đầu để chống
tham nhũng và đòi nới lỏng chế độ kiểm duyệt báo chí.
Tuyên
biết tình thế rất khó khăn. Ông trăn trở tìm gỉải pháp. Ông
nghĩ đến quan hệ quốc tế; ông nghĩ đến việc ủng hộ tướng
Minh thay Thiệu … Thế địa lý chính trị vào thời gian đó cho thấy miền
Nam có thể sống còn vì Trung quốc không muốn một Việt Nam thống nhất. Cái
lo của Trung quốc là sự hiện diện của quân đội Mỹ ở biên giới
phía nam thì sau hiệp định Paris Mỹ đã rút hết.
Nhưng
con đường ủng hộ tướng Minh để chấm dứt chiến tranh trong hòa
bình là một con đường ảo tưởng. Sau khi ký hiệp định Paris, Hoa Kỳ chỉ muốn
yên ổn rút quân không bị quân đội VNCH ngăn cản. Và giải pháp Dương
Văn Minh hình như là một “âm mưu” bất thành văn giữa Hà Nội và Hoa Kỳ do
tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài gòn đạo diễn .
Đường
lối ủng hộ tướng Minh giải thích tại sao vào tháng 2 năm 1975 có một
điện tín từ khối DTXH đánh đi từ Sài gòn gởi cho quốc hội Mỹyêu cầu đừng
chấp thuận $300 triệu mỹ kim viện trợ cho VNCH. Sựthật là đầu năm
1975, tổng thống Ford yêu cầu quốc hội giải tỏa ngân khoản đó, nhưng quốc hội
Hoa Kỳ không muốn viện trợ nữa và câu giờ bằng cách cử một phái
đoàn dân biểu đi Sài gòn để xem xét tình hình. Nhóm này gồm bà dân biểu
Bella Abzug và Paul McClosky, hai dân biểu chống chiến tranh mạnh mẽ nhất
tại quốc hội . Đến Saigòn, bà Abzug tiếp xúc với Hồ Ngọc Nhuận, - một dân
biểu có cảm tình với Mặt Trận Giải Phóng miền Nam và là người tích cựcủng hộ giải
pháp Dương Văn Minh thay Thiệu – và nói với Nhuận rằng trong mọi trường hợp quốc
hội Hoa Kỳ cũng sẽ không giải tỏa ngân khoản này. Nhuận xem đây là
cơ hội tốt épThiệu hợp tác với Minh đểtìm một giải pháp chung, nên sau khi
thảo luận với một số dân biểu thân tướng Minh họp tại tư thất tướng
Minh, Nhuận thảo một điện văn và thuyết phục một số dân biểu khối DTXH ký
vào gởi cho quốc hội Hoa Kỳ. Nhìn lại nếu Hoa Kỳ viện trợ thêm 300 triệu mỹ kim
vũ khí vào lúc muộn màng đó cũng không cứu được miền Nam nếu không muốn nói chỉ làm
cho cuộc chiến kéo dài thêm vài tuần lễ hay vài tháng và thêm tổn thất
nhân mạng cho cả hai bên.
Hà
nội mở mặt trận đánh qua biên giới phía bắc năm 1972 chiếm tỉnh Quảng Trị và
uy hiếp thành phố Huế, đồng thời đánh vào cao nguyên miền Trung và tạo áp
lực vào thủ đô bằng mặt trận Bình Dương phía bắc Sài gòn. Quân đội VNCH chận
được cuộc tiến quân của Bắc Việt trên cả ba mặt trận, và tổng
thốngThiệu đã nhân tình hình căng thẳng ép Quốc hội thông qua Luật Ủy
quyền cho phép Tổng thống cai trị bằng sắc luật trong một thời
gian giới hạn. Với LuậtỦy quyền, tổng thống Thiệu được tự do hành động
không còn lo ngại tiếng nói của đối lập.
Năm
1974 Thiệu tu chính Hiến pháp để ông có thể ra ứng cử nhiệm
kỳ thứ 3 (1075-79). Lập luận của Thiệu là tình hình đang khẩn trương, “không
ai thay ngựa giữa dòng”. Cộng quân chiếm đất gìành dân khắp nơi, trong khi
Hoa Kỳ tiếp tục cắt giảm viện trợ, ngay cả căn bản “một đổi một”
theo hiệp định Paris cũng không được tôn trọng. Khối DTXH chống Luật Ủy
quyền và tu chính Hiến Pháp. Nhưng tin Trung quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa
của VNCH ngày 19/1 đã làm cho mọi tiếng nói chống đối trở nên mờ nhạt.
Câu
chuyện Trung quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974 vào thời điểm đó rất lờ mờ (3).
Quần đảo Hoàng Sa nằm ngoài khơi khoảng 380 km cách Đà Nẵng và được một đơn vị địa
phương quân VNCH trấn giữ. Tổng thống Thiệu không thông báo gì cho quốc hội biết
tình hình căng thẳng ngoài hải đảo. Quốc hội biết khi tin tức quốc tế loan
tải Trung quốc đã chiếm Hoàng Sa sau một trận hải chiến với Hải quân VNVH . Tổng
thống Thiệu là người đích thân ra lệnh nổ súng bảo vệHoàng Sa mà không
thông báo cho tòa đại sứ Hoa Kỳ biết như một thông lệ khi
ông có những quyết định quan trọng.
Biến
cố Hoàng sa diễn ra trong khi hạm đội 7 của Hoa Kỳ có mặt quanh đó, nhưng
không can thiệp, ngay cả khi bộ Tư lệnh Hải quân Việt
Nam yêu cầu cứu thủy thủ chiến hạm HQ 10 bị đánh chìm đang
trôi dạt trên biển, Hoa Kỳ cũng làm ngơ. Hoa Kỳ có thể biết kế hoạch
đánh chiếm Hoàng Sa của Trung quốc và đắc ý với kế hoạch này. Hoa Kỳ biết
Hà nội sẽ chiếm miền Nam, nên nếu Hoàng Sa nằm trong tay Trung quốc còn
hơn nằm trong tay Hà Nội, vì Nga – một đồng minh của miền Bắc- có thể xử dụng
để từ Biển Đông dòm ngó eo biển Malacca dẫn vào Thái Bình Dương. Có
nhiều chỉ dẫn cho thấy hình như có một thỏa thuận ngầm giữa Hoa Kỳ và
Trung quốc để Trung quốc chiếm Hoàng Sa trước khi Sài gòn sụp đổ (4) .
Ngày
27/4/1975 đối lập rơi vào một trường hợp khó xử khi lưỡng viện quốc hội thảo
luận một văn bản cho phép tổng thống Trần Văn Hương (vừa được Thiệu
từ chức trao quyền) giao quyền tổng thống cho tướng Dương Văn
Minh. Bản văn trên nguyên tắc vi phạm Hiến pháp vì không có điều khoản nào cho
phép một sự trao quyền nhưvậy, nhưng quốc hội không có sự chọn lựa
nào khác. Năm Sư đoàn quân cọng sản với xe tăng và trọng pháo đang vây hãm
Sài gòn và cho biết họ chỉ nói chuyện với tướng Minh về gỉải
pháp thành lập chính phủ liên hiệp để chấm dứt chiến tranh. Trước giờ biểu
quyết, dân biểu Trần Cao Đễ nói với Tuyên rằng quốc hội đang vi phạm Hiến
pháp. Tuyên trả lời: “Chúng ta hy sinh Hiến pháp để cứu nước”. Nhìn lại,
quyết nghị nhường quyền chỉ là một sự “câu giờ” do đại sứ Pháp
Merillon và đại sứ Hoa Kỳ Martin đạo diễn để tòa đại sứ Hoa Kỳ
có thì giờ rút đi an toàn.
Trong
nhiệm kỳ 1967-71 tại quốc hội xem như không có đối lập, ngoại trừ hai
dân biểu Trần Ngọc Châu và Phan Thiệp trong nhóm Xã Hội. Châu là một dân biểu độc
lập đại diện tỉnh Kiến Hòa, nơi ông hai lần làm tỉnh trưởng, lần đầu dưới thời
tổng thống Ngô Đình Diệm, lần thứ hai sau khi Diệm bị lật đổ. Châu bất
đồng ý kiến với cố vấn Hoa Kỳ về cách thức điều hành chương
trình “bình định nông thôn” và ra ứng cử dân biểu để có tiếng
nói đối với các vấn đề quốc gia. Châu không minh thị chống Thiệu và
chống Kỳ và được ông chủ tịch quốc hội Nguyễn Bá Lương, người của Kỳ, ủng
hộ vào chức vụ Tổng Thư Ký quốc hội.
Châu
là bạn quân ngũ với Thiệu, nhưng làm việc chặt chẽ với tòa đại sứ Hoa
Kỳ, nên Thiệu nghi Châu tạo thanh thế riêng để chống mình. Sai lầm lớn
của Châu là tiếp xúc với ông anh ruột Trần Ngọc Hiền, một điệp viên cao cấp của
Hà nội mà không báo cáo cho Thiệu biết. Châu chỉ báo cáo cho tòa đại sứ Hoa
Kỳ để che lưng. Khi Hiền bị bắt sự việc vỡ lở, Hoa Kỳ không
xác nhận Châu có cho tòa đại sứ biết và Thiệu có cớ bắt Châu đưa ra
tòa án quân sự xử 20 năm tù. Lúc đó Thiệu đã quét hết tay chân của Kỳ
trong quân đội và trong bộ máy hành chánh. Sau khi bỏ tù Châu, ông
Thiệu có thế nắm luôn quốc hội .
Cuộc
bầu cử dân biểu nhiệm kỳ hai, 1971-75, tổ chức tương đối dân chủ.
Ngoài việc nắm hết phiếu của miền cao nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, Thiệu
để cho các ứng cử viên các tỉnh miền Trung và vùng Sàigòn – Gia
Định tự do tranh cử. Phật giáo và VNQDĐ thắng lớn tại các tỉnh miền Trung;
nhóm Liên trường ủng hộ tướng Minh và một số thân Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam thắng tại vùng thủ đô. Sau bầu cử nhóm các dân biểu
này trở thành nòng cốt đối lập .
Nhiệm
kỳ 2, tại quốc hội có hai khối Dân Chủ và Cộng Hòa thân
chính, có khối DTXH đối lập, có nhóm Quốc gia trung lập. Đối lập tựdo
phát biểu ý kiến trước diễn đàn Quốc hội, nhưng đối lập không có phiếu
đa số để thông qua một bộ luật nào. Phiếu đa số nằm trong
tay các dân biểu thân chính và được dùng để thông qua các bộ luật ông
Thiệu cần. Ông Thiệu không chịu làm việc với đối lập. Ông cho đối lập là vô
tích sự bị thao túng bởi các nhóm chống chiến tranh và thân cộng. Ông
không hy vọng gì vào sự lãnh đạo của Tuyên.
Tiếng
nói của đối lập do đó không có ảnh hưởng gì. Trong khi đó Hoa Kỳ có ảnh
hưởng đến toàn bộ sinh hoạt của miền Nam từ xã hội, kinh tế đến
quân sự. Nhưng tòa đại sứ Hoa Kỳ cũng xem đối lập như một món hàng
trang trí, một thứ bình phong bênh vực Thiệu trước sự tốcáo của báo
chí là Hoa Kỳ dung dưỡng ông Thiệu độc tài. Thời Đệ nhịCộng Hòa là thời
gian Hoa Kỳ quá bận tâm vào việc chấm dứt chiến tranh.
Tòa
đại sứ Hoa Kỳ quan hệ với đối lập qua việc tiếp xúc với Tuyên. Ông có
tên trong danh sách khách mời tham dự các sinh hoạt có tính chính trị và
quan hệ xã hội (PR) của tòa đại sứ và cũng là khách của các viên chức
quan trọng tại tòa đại sứ Hoa Kỳ. Tuy nhiên trong các buổi họp hằng tuần của
Khối, ông ít khi nói đến các cuộc tiếp xúc này. Có lẽ vì chẳng có gì để nói.
Yếu
tố chính của sinh hoạt dân chủ què quặt vì người Việt chưa có truyền
thống sinh hoạt dân chủ. Cho đến thời điểm đó Việt Nam chưa từng có kinh nghiệm
dân chủ. Không kể thời phong kiến, thời gian chiến tranh chống
Pháp giành độc lập (1946-54), một bên là Cọng sản, một bên là Việt Nam tự do
thân Pháp có cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng với một ủy viên toàn quyền
người Pháp quyết định mọi việc. Dưới Đệ Nhất Cộng Hòa, Việt Nam có một Hiến
pháp dân chủnhưng chỉ để xem chơi không bao giờ được vận dụng.
Ông Diệm không dung túng bất cứ ý kiến đối lập nào trên báo chí hay tại quốc
hội. Hiến Pháp 1967 dân chủ hơn nhưng do điều kiện chiến tranh chưa bao giờ được
áp dụng một cách nghiêm chỉnh.
Nhìn
lại tôi có cảm tưởng ông Tuyên có thông tin nhiều phía để đoán biết tương
lai vô vọng của miền Nam. Kinh tế èo ọp. Ngân sách cho quân đội gần một
triệu người gồm Bộ binh, Không quân, Hải quân gồm trang bị và lương bổng
đều được Hoa Kỳ viện trợ. Bàn tay của cơquan Trung ương Tình báo Hoa Kỳ
(CIA) vươn tới tất cả các cơ cấu quốc gia từ quân đội, hành
chánh đến quốc hội.Theo tài liệu “The CIA And the Generals” của
cơ quan CIA giải mật ngày 19/2/2009, có ít nhất 20 Dân biểu và Thượng nghị sĩ
đối lập lẫn thân chính quyền có quan hệ với CIA. Và chương trình của Hoa Kỳ
là đạt được một thỏa ước tại Paris, lấy lại tù binh và rút khỏi miền Nam một
cách an toàn.
Trong
bối cảnh chính trị đó ông Tuyên đã thành công giữ cho đối lập không bể.
Ông biết chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến nhiệm chức giữa Hoa Kỳ và liên
minh lỏng lẻo Nga- Tàu. Và như một quy luật, chiến tranh nhiệm chức có thể giải
quyết giữa các siêu cường và nếu may mắn nhân dân miền Nam có thể tránh được
ách cọng sản.
Kinh
nghiệm chính trị cho ông biết muốn chống cọng sản cần có dân chủ nên
suốt cuộc đời ông là đấu tranh xây dựng dân chủ. Đó là lý do ông đứng về phía
đối lập, chống Diệm, chống Thiệu và sau cùng nghi ngờ chính sách của Hoa Kỳ
tại Việt Nam.
Ông
Tuyên thỉnh thoảng nói đến một “Liên Minh Quốc tế vì Dân chủ”. Ông cho biết
lúc làm Phó thủ tướng cho thủ tướng Quát khi du hành qua Phi châu ông
đã nêu ý kiến “liên minh” với các nhà lãnh đạo Phi châu như Đại Tá
Houari Boumedieene của Algeria, tổng thống Habib Bourguiba của
Tunisia, tổng thống Gamal Ađel Nasser của Ai Câp. Các vị ấy tỏ ý
tán thành và hứa sẽ cùng làm việc với chính phủ Quát để thiết lập
một liên minh như vậy. Rất tiếc chính phủ Quát không tồn tại lâu và
Tuyên trở về hành nghề luật sư .
Cho
đến phút chót ông Tuyên vẫn giữ tư cách một người yêu nước, một nhà
chính trị và một người lãnh đạo. Ông không bỏ đất nước ra đi khi cọng
sản vào Sài gòn. Một ngày trước đó, ông từ chối đề nghịcủa Joe
Bennett, tham vấn chính trị tòa đại sứ Hoa Kỳ cung cấp phương tiện
đưa ông rời khỏi nước. Con trai của ông Tuyên là Trần Tử Huyền
(California, Hoa Kỳ) cho biết sau khi cọng sản chiếm Sài gòn tướng
Võ Nguyên Giáp gởi một sĩ quan cấp tá đến thăm và hứa sẽ vận động với Ủy
ban Quân quản Sàigòn – Gia Định không buộc ông ra trình diện học tập. Tuy vậy,
ông vẫn ra trình diện để - theo lời ông - chia sẻ số phận với đồng
bạn và đồng chí của ông.
Ủy
ban Quân quản đưa ông Tuyên đến trại tập trung Long Thành, không xa Sài gòn
cùng với khoảng 3.000 viên chức cao cấp của chính phủ VNCH. Sau 9 bài gỉảng
căn bản, cọng sản phát giấy mực yêu cầu mọi người viết bản tự thú nói “tội
lỗi” của mình đối với nhân dân.
Ông
Tuyên viết trong bản tự thú : “Tôi không pham tội gì đối với nhân dân.
Các ông có thể liệt tôi vào thành phần chống chủ nghĩa cọng sản, chống
đế quốc và chống độc tài” . Mùa Thu năm 1976, cọng sản chuyển ông ra một
trại tù tại tỉnh Hà Tây. Ngày 27 tháng 10 ông chết trong một hoàn cảnh rất đáng
nghi ngờ. Có lẽ cọng sản đã quyết định số phận của ông sau lời
khai ở Long Thành. Nằm xuống luật sư Trần Văn Tuyên
đã hiến cả cuộc đời cho đất nước .
Đêm
29 tháng 4 năm 1975 là một đêm dài chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ tại
Đông nam Á. Một thất bại thê thảm! Nếu quyết định của Hoa Kỳ can thiệp giúp miền
Nam ngăn chận cuộc xâm lăng của cọng sản và xây dựng một nước dân chủ là
đúng về mặt chiến lược, thì Hoa Kỳ đã thất bại vì lãnh đạo chiến tranh yếu
kém về cả hai mặt quân sựvà chính trị.
Ông
bộ trưởng quốc phòng McNamara lãnh đạo cuộc chiến tranh chống du kích bằng
điện toán và “đếm xác chết” là hỏng. Hoa Kỳ không có một chiến lược chiến tranh
vì không biết Trung quốc sẽphản ứng thế nào. Hoa Kỳ không muốn chạm
trán với Trung quốc trong một cuộc chiến trên đất liền như tại Triều Tiên
một lần nữa .
Sau
khi Hoa Kỳ giúp các tướng lật đổ ông Ngô Đình Diệm và đổ quân vào Việt
Nam, Hoa Kỳ tin rằng sức mạnh quân sự của mình sẽ làm cho Bắc Việt nản
chí và Nam Việt Nam sẽ có hòa bình để xây dựng. Rất tiếc lãnh đạo Hoa
Kỳ đã bó tay các ông tướng không cho trải quân đóng kín biên giới phía Bắc dọc
theo vĩ tuyến 17 từ bờ biển tỉnh Quảng Trị qua Lào đến tận sông
Cửu Long để cắt đường của Hà Nội đưa quân và tiếp liệu vào miền Nam. Trong
cuộc gặp tổng thổng Johnson tại Guam ngày 20/3/1967, Phó tổng thống Nguyễn Cao
Kỳ đã đưa ra đề nghị này (Vietnam War: Day by Day của
John S. Bowman, trang102) nhưng Hoa Kỳ không dám phiêu lưu. Nhìn lại nếu đã chận
đường tiếp vận của Bắc việt một cách rốt ráo Nam Việt Nam có thể đã sống
còn. Trung lập hóa Lào dưới mắt chính quyền Kennedy tưởng là đắc sách đã đưa đến
thất bại.
Một
lý do khác không kém phần quan trọng đưa đến thất bại là vì thiếu kinh nghiệm
dân chủ, không có Xã hội Dân sự và không có người lãnh đạo có tài. Sách lược
chống cọng sản của đối lập đặt tiền đềvào chính sách thay Thiệu là một sai lầm,
chỉ làm cho Thiệu yếu đi trong khi chẳng làm cho các thành phần chống Cộng
đoàn kết với nhau. Mặt khác cọng sản đã rất thành công trong chính sách xâm nhập
vào các cơ cấu của miền Nam: Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng vào
Phủ tổng thống, Phạm Ngọc Ẩn trong giới truyền thông, Phạm Ngọc Thảo
trong quân đội, và Lý Quý Chung, Nguyễn Văn Hàm … trong quốc hội .
Xem tiếp :
(Phần 2/2)
No comments:
Post a Comment