25.02.2016
Thứ
Bảy 20/2 vừa qua là một ngày có nhiều cựu quan chức chính quyền Việt Nam Cộng
hòa từ phương xa về San Jose hội ngộ, trong đó có ông Hoàng Đức Nhã, Tổng trưởng
Dân vận Chiêu hồi và cũng là bí thư của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; Tổng trưởng
Kinh tế Nguyễn Đức Cường, Tổng trưởng Phát triển Nông thôn Cao Văn Thân và Thứ
trưởng Canh nông Trần Quang Minh.
Buổi
sáng, một số khách phương xa khác gồm Giáo sư Đại học Oregon Vũ Tường, Tiến sĩ
Lê Mạnh Hùng và vợ là cựu giáo sư truyền thông Lê Phan – con gái của cố Thủ tướng
Phan Huy Quát – đến từ London và Tiến sĩ Nguyễn Văn Hành đến từ Sacramento đã
cùng đoàn cựu quan chức đi thăm Việt Museum, tức Bảo tàng Thuyền nhân và Việt
Nam Cộng hòa, trong Kelly Historical Park. Các vị khách đã được nhiều nhân sĩ
đón tiếp và được cựu Đại tá Tiếp vận Vũ Văn Lộc hướng dẫn đi thăm một công
trình do ông khởi xướng xây dựng từ hơn một thập niên qua.
Đến
bảo tàng khách có thể tìm lại hình ảnh và di vật của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa, từ bộ quân phục đến những tấm huy chương, khẩu súng. Từ di ảnh của những vị
lãnh đạo miền Nam, di vật của tù cải tạo, mô hình Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà
đến đài tưởng niệm những tướng lãnh và binh sĩ đã tuẫn tiết khi miền Nam rơi
vào tay cộng sản ngày 30/4/1975.
Bảo
tàng có con tàu vượt biển, có tranh ảnh về đời sống trại tị nạn và các di vật
người vượt biển đã đem theo, để từ đó hình thành cộng đồng người Mỹ gốc Việt và
vươn lên trong mọi lãnh vực từ thương mại, truyền thông, giáo dục, tôn giáo đến
chính trị với hai nghị viên trong hội đồng thành phố San Jose mà Nghị viên Nguyễn
Tâm hôm nay cũng có mặt để chào đón khách phương xa.
Tác phẩm của Tiến sĩ
Lê Mạnh Hùng.
Buổi
chiều phái đoàn tham dự buổi ra mắt sách Nhìn lại Sử Việt thời cận hiện
đại, 1945-1975 [Nxb Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2015] của Tiến
sĩ Lê Mạnh Hùng được tổ chức tại trụ sở của Khu hội cựu Tù nhân Chính trị Bắc
California. Tại đây có mặt cựu Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, chỉ huy trưởng Phủ
đặc ủy Trung ương Tình báo; cựu Đại tá Hải quân Trần Thanh Điền, cựu Trung tá
Bùi Quyền, cựu Thẩm phán Di trú Phan Quang Tuệ, các Luật sư Hoàng Cơ Long, Lê
Duy San cùng khoảng 200 khách.
Thay
mặt cho khu hội, ông Mai Khuyên đã chào đón quan khách và điều khiển phần khai
mạc chương trình với nghi lễ chào cờ Mỹ-Việt, phút mặc niệm các chiến binh đã
hy sinh vì lý tưởng tự do, những người đã chết trên đường vượt biên, vượt biển
và nghi thức niệm hương trước bàn thờ anh linh các chiến sĩ.
Giáo
sư Vũ Tường, thuộc khoa chính trị học Đại học Oregon, đã giới thiệu tập sách của
Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng, một tác phẩm đồ sộ, dày 743 trang, và là tập sau cùng
trong bộ thông sử gồm 5 quyển, tổng cộng hơn 2500 trang.
Theo
nhận xét của giáo sư, công trình này rất giá trị vì sử dụng nguồn tài liệu mới
nhất và từ nhiều nguồn khác nhau nên tác giả đã vất vả xử lý để giữ được sự
khách quan cần thiết về một giai đoạn lịch sử mới qua chưa lâu và có rất nhiều
người đã trải qua mà nay còn sống.
Vụ
Ôn Như Hầu 1946 khi Việt Minh giết người của Quốc dân Đảng mà theo tác giả tập
sách còn có những nghi vấn về một tài liệu chưa biết do phe nào đưa ra để tạo
mâu thuẫn giữa Pháp và Việt Minh. Quốc dân Đảng có thực sự là tác giả tài liệu
đó hay an ninh của Võ Nguyên Giáp ngụy tạo để tìm cớ tiêu diệt người quốc gia?
Theo Giáo sư Tường, đây là sự cẩn trọng của tác giả khi nêu ra những nghi vấn
và sự kiện này cũng cần được nghiên cứu thêm.
Chính
sách điền địa của Tổng thống Ngô Đình Diệm là những trì trệ, không giúp được
nhiều cho nông dân. Chiến dịch tố cộng của chính quyền Tổng thống Diệm làm suy
yếu hạ tầng cơ sở Việt Cộng nhưng cũng đã quấy rầy nhiều người chỉ vì bị nghi
là cộng sản. Đó cũng là những khuyết điểm thời ông Diệm, theo ghi nhận của Giáo
sư Tường về nội dung của cuốn sách.
Các diễn giả: Ông
Hoàng Đức Nhã, bên trái, Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng và Giáo Sư Vũ Tường (ảnh Bùi Văn
Phú).
Về
nguyên nhân đưa đến chiến tranh Việt Nam trong những năm của thập niên 1940,
tác giả đề cập đến xung đột trong giới lãnh đạo Quốc dân Đảng Trung Hoa giữa Tưởng
Giới Thạch và các tướng Trương Phát Khuê, Long Vân hay Lư Hán. Nhờ Trương Phát
Khuê bất hòa với Tưởng mà Hồ Chí Minh bị bắt rồi được thả.
Sách
cũng đưa ra luận điểm của nhiều phe, từ Mỹ, Pháp, Nhật, Trung Hoa, liên quan đến
chiến tranh Việt Nam qua nhiều giai đoạn. Theo Giáo sư Tường, Sài Gòn không phải
là tay sai của Mỹ và Hà Nội không phải là tay sai của Nga, Tầu và đã có những
quyết định riêng, không muốn để cho các thế lực lớn ảnh hưởng. Như việc Đại sứ
Mỹ Cabot Lodge muốn Cố vấn Ngô Đình Nhu ra đi nhưng ông Diệm đã không nghe
theo, dù mấy tháng trước đảo chánh ông Nhu đã có ý định ra đi. Khi đại sứ Mỹ
lên tiếng yêu cầu thì ông Diệm vì không muốn bị coi là bù nhìn nên đã có quyết
định ngược lại. Tại miền Bắc, Liên Xô muốn lãnh đạo Hà Nội có chính sách phát
triển kinh tế để dần dần thống nhất với miền Nam, nhưng Hà Nội không đồng ý và
đã tiến hành chiến tranh bạo lực để thống nhất đất nước.
Giáo
sư Tường nhận xét tác giả đã công bằng trong việc đánh giá nhân vật và những biến
cố lịch sử và ông mong rằng có một ngày không xa sách này sẽ được dùng làm tài
liệu để giảng dạy ở Việt Nam.
Ông
Hoàng Đức Nhã lên diễn đàn nói về những nỗ lực xây dựng quốc gia, tạo dựng nền
dân chủ tại miền Nam trong những giai đoạn khác nhau, từ năm 1954 đến 63 là Đệ
Nhất Cộng hòa, từ 1963 đến 67 quân đội nắm quyền và đặc biệt từ 1967 đến 75 của
Đệ Nhị Cộng hòa là thời gian ông trực tiếp tham gia trong chính quyền.
Ông Vũ Văn Lộc, bên
trái, hướng dẫn phái đoàn thăm Bảo tàng Việt Museum ở San Jose (ảnh Bùi Văn
Phú).
Ông
Nhã nêu ra những khó khăn phải đối đầu với chiến tranh nhưng các định chế dân
chủ đã được xây dựng, có hiến pháp, hai viện quốc hội, tự do báo chí và ngày
nào cũng có xuống đường biểu tình. Không vì chiến tranh mà chính phủ giới hạn
báo chí không được viết cái này, cái kia. Chỉ cấm không được cổ động liên hiệp
với cộng sản. Chương trình Chiêu hồi với 140 nghìn hồi chánh viên vì họ nhìn thấy
sinh hoạt dân chủ của mình mà họ đã trở về. Đó là những điểm son.
Ông
nhắc đến quyết định của lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa không tham gia hòa đàm Paris
vào cuối năm 1968 là quyết định độc lập, không phải do bà Anna Chennault vận động
ngầm để giúp cho Richard Nixon thắng cử. Cuối tháng 10/1972 ông Thiệu cũng
không ký Hiệp định Paris dù có bị Hoa Kỳ ép vì có những điều khoản bất lợi cho
tương lai của 17 triệu dân miền Nam.
Khi
được hỏi về việc xây dựng dân chủ với Hiến pháp 1967 và cuộc bầu cử tổng thống
năm đó với gần chục liên danh và liên danh của các ông Thiệu-Kỳ thắng cử, nhưng
đến năm 1971 xảy ra độc diễn vì Tướng Dương Văn Minh, Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra
tranh cử, sau lại rút lui, rồi có tu chính Hiến pháp để ông Thiệu có thể tiếp tục
ra tranh cử, thay vì giới hạn 2 nhiệm kỳ, để còn làm tổng thống nữa, như thế là
dân chủ tiến lên hay thụt lùi? Ông Nhã nói nước mình có Hiến pháp thì phải tiến
hành bầu cử theo Hiến pháp, chứ không thể bảo chỉ có một liên danh nên không cần
bầu. Còn việc sửa Hiến pháp để tiếp tục làm tổng thống, ông cho đó chỉ là chuyện
“thiên hạ đồn rằng”.
Tiến
sĩ Lê Mạnh Hùng lên nói chuyện, kể về nguyên do đưa đến việc học sử và viết sử
vì ông muốn đi tìm câu trả lời cho một câu hỏi mà trong thời gian đi học tập cải
tạo ông được nghe nhiều, đó là: “Mình giỏi hơn nó mà sao mình thua?”
Quan khách chụp hình
lưu niệm trước Bảo tàng Việt Museum (ảnh Bùi Văn Phú).
Trước
năm 1975 ông Hùng đã theo học Đại học MIT ở Hoa Kỳ về ngành đóng tàu biển. Về
nước làm việc, sau ngày 30/4/75 ông phải đi học tập cải tạo nhiều năm và trong
thời gian này ông đã học tiếng Hán. Sau khi định cư ở nước ngoài và đi học trở
lại, giữa chính trị học và sử học, ông chọn khoa sử và tốt nghiệp Đại học
London. Bộ thông sử 5 tập của ông được viết trong vòng hai mươi năm.
Khi
được hỏi Hồ Chí Minh có phải là Hồ Tập Chương, tác giả cho biết vào những năm từ
1930 đến 1941 ông Hồ sống lây lất ở Moskova và vai trò của ông rất lu mờ. Tại đại
hội quốc tế cộng sản khi đó, cầm đầu phái đoàn là Lê Hồng Phong, còn Hồ Chí
Minh chỉ là dự khuyết, vì thế tác giả cho rằng việc Trung Hoa cho người giả làm
ông Hồ là điều hơi lạ.
Khách
tham dự, có người lên tiếng phản bác nhận định của Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng khi cho
rằng chính sách cải cách điền địa của Tổng thống Ngô Đình Diệm là một thất bại.
Theo vị khách, sau ông Diệm, đến thời ông Thiệu tiếp tục với chính sách người
cày có ruộng đã đem đến cho nhiều nông dân quyền sở hữu ruộng đất. Nếu những
chính sách đó không thành công thì sau 1975 đã có những màn đấu tố điền chủ,
như thời cải cách ruộng đất ở miền Bắc trong thập niên 1950 khiến hàng trăm
nghìn người bị giết chết.
Còn
ông Nguyễn Đức Cường cũng cho rằng chính sách cải cách ruộng đất của miền Nam
là thành công, vì sau năm 1975, với chính sách hợp tác xã nông nghiệp thất bại
thì mười năm sau Hà Nội đã phải thay đổi và có chính sách kinh tế nông thôn giống
như từng được áp dụng thời Việt Nam Cộng hòa.
Một
câu hỏi đặt ra là nếu Tổng thống Ngô Đình Diệm không bị lật đổ thì liệu cuộc
chiến Việt Nam đã có một kết quả khác hay không? Ông Hoàng Đức Nhã cho biết vì
sau đảo chánh các tướng lãnh đã làm xấu tình hình an ninh nông thôn, giải tán lực
lượng Thanh niên Cộng hoà nên Việt Cộng xâm nhập vào làng xã và chính quyền mất
kiểm soát.
Có
ý kiến cho rằng trong các chính trị gia chỉ có ông Ngô Đình Nhu là hiểu được sự
quan trọng của Mỹ và ông đã tìm cách liên lạc với chính giới Hoa Kỳ. Tiến sĩ Lê
Mạnh Hùng trả lời không chỉ ông Nhu hiểu được sự quan trọng của Mỹ, người Việt
đầu tiên liên lạc với Hoa Kỳ là Nguyễn Văn Long, thủ tướng thứ hai của chính phủ
Bảo Đại, nhưng Pháp biết được và đã lật ông và đưa ông Trần Văn Hữu lên thay.
Hỏi
về sinh hoạt đảng phái chính trị tại Việt Nam, tác giả cho biết người Việt chưa
có tinh thần sinh hoạt đảng phái chính trị như ở phương Tây. Đảng phái chính trị
của người Việt mang tính cách mạng và sinh hoạt như những hội kín, không đồng ý
với nhau thì coi nhau như kẻ thù và thường đặt quyền lợi của phe đảng trên quyền
lợi của quốc gia dân tộc.
Mai Lệ Huyền, bên phải,
Mai Hân và Phương Hồng Quế (ảnh Bùi Văn Phú).
Nhiều
người phát biểu tỏ ý mong muốn tập sách sử này được dịch sang tiếng Anh để giải
độc dư luận cũng như để cho thế hệ mai sau hiểu được quan điểm của phía Việt
Nam Cộng hòa vì trong các thư viện ngày nay hầu hết là những tài liệu từ phía cộng
sản hay của người Mỹ, còn người Pháp thì có cái nhìn giới hạn và sai lệch về
chiến tranh Việt Nam.
Nhà
báo Huỳnh Lương Thiện và cựu Đại tá Vũ Văn Lộc cũng nhắc nhở các cựu lãnh đạo
viết hồi ký về những sai lầm của miền Nam cũng như những chiến tích, những cái
chết oai hùng của người lính Việt Nam Cộng hòa, nhất là viết về Việt Nam sau
1975 để thế hệ mai sau hiểu được cộng sản xấu xa như thế nào.
Tiến
sĩ Đỗ Hùng đặt trách nhiệm của các cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã, Nguyễn Đức Cường
và Tướng Nguyễn Khắc Bình là phải viết hồi ký để lại cho hậu thế. Có người đề
nghị các cựu lãnh đạo ngồi lại thành lập một tổ chức nhằm giải độc và nói lên
quan điểm của Việt Nam Cộng hòa.
Tiến
sĩ Lê Mạnh Hùng hứa sẽ tiếp tục làm việc để có ấn bản Anh ngữ của tác phẩm. Ông
Hoàng Đức Nhã cũng hứa khi nào ông Hùng ra mắt sách tiếng Anh sẽ đi theo để ra
mắt ké sách của ông mà ông đã có dàn bài từ năm 2010 khi nói chuyện tại Naval
Academy Club.
Cựu
Đại tá Trần Thanh Điền hỏi các diễn giả có thể cho biết bao giờ chế độ cộng sản
sụp đổ. Tác giả tập sách nói lịch sử là viết về quá khứ. Còn hiện tại, ông có
nhận xét chế độ cộng sản bây giờ không phải là cộng sản năm 1975, Việt Nam
không còn cộng sản mà là một xã hội “tư bản hoang dã”.
Cựu
Tổng trưởng Dân vận Chiêu hồi Hoàng Đức Nhã không tiên đoán mà chỉ mong “cộng sản
sụp đổ sớm chừng nào tốt chừng đó”.
Buổi
ra mắt sách kết thúc với sự giúp vui của hai ca sĩ Mai Lệ Huyền và Phương Hồng
Quế qua những bài hát về tâm tình một thời của người lính Việt Nam Cộng hòa.
©
2016 Buivanphu.wordpress.com
----------------------------
*Các
bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm
hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment