Aung San Suu Kyi
Lâm Yến dịch
Tháng
6 7, 2012
Không phải quyền lực
làm cho tha hóa, mà chính là sự khiếp sợ. Sự
khiếp sợ đánh mất quyền lực làm tha hóa những kẻ đang nắm trong tay quyền lực
và sự khiếp sợ bị quyền lực trừng phạt làm tha hóa những người đang nằm dưới
tay quyền lực.
Đại đa số người Miến quen thuộc với bốn gati,
bốn hình thức của tha hóa. Changda-gati (Tham), sự tha hóa bắt nguồn từ lòng
ham muốn, là sự từ bỏ chính đạo để tìm kiếm tặng vật bất chính hay những thứ
mình thèm khát. Dosa-gati (Sân) là việc đi vào lạc đạo nhằm trừng phạt những
người mà mình ghét bỏ, Moga-gati (Si) là sự sai lầm do si đần. Nhưng có lẽ cái
tồi tệ nhất trong bốn hình thức tha hóa là Bhaya-gati (Úy), không phải chỉ vì
bhaya (sự khiếp sợ) làm tê cứng và dần phá hủy tất cả các cảm giác về đúng-sai,
mà nó thường là nguồn cơn của ba hình thức tha hóa còn lại. Giống như Tham, khi
không bắt nguồn từ tính hám lợi thuần túy thì có thể là sản phẩm của sự khiếp
sợ cảnh nghèo túng hoặc sợ làm phật lòng những người mình yêu quí, sự khiếp sợ
bị vượt qua, bị lăng nhục hoặc thương tổn theo cách nào đó có thể xô đẩy con
người đến những ác ý. Cũng khó có thể xua tan u mê trừ phi có tự do theo đuổi
chân lý và không bị trói buộc bởi sự khiếp sợ. Với quan hệ gần gũi đến thế giữa
sự khiếp sợ và tha hóa, không có gì phải ngạc nhiên là ở bất kỳ xã hội nào, khi
sự khiếp sợ lan tràn, tha hóa dưới mọi hình thức sẽ bám rễ sâu trong lòng xã
hội.
Việc
công chúng không hài lòng với những khó khăn kinh tế vẫn được nhìn nhận là
nguyên nhân chính dẫn tới phong trào đòi dân chủ ở Miến, được châm ngòi bởi
những cuộc biểu tình của sinh viên năm 1988. Đúng là nhiều năm với những chính
sách thiếu ăn nhập, các giải pháp sai lạc của chính quyền, lạm phát leo thang
và thu nhập thực tế tụt giảm đã đưa đất nước đến tình trạng khủng hoảng kinh
tế. Nhưng không phải những khó khăn trong việc nâng cao hơn mức sống – ở mức
gần như không thể chấp nhận được – là lý do duy nhất xói mòn lòng kiên trì của
người dân vốn đôn hậu và hiền lành, mà còn do sự lăng nhục bởi một lối sống bị
biến dạng bởi tha hóa và khiếp sợ.
Các
sinh viên đã đấu tranh không phải thuần túy vì cái chết của các đồng chí, mà
còn chống lại sự phủ nhận quyền được sống của họ bởi chính thể toàn trị – một
chính thể đã tước đi sự hiện diện của lẽ phải và không đem đến bất kỳ một hi
vọng nào cho tương lai. Và vì các cuộc tranh đấu của sinh viên đã truyền tải rõ
ràng sự thất vọng của công chúng, những cuộc biểu tình này lan nhanh thành một
phong trào toàn quốc. Một trong những người ủng hộ nhiệt thành nhất cho phong
trào là các doanh gia, những người đã hình thành những kỹ năng và quan hệ cần
thiết để không chỉ tồn tại mà còn giàu có trong hệ thống. Nhưng sự giàu có
không đem đến cho họ cảm nhận thực sự về an ninh và thành đạt, và họ không thể
không nhận thấy rằng nếu họ và đồng bào họ, bất kể địa vị kinh tế, muốn có được
một sự sinh tồn khả dĩ thì một bộ máy nhà nước khả tín ít ra phải là điều kiện
cần, nếu không phải là điều kiện đủ. Người dân Miến đã lo ngại về tình trạng
bấp bênh của kẻ nằm dưới sự trị vì của người khác, khi mà thân phận họ “như
nước trong bụm tay” của những kẻ nắm quyền lực tối cao.
Chúng
ta đẹp xanh như ngọc
Trên bụm tay người
Nhưng ôi, chúng ta cũng có khi là
Những vụn gương vỡ nát
Trên bụm tay người
Trên bụm tay người
Nhưng ôi, chúng ta cũng có khi là
Những vụn gương vỡ nát
Trên bụm tay người
Các
vụn gương, những mảnh nhỏ nhất, óng ánh và sắc nhọn, có thể tự bảo vệ mình khỏi
những bàn tay muốn nghiền nát chúng là một biểu trưng sống động của tinh thần
can đảm, một phẩm chất cần thiết của những người muốn giải phóng mình khỏi sự
kìm kẹp của bạo quyền. Bogyoke Aung San coi mình là một nhà giải phóng và không
ngừng tìm kiếm câu trả lời cho những trở ngại mà Miến Điện gặp phải trong thời khắc
thử thách của dân tộc. Ông hô hào đồng bào mình hãy can đảm hơn: “Hãy đừng lệ
thuộc vào lòng can đảm và tinh thần dũng cảm của người khác, mỗi người trong
các bạn hãy biết hi sinh để trở thành một anh hùng và tạo dựng sự dũng cảm và
can đảm của chính mình. Chỉ đến khi đó chúng ta mới có thể cùng chung hưởng tự
do thực sự”.
Nỗ
lực cần thiết để tránh không bị tha hóa – trong một môi trường mà sự khiếp sợ
là một phần máu thịt của sự tồn tại hàng ngày – không tức khắc rõ ràng với
những người có may mắn sống trong những nhà nước có sự hiện diện của pháp quyền
(rule of law). Luật pháp công minh không chỉ ngăn chặn sự tha hóa thông qua
việc trừng phạt không thiên vị những kẻ phạm pháp. Luật pháp còn giúp tạo dựng
một xã hội mà trong đó mọi người có thể thỏa mãn những yêu cầu căn bản-vốn
thiết yếu cho việc bảo tồn nhân phẩm con người mà không cần phải cầu viện đến
những hành vi tha hóa. Khi thiếu vắng luật pháp như thế, gánh nặng gìn giữ các
nguyên tắc của công lý và sự đoan chính chuyển sang vai những con người bình
thường. Chính hiệu ứng tích lũy những nỗ lực bền bỉ và sự nhẫn nại sẽ thay đổi
một dân tộc – nơi lý trí và lương tri bị bóp méo bởi sự khiếp sợ – sang một xã
hội mới- nơi luật pháp tồn tại là để đáp ứng khát vọng của con người về sự hòa
hợp và công lý, trong khi giúp ngăn chặn những tính ác trong bản chất thiên bẩm
của con người.
Trong
một thời đại mà sự phát triển lớn lao của kỹ nghệ đã tạo ra những vũ khí chết
người-những thứ có thể được, và đang được, những kẻ nắm quyền vô đạo dùng để
thống trị kẻ yếu và không có khả năng tự vệ, có một đòi hỏi cấp thiết về mối
quan hệ gần gũi hơn giữa chính trị và đạo đức, trên cả cấp độ dân tộc và quốc
tế. Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu của Liên hợp Quốc khẳng định rằng tất cả mọi
người và mọi hợp phần của xã hội phải đấu tranh nhằm thúc đẩy tự do và các
quyền cơ bản mà theo đó mọi người, bất kể chủng tộc, quốc gia và tôn giáo đều
được hưởng. Tuy nhiên, chừng nào còn tồn tại các chính quyền được thiết lập dựa
trên sự áp bức thay vì sự chấp thuận của công chúng, chừng nào còn tồn tại các
nhóm lợi ích chỉ biết đặt lợi ích trước mắt lên trên hòa bình và thịnh vượng
lâu dài, thì hành động phối hợp quốc tế bảo vệ và phát huy quyền con người bất
quá chỉ là một nửa cuộc đấu tranh. Vẫn sẽ có những đấu trường nơi các nạn nhân
của bạo quyền phải tự dựa vào những nội lực của chính họ để bảo vệ các quyền
bất khả nhượng với tư cách là những thành viên của gia đình nhân loại.
Cuộc
cách mạng rốt ráo là cuộc cách mạng trong tinh thần, được khai sinh từ niềm tin
trí tuệ về nhu cầu cần phải thay đổi các thái độ và các giá trị – những thứ
định hình tiến trình phát triển của một dân tộc. Một cuộc cách mạng chỉ tập
trung vào thay đổi các chính sách của nhà nước và các thể chế, với mục tiêu cải
thiện các điều kiện vật chất, sẽ chỉ có rất ít cơ hội thành công thực sự.
Thiếu
vắng cuộc cách mạng trong tinh thần, nguồn gốc tạo ra cái vô đạo của trật tự cũ
vẫn sẽ tiếp tục vận hành, gây ra một đe dọa thường trực cho quá trình cải cách
và phục hồi. Sẽ không đủ nếu chỉ cổ súy cho tự do, dân chủ và các quyền con
người. Cần có quyết tâm thống nhất nhằm duy trì cuộc đấu tranh, chấp nhận hi
sinh vì chân lý vững bền, chống lại các ảnh hưởng tha hóa của lòng ham muốn,
của ác ý, của si đần và sự khiếp sợ.
Người
ta từng nói rằng các vị Thánh là những tội nhân luôn cố gắng [rửa sạch lỗi lầm
của mình]. Vì thế, người tự do là những người bị áp bức luôn cố gắng và trong
quá trình đó, chuyển hóa mình để thích hợp với việc gánh vác các trách nhiệm và
gìn giữ các nguyên tắc cho một xã hội tự do. Trong số những sự tự do cơ bản mà
con người mong ước nhằm tạo dựng một cuộc sống tràn đầy và không bị trói buộc,
tự do khỏi khiếp sợ nổi lên là một phương tiện, đồng thời là mục đích. Một dân
tộc muốn xây dựng một đất nước mà trong đó các thể chế dân chủ mạnh được xây
dựng bền vững như là một bảo đảm chống lại sự lạm quyền của nhà nước thì trước
hết phải học cách giải phóng tâm mình khỏi sự vô cảm và sự khiếp sợ.
Luôn
là một người thực hành những gì mình kêu gọi, bản thân Aung San luôn chứng tỏ
sự can đảm – không chỉ là những biểu hiện bên ngoài, mà còn là sự can đảm cho
phép ông nói lên sự thật, giữ lời, chấp nhận phê bình, thừa nhận những lỗi lầm
mình có và sửa chữa, tôn trọng đối lập, hòa đàm với kẻ thù và để dân chúng vào
vị trí quan tòa phán xét sự xứng đáng của ông trong vai trò lãnh đạo. Chính vì
sự dũng cảm đạo đức như thế mà ông luôn được kính yêu ở Miến – không chỉ với tư
cách là một chiến binh anh hùng mà còn với tư cách là nguồn cảm hứng và lương
tri cho cả dân tộc. Những từ ngữ do Jawaharlal Nehru sử dụng khi nói về Thánh
Gandhi có thể áp dụng tốt trong trường hợp của Aung San:
“Tinh
hoa trong các bài giảng của ngài là sự không khiếp sợ và sự thật, cùng với các
hành động thống nhất với hai yếu tố này [trong khi vẫn] luôn quan tâm đến phúc
lợi của đám đông”.
Gandhi,
nhà truyền giáo vĩ đại của tư tưởng bất bạo động, và Aung San, người sáng lập
quân đội quốc gia, là hai người có tính cách rất khác nhau, nhưng cũng giống
như có sự tương đồng hiển nhiên trong những thách thức của chế độ toàn trị ở
bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào, thì cũng có những tương đồng trong các phẩm chất
vốn có ở những người đứng lên đối mặt với những thách thức ấy. Nehru, người
nhìn nhận việc lan truyền lòng can đảm trong dân chúng Ấn là một trong những
thành tựu vĩ đại nhất của Gandhi, là một nhà chính trị canh tân, nhưng khi ông
tiếp cận với các đòi hỏi của phong trào đòi độc lập trong thế kỉ hai mươi, ông
đã nhận thấy là mình quay trở về với triết học cổ điển Ấn: “Món quà lớn nhất
cho một cá nhân hay một dân tộc… là Abhaya, không khiếp sợ, không thuần túy là
sự can đảm bề ngoài, mà còn là sự vắng bóng sự khiếp sợ trong tâm”.
Sự
can đảm có thể là một món quà, nhưng có lẽ còn quý giá hơn nếu can đảm được
khơi lên từ sự nỗ lực, thứ can đảm đến từ việc gieo trồng thói quen không để sự
khiếp sợ kiểm soát hành vi của mình, thứ can đảm có thể được miêu tả bằng “tự
tại trước áp lực” – sự tự tại được làm mới liên tục ngay khi đối mặt với những
áp lực căng thẳng và dai dẳng.
Trong
một hệ thống chính trị luôn chối bỏ sự tồn tại của các quyền con người cơ bản,
sự khiếp sợ có vẻ như là thuộc tính nổi bật. Sợ tù đày, sợ tra tấn, sợ cái
chết, sợ bị mất đi những bạn bè, gia đình, tài sản hay phương tiện sống, sợ đói
nghèo, cô lập, trước thất bại. Hình thức quỷ quyệt nhất của sự khiếp sợ là hình
thức ngụy trang dưới mặt nạ common sense (lẽ thường) hoặc thậm
chí là sự thông thái, kết án những hành vi can đảm bé nhỏ thường nhật – những
hành vi giúp bảo toàn niềm tự trọng và phẩm giá ẩn chứa trong mỗi con người –
là [những hành vi] ngu ngốc, khinh suất, không đáng giá hoặc vô ích. Không dễ
dàng để quần chúng đang khiếp sợ dưới sự cai trị hà khắc hiểu rằng họ có thể tự
giải thoát mình khỏi bầu khí độc của sự khiếp sợ hãi đang làm họ kiệt sức. Ấy
thế mà ngay cả khi dưới sự đàn áp của những bộ máy cai trị hà khắc nhất, tinh
thần can đảm vẫn trỗi dậy hết lần này qua lần khác, vì sự khiếp sợ không phải
là trạng thái tinh thần tự nhiên của một người văn minh.
Suối
nguồn của lòng can đảm và sự vững vàng trước bạo quyền vô hạn độ thường là lòng
tin son sắt vào các giá trị đạo đức thiêng liêng kết hợp với sự hiểu biết lịch
sử rằng dù cho mọi khó khăn, lịch sử loài người được đặt trên một lộ trình duy
nhất là sự tiến bộ cả về tinh thần lẫn vật chất. Chính khả năng tự cải biến và
sửa sai là yếu tố quan trọng nhất phân biệt con người với con vật. Cội rễ của
trách nhiệm người là khái niệm hoàn mỹ, sự khao khát đạt được nó, sự thông tuệ
để tìm đường đến với nó, và sự sẵn lòng đi theo con đường đó cho tới đích cuối
cùng, hoặc ít ra cũng đi được khoảng cách cần thiết để vượt lên trên các giới hạn
cá nhân và các trở ngại của môi trường. Chính viễn kiến của con người về thế
giới tương thích với nhân tính duy lý và văn minh đã dẫn chúng ta đến chỗ dám
chịu đựng mất mát để xây dựng các xã hội tự do khỏi đói nghèo và khiếp sợ. Các
khái niệm như sự thực, công lý và lòng trắc ẩn không thể bị loại trừ vì lặp đi
lặp lại quá nhiều trong khi chúng thường là những bức tường thành duy nhất hiên
ngang chống lại bạo quyền.
__________________
Tiểu
Luận “Tự do khỏi nỗi khiếp sợ” của Aung San Suu Kyi lần đầu được phổ biến để
xuất bản với mục đích kỷ niệm Giải thưởng Sakharov vì Tự do Tư tưởng mà Nghị
viện Châu Âu trao tặng. Lễ trao giải diễn ra tại Strasbourg vào ngày 10 tháng
Sáu 1991 mà không có sự hiện diện của bà.
Nguyên
bản tiếng Anh: Freedom From Fear
Nhóm
Duy Tân Trẻ giữ bản quyền của bản dịch tiếng Việt
Bài
đã đăng trên talawas ngày 23.4.2005
No comments:
Post a Comment