Tháng Sáu 9, 2012 — Lê Mai
J.Pimlott, nhà sử học Mỹ, tác giả cuốn Việt
Nam, những trận đánh quyết định đã mô tả cuộc tấn công của Bắc VN vào mùa
hè đỏ lửa năm 1972 khá sinh động. Nó được bắt đầu vào buổi trưa ngày 30.3.1972,
trước ngày lễ Phục sinh. Căn cứ hỏa lực của Nam VN ở phía Nam Khu Phi quân sự
bị pháo kích dồn dập, chủ yếu là pháo 130 mm, do Liên Xô cung cấp, đặt ở phía
Bắc giới tuyến, ngoài tầm pháo 105 mm và 150 mm của Nam VN. Đồng thời, 3 sư
đoàn quân Bắc VN với 30 ngàn quân, có 200 xe tăng yểm hộ đã tràn qua Khu Phi
quân sự, đè bẹp các tiền đồn của sư đoàn 3 VNCH thiếu kinh nghiệm, khiến sư
đoàn này hốt hoảng rút lui khoảng 10 dặm về Đông Hà. Tình hình được cứu vãn
bằng cách phá cầu Đông Hà – nhờ sự khôn ngoan của các cố vấn Mỹ mặc dù không có
lệnh.
Ngày Lễ Phục sinh 2.4, các căn cứ của quân
Nam VN lại bị oanh tạc dữ dội bằng đạn pháo và rốc két, tạo ra một lỗ hổng lớn
và các sư đoàn Bắc VN tràn qua lỗ hổng đó, chiếm cầu Cam Lộ, buộc quân Nam VN
lùi tiếp về phía Đông, tạo nên một tuyến phòng ngự hình vòng cung từ Cửa Việt
qua thị xã Đông Hà, đến sông Thạch Hãn gần thị xã Quảng Trị.
Tổng thống Thiệu ra lệnh cách chức Trung
tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn I VNCH, bắt giữ tướng Vũ Văn Giai, Tư
lệnh Sư đoàn 3 và trao toàn quyền chỉ huy Quân đoàn I cho Trung tướng Ngô Quang
Trưởng – một viên tướng được coi là tài năng nhất của Nam VN. Tướng Trưởng lập
một phòng tuyến mới khoảng 25 dặm về phía Bắc Huế, trên sông Mỹ Chánh, chặn
đứng nỗi kinh hoàng bằng cách dọa bắn bỏ tất cả những kẻ đào ngũ và cướp bóc.
Thiếu lực lượng để phát huy lợi thế, quân Bắc VN đành để cho quân Nam VN củng cố
phòng tuyến.
Chiến sự ác liệt làm dòng người tỵ nạn dày
đặc gây tắc nghẽn các ngã đường dẫn về Huế. Nhờ lực lượng Hải quân đánh bộ
VNCH, Sư đoàn 1 tinh nhuệ và Trung đoàn 20 xe tăng, bất chấp sự hoảng loạn của
Sư đoàn 3 VNCH, tuyến phòng ngự của Nam VN vẫn được giữ vững. Thêm vào đó,
Nixon cho phép sử dụng không quân oanh tạc dữ dội, 4 tàu sân bay tăng cường cho
Hạm đội 7 ở ngoài khơi. Các chiến hạm của Hạm đội 7 đã bắn trên 160 ngàn tấn
bom đạn vào các mục tiêu trên bộ, trong khi khoảng 700 máy bay tiêm kích bom và
170 máy bay B-52 thường xuyên oanh tạc. Cơ hội chiến thắng cho Bắc VN thật
không dễ dàng.
Bộ Tư lệnh chiến dịch Quảng Trị của Bắc VN
gồm những tên tuổi nổi tiếng như: Tư lệnh Lê Trọng Tấn, Chính ủy Lê Quang Đạo.
Ngoài ra còn có Cao Văn Khánh, Lê Tự Đồng, Hoàng Minh Thi, Giáp Văn Cương… Còn
Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng là đại diện của Quân ủy Trung ương bên cạnh
Bộ Tư lệnh chiến dịch.
Không
may cho Nam VN, tướng Võ Nguyên Giáp
được trao toàn quyền chỉ huy cuộc tấn công, không chỉ chiến dịch Quảng Trị
mà còn cả chiến dịch Tây Nguyên và An Lộc nữa – theo Pimlott.
Sự thực không hẳn như vậy. Vào thời gian mà
quân Bắc VN bị chặn lại ở phòng tuyến sông Mỹ Chánh, ý kiến của Tổng hành dinh
ở Hà Nội và Bộ Tư lệnh chiến dịch có khác nhau. Tổng hành dinh chỉ đạo phải
đánh vu hồi để tránh tổn thất do vượt sông đánh chính diện. Bộ Tư lệnh chiến
dịch thì đề nghị trong lúc đối phương còn hoang mang, chưa kịp tăng viện, cho
dùng sức mạnh vượt sông Thạch Hãn, qua cầu Quảng Trị, phát triển vào Nam Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế.
Bộ Tư lệnh chiến dịch cử tướng Hoàng Nghĩa
Khánh, bấy giờ là Tham mưu phó tác chiến ra Hà Nội báo cáo Quân ủy Trung ương.
Tướng Khánh kể lại, tới Hà Nội, lập tức ông đến thẳng nhà riêng Tổng tư lệnh
báo cáo. Mới được 5 phút, đang báo cáo dở thì trực ban tác chiến gọi điện thoại
tới nói: “anh Ba gọi anh sang nhà riêng để báo cáo ngay”. Tổng tư lệnh bảo:
“thôi cậu sang báo cáo trước với anh Ba rồi quay lại báo cáo với tôi sau”. Lạ
thật!
Đến đây, tôi lại nhớ chiến dịch Biên Giới
năm 1950, có Hồ Chí Minh trực tiếp ra trận, ở ngay bên cạnh Tổng tư lệnh. Trận
đánh Đông Khê ngay từ giờ đầu đã gặp trục trặc. Lúc ấy, Hồ Chí Minh bình thản
để Tổng tư lệnh chỉ huy trận đánh và rốt cuộc, chiến dịch Biên Giới đã giành
toàn thắng.
Trở lại chuyện tướng Khánh sang báo cáo với
anh Ba (Lê Duẩn) về ý định phát triển tiến công của chiến dịch mà đối phương
chưa tăng viện, đánh chiếm La Vang và thị xã Quảng Trị. Lê Duẩn đặt tay xuống
bản đồ, trùm lên cả khu vực La Vang, thị xã Quảng Trị đến cầu Mỹ Chánh và nói
ngay: “ Tôi đồng ý, đánh ngay! Cậu về báo cáo với anh Văn sáng mai họp Quân
ủy”. Ông lại chỉ thị cho bí thư, hãy “gọi điện cho đồng chí Sáu Thọ là tôi đã
nghe đồng chí Khánh ở mặt trận ra báo cáo rồi. Tôi đồng ý với các đồng chí
trong đó. Sáng mai mời anh Thọ sang họp Quân ủy Trung ương rồi sẽ đi Pari”. Như
vậy, vấn đề đã được quyết định.
Sáng ngày 27.4.1972 Quân ủy Trung ương họp
có Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Lê Thanh Nghị, Nguyễn
Duy Trinh…Vào cuộc họp, Lê Duẩn nói ngay, “tối qua, tôi đã nghe anh Khánh báo
cáo ý kiến anh anh Dũng, anh Tấn trong đó, bây giờ để anh Khánh báo cáo lại để
các anh nghe”. Mới báo cáo được 20 phút, Lê Duẩn lại cắt ngang: “Tối qua tôi và
anh Văn đã nghe rồi, tôi đồng ý, cứ thế mà làm”. Sáu Thọ đứng dậy, đi đi lại
lại và nói, tối qua tôi cũng đã nghe anh Ba nói, tôi cũng nhất trí với ý kiến
anh Ba, đồng ý để các anh trong đó cho đánh ngay…Lê Duẩn quay lại hỏi, ai có ý
kiến gì khác không? Võ Nguyên Giáp nói cũng đã nghe và đồng ý với ý kiến anh
Ba. Tổng tư lệnh gửi điện vào mặt trận: “Gửi anh Dũng, Tấn, Đạo: Hội nghị Quân
ủy, anh Ba và các đồng chí khác đồng ý kế hoạch của các anh. Cứ thế
triển khai ngay”.
Ngày
1.5, quân Bắc VN đã chiếm được thị xã Quảng Trị, trên Quốc lộ 1, lúc này đông
đặc binh lính, thường dân và trang bị bỏ lại.
Ngày 3.5, quân Bắc VN đã tiến đến bờ bắc sông Mỹ Chánh,
nhưng bắt buộc phải dừng lại do sự phản kích quyết liệt của quân Nam VN. Quân Bắc VN rút dần về La Vang và thị xã Quảng Trị. Cuộc
chiến đấu phòng thủ giữ thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm vô cùng gay go, ác liệt
của quân Bắc VN bắt đầu.
Có những lúc tình hình chiến trường cực kỳ
căng thẳng, giữa đêm, 2 giờ sáng, Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn trong lán chỉ
huy dưới trời mưa tầm tã nghe điện thoại của Tổng tư lệnh từ Hà Nội gọi vào.
Hai vành tai của Lê Trọng Tấn bị dị ứng cao su ống nghe, viêm loét có mủ. Tổng
tư lệnh trong đêm đó nhiều lần điện đàm với Lê Trọng Tấn, yêu cầu báo cáo mọi
việc. Cứ điện đàm như vậy ba bốn lần trong đêm, hết lần này sang lần khác…
(còn tiếp)
Tháng Sáu 23, 2012 — Lê Mai
Trong các cuộc điện đàm trong đêm, lần sau,
chỉ đạo của Tổng tư lệnh bao giờ cũng cụ thể hơn, sâu sắc hơn. Tuy vậy, tình
hình chiến trường Quảng Trị vẫn tiếp tục nóng bỏng.
Một ngày cuối tháng 6.1972, tướng Nguyễn
Hữu An được gọi đến gặp Tổng tư lệnh. “Cậu vào đó nắm 308, tìm hiểu xem nó mắc
mớ gì. Địch ra nhiều thế mà không đánh được trận tiêu diệt nào. Xem nó khó khăn
gì đẩy nó lên” – Tổng tư lệnh chỉ thị.
Nguyễn Hữu An vào Quảng Trị gặp tướng Hoàng
Đan. Hoàng Đan hỏi:
- Ông vào đây cả tuần rồi, đã hiểu chiến
thuật Quảng Trị chưa?
- Chiến thuật gì?
- Chiến thuật “ba chưa, một ngay”.
- Thế là cái gì?
- Ba
chưa là: thứ nhất, chưa nắm được địch; thứ hai, chưa nắm được địa hình; thứ ba,
chưa có quân bổ sung, chưa có gạo, đạn. Còn “một ngay”, nghĩa là “phải đánh
ngay”.
Một vấn đề rất lớn, cực kỳ quan trọng lúc
bấy giờ trong chiến dịch Quảng Trị (tức chiến dịch Trị Thiên) của Bắc VN là vấn
đề tiến công và phòng ngự. Các tướng lĩnh Bắc VN không ai dám nói đến phòng
ngự, mặc dù quân Nam VN đã giành được quyền chủ động, đang lần lượt phản công
giành lại đất đai đã mất. Cũng vì lúng túng giữa tiến công và phòng ngự mà quân
Bắc VN gặp khá nhiều khó khăn. Ta sẽ trở lại vấn đề này sau một chút.
Nhớ
lại cuộc tổng tấn công Mậu Thân năm 1968, Bắc VN đã giành được những thắng lợi
chính trị hết sức quan trọng, làm rung động nước Mỹ, song cũng phải chịu tổn
thất lớn hơn bất cứ giai đoạn nào của cuộc chiến tranh. Phải mất một thời gian khá dài, lực lượng của Bắc VN mới
dần dần hồi phục. Đến năm 1971, Bắc VN đã giành thắng lợi trong cuộc hành quân
Lam Sơn 719 – cuộc xâm nhập của Nam VN nhằm cắt đứt tuyến đường vận chuyển quan
trọng nhất – đường Hồ Chí Minh. Song, Hà Nội vẫn chưa hài lòng với mức độ tiến
triển của cuộc chiến.
Năm 1972 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ. Sẽ
không có ứng cử viên nào muốn gây bất bình trong dư luận công chúng Mỹ. Bắc VN
cho rằng đây chính là thời điểm thích hợp nhất để mở một trận đánh chính quy
vào quân Nam VN.
Trong khi đó, Tổng thống Nixon và Tiến sỹ
Kissinger đang mở đột phá khẩu trong quan hệ với TQ – cựu thù lớn nhất của nước
Mỹ. Nixon cử Kissinger bí mật đi TQ để chuẩn bị cho chuyến thăm lịch sử của
Tổng thống Mỹ tới TQ.
Nixon sang TQ bàn về vấn đề gì? Chu Ân Lai
bí mật tới Hà Nội thông báo cho các nhà lãnh đạo Bắc VN:
- Vấn đề rút quân Mỹ khỏi miền Nam VN là vấn đề số 1,
việc công nhận TQ là vấn đề số 2. Cuộc đàm phán Pari trở thành vấn đề then
chốt, giai đoạn mấu chốt là từ nay (7.1971) đến tháng 5 năm 1972.
Ngày 21.2.1972,
Tổng thống Nixon đến Bắc Kinh, mở đầu
chuyến đi thăm TQ, đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong quan hệ giữa hai
nước. Dư luận quốc tế cho rằng TQ đi với Mỹ để chống LX, lợi dụng sức mạnh của
Mỹ làm đối trọng cân bằng với mối đe dọa của LX. Còn Mỹ thì cần TQ giúp đỡ giải
quyết vấn đề VN.
Nixon rất hài lòng với kết quả chuyến thăm
TQ. Giờ đây, Mỹ chỉ còn “nhìn về Matxcơva để nghiền nát VN”.
Đáp lại chuyến đi đầy ấn tượng của Nixon
tới Bắc Kinh, Brêgiơnép quyết định mời Nixon tới Matxcơva.
Cuộc
tấn công vào Quảng Trị của Bắc VN diễn ra sau khi Nixon đi TQ và trước khi ông
ta đi LX, sau đó còn tiếp tục kéo dài nhiều tháng nữa. Điều đó cho thế giới
thấy rõ, công việc của người VN do người VN giải quyết và cũng chứng minh cho
Hoa Kỳ biết, cả TQ lẫn LX vẫn giúp đỡ Bắc VN.
Chiều 1.5.1972,, khi tướng Abrams, Tư lệnh
Lầu năm góc Phương Đông báo cáo về Nhà Trắng rằng “Quảng Trị đã rơi vào tay
cộng sản” thì cả Nixon và các cố vấn thân cận của ông ta đều lặng đi. Nixon
nói với Kissinger:
- Chúng ta phải nói cho người Nga biết rằng
tôi muốn hủy bỏ Hội nghị cấp cao nếu họ nghĩ rằng chúng ta phải trả giá bằng
cái giá thất bại tại VN. Trong bất cứ trường hợp nào, tôi sẽ không dự Hội nghị
thượng đỉnh nếu chúng ta còn bị khó khăn ở VN… Tôi không thể dự Hội nghị cấp
cao và chạm cốc với Brêgiơnép khi xe tăng Xô viết ầm ầm chạy qua Huế hay Quảng
Trị. Hội nghị cấp cao chẳng đáng giá một đồng trinh, không cần mua bằng thất
bại ở VN.
Nixon gửi thư cho Brêgiơnép, rằng trang bị
của LX đang cung cấp các phương tiện cho Bắc VN hành động và đòi LX chấm dứt
viện trợ cho Bắc VN.
Ngày 20.5.1972, Nixon lên đường sang
Matxcơva. Trên máy bay, Kissinger nói với Nixon, “đây là một trong những đòn
ngoại giao lớn của mọi thời đại”.
Hà Nội tỏ ra không đồng tình khi TQ đón
Nixon. Lê Duẩn nói với Chu Ân Lai khi Chu sang Hà Nội thông báo kết quả chuyến
đi TQ của Nixon: “Tôi chỉ biết trước một điều là sau khi Nixon gặp các đồng
chí, Mỹ sẽ đánh chúng tôi gấp 10 lần…”.
Và Hà Nội cũng không đồng tình khi LX đón
Nixon. Khi tiếp phái viên của Matxcơva thông báo cho Bắc VN những nét lớn về
giải pháp chấm dứt chiến tranh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng có lúc đã nói: “Ai cho
phép họ đe dọa chúng tôi? Ai cho phép họ nói cho chúng tôi làm việc này, không
cho chúng tôi làm việc nọ? Ai cho phép họ nói, Nhà trắng không cho phép kéo dài
đàm phán trong thời gian có bầu cử ở Mỹ?”.
Thực tế, VN như
một con tốt trên bàn cờ chính trị thế giới, bị các nước lớn mang ra đổi chác.
Cuộc tấn công mùa hè đỏ lửa diễn ra khi
cuộc hòa đàm Pari đang vào hồi gay cấn nhất. Kết quả giành được trên bàn đàm
phán phụ thuộc vào kết quả đạt được trên chiến trường. Cuộc chiến bảo vệ thành
cổ Quảng Trị của Bắc VN hết sức gay go, ác liệt, thương vong lớn do yêu cầu của đấu tranh ngoại giao phải giữ cho bằng
được. Đại tá C.N kể lại, lúc bấy giờ, chúng tôi vừa viết báo
vừa khóc, mỗi đêm là một đại đội, cho đến 81 ngày đêm…
Giữ được thành cổ Quảng Trị, tuy chỉ là một
địa danh trên bản đồ, nhưng thế giới vẫn cho là Bắc VN giữ được cả tỉnh Quảng
Trị.
Về nghệ thuật quân sự, sau này các tướng lĩnh Bắc VN đã
tổng kết, rút ra nhiều bài học kinh nghiệm.
Bắc VN đã không coi trọng phòng ngự trong
chiến dịch Trị Thiên. Trong 34 ngày, Bắc VN đã giải phóng tỉnh Quảng Trị nhưng
sau đó Nam VN tập trung lực lượng đối phó, có Mỹ yểm trợ tối đa, thực tế Bắc VN
đã phải hình thành phòng ngự trong thời gian hơn 200 ngày song khi đó chưa
khẳng định là phải tổ chức chiến dịch phòng ngự. Mặt khác, tổ chức phòng ngự
đơn thuần, thụ động, không kết hợp được với tích cực phản kích, phản công sau
lưng và hai bên sườn đối phương nên các lực lượng phòng thủ Thành cổ phải đơn
độc đối phó với ba hướng tấn công của Nam VN.
Không ai dám nói
đến phòng ngự, vì sợ cấp trên, rằng quân ta chỉ có tiến công, tiến công và tiến
công! Dường như sai lầm của Mậu Thân đã lặp lại.
Cho đến khi Tổng tư lệnh chỉ thị, phòng ngự không phải là bị động đối phó, sợ
kẻ địch mạnh tiến công ta; phòng ngự không phải là đối lập với tiến công. Tiến
công là tư tưởng chỉ đạo trong tác chiến, trong chiến dịch và cả trong chiến
đấu phòng ngự. Đã phòng ngự là phải xây dựng công sự kiên cố để kiên cường
chiến đấu giữ vững trận địa nhưng phòng ngự phải kết hợp tiến công nhỏ vào bên
sườn và sau lựng đối phương. Khi tương quan lực lượng đã thay đổi, ta không đủ
sức mạnh tiến công thì phải phòng ngự để bảo vệ địa bàn đã giành được, chuẩn bị
điều kiện rồi lại tiếp tục tiến công. Nhờ đó, không còn ai lo ngại khi nói đến
phòng ngự trong chiến dịch Quảng Trị.
Chiến dịch Trị Thiên Huế kéo dài từ ngày 30.3.1972
cho đến tháng 1.1973 là thời điểm ký Hiệp định Pari, kéo dài nhiều đợt. Kết quả của chiến dịch cho thấy một điều rất rõ ràng, chừng nào mà
người Mỹ vẫn sẵn sàng sử dụng không quân và hải quân để bảo vệ Nam VN thì Bắc
VN không thể hy vọng chiến thắng, nhất là các lượng này cũng được sử
dụng để oanh tạc cả Bắc VN. Đây quả thật là một bài học nghiệt ngã!
-----------------------------------
MÙA
HÈ ĐỎ LỬA 1972 (Tài
liệu của Nam Quân)
No comments:
Post a Comment