Mon, 06/25/2012 - 04:30 — VietTuSaiGon
Trên mạng, chúng ta có thể bắt gặp vô số
trường hợp sinh ngày 30/4/1975, buồn có, vui có…, bơm thổi, cũng có. Thế nhưng
mới đây tôi tình cờ gặp một bạn sinh đúng ngày này, nhưng là một trường hợp rất
bình thường, chẳng ai để ý cả, chỉ có suy nghĩ của bạn là thú vị. Bạn này nói
rằng tụi mình có cái “vinh dự kinh khủng”, đó là sinh ra nhằm lúc để chứng kiến
nhiều cái sẽ chết đi, vì thập niên 20, 30 của mỗi thế kỷ thường có những thay
đổi như thế.
Cái đầu tiên mà bạn này nói là việc cải
lương sắp chết.
Văn hóa Việt Nam vốn có thói quen đùn đẩy
trách nhiệm cho quá khứ, nên cải lương từ lâu được xem như nghệ thuật của
truyền thống, dù tuổi đời của nó chỉ tương đương với một số nghệ sĩ còn sống
như Phạm Duy (sinh 1921), Viễn Châu (sinh 1924), Trần Văn Khê (1921)… Bởi theo
nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển (1902-1996, người từng dành nhiều tài sản để xiển
dương bộ môn này) thì: ngày 16/11/1918, khi tuồng Gia Long tẩu quốc công
diễn, cách hát này mới chính thức “bành trướng không thôi, mở đầu cho nghề mới,
lấy đờn ca và ca ra bộ chỉnh đốn, thêm thắt mãi, vừa canh tân, vừa cải cách...
nên cải lương hình thành lúc nào cũng không ai biết rõ...”, (theo Hồi ký 50
năm mê hát, trang 207).
Cái chết mà bạn này nói là mất sức sống,
hoặc sống mà như chết, chứ không phải hoàn toàn biến mất trong đời sống. Nó
cũng giống như cái chết của hát bội, hát chèo… dù các nhà hát và gánh hát thì
vẫn còn đây đó.
Việt Nam hay nói tới bản sắc văn hóa, nhưng
thực chất, chẳng bao giờ thể hiện một sách lược bảo tồn và phát triển văn hóa
đúng đắn, có chăng là… bảo thủ một cách mù quáng. Cải lương định hình từ thập
niên 1930, khoảng 30 năm sau, nó nhanh chóng bước lên đỉnh cao của thể loại,
với các bài bản phong phú, với nhiều nghệ sĩ tài danh. Những cái tên như Út Trà
Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Dũng Thanh Lâm, Minh Cảnh, Minh
Vương, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Bạch Tuyết, Phượng
Liên, Thanh Kim Huệ, Thanh Thanh Hoa…, mà ngày nay, nhiều người vẫn còn sống.
Cái chết của cải
lương dường như được tuyên bố từ ngay 30/4/1975, vì sau ngày này, nhiều gánh
hát bị giải thể và cấm hát. Trong
sự rã rời đó, cải lương cựa quậy thêm chừng 10 năm (1985) thì bắt đầu chết, với
lý do “thiếu kịch bản hay, thiếu rạp diễn mới và thế hệ lão thành tàn lụi”.
Thực chất thì không phải như vậy, vì nghệ sĩ lúc này gần như vẫn còn nguyên,
chỉ có rạp hát là đã bị thu hồi để làm hợp tác xã, kịch bản thì bị kiểm duyện
gắt gao, nên thành ra chẳng có cái gì đáng để xem. Bổn cũ soạn lại miết, dân
miền Nam vốn ưu thay đổi, cũng ngại xem. Đầu thập niên 1990, chính quyền bắt
đầu chú ý đến cải lương theo hướng tuyên truyền, cách làm này hoàn toàn vô bổ,
nên cải lương càng thêm có cớ để chết. Từ năm 2000 đến nay, dù có nhiều cuộc
thi, nhưng khuôn khổ của nó cũng hoàn toàn bó hẹp ở ca ngợi và tuyên truyền,
nên nó cũng không có đất sống. Cũng cần lưu ý rằng, thời cao điểm, tại vùng Sài
Gòn, Chợ Lớn, Gia Định đã có khoảng 40 rạp hát cải lương, vậy mà bây giờ chỉ
còn Nhà hát Trần Hữu Trang, nên thi xong, muốn có đất dụng võ cũng khó, vì
chẳng biết đầu quân về đâu cho đủ sống. Nên chết là đương nhiên thôi.
Ai cũng biết có sinh thì có diệt. Nhưng
nhiều người không tin cải lương sẽ chết, vì thấy bộ phận nào trên “thân thể”
cũng còn “trẻ khỏe”, chỉ có mất khán giả mà thôi. Họ không cắt nghĩa được, nếu
chỉ nhìn riêng vào nội hàm cải lương. Cho nên, nói đến cái chết của cải lương, bắt buộc phải
cứu xét đến chính sách phát triển văn hóa và cách ứng xử của nhà cầm quyền với
bộ môn này.
Mà không chỉ riêng với ải lương, mà với nhiều mặt của nền
văn hóa cũng thế, cái chết đều liên quan trực tiếp đến chính sách của nhà cầm
quyền.
Điều tiếp theo mà
bạn này nói là cái chết của đảng CSVN.
Họ luôn tuyên truyền chế độ tư bản đang
giãy chết, thế nhưng trong hơn 20 năm qua, từ gần một nửa thế giới, cộng sản
chỉ còn trong vỏ bọc chính thể của vài ba nước. Mà tinh thần vô sản thì đã biến
chất hoàn toàn.
Nếu khẩu hiệu của cải lương là: “Cải cách
hát ca theo tiến bộ/ Lương truyền tuồng tích sánh văn minh” – theo tiến bộ và
văn minh mà còn chết yểu. Thì khẩu hiệu đi ngược tiến bộ và văn minh của đảng
độc tài, ắt cùng chung số phận mà thôi. Với các nước còn lại, chỉ là một sớm
một chiều, tự họ không thắng nổi tuổi già hay số mệnh của chính mình. Đảng CSVN
ra đời năm 1930, nhỏ hơn cải lương khoảng 10 tuổi, có thể xem là tiểu đệ cũng
được. Huynh đệ này đều có ý muốn “cải lương”, nhưng phương thức hoạt động thì
ngày càng “cổ lương”, nên có cùng thời điểm để chìm xuồng (!?).
Có điều cái chết của cải lương hay ca khúc
bolero Việt Nam (thập niên 1950) dù buồn nhưng lặng lẽ, chẳng tác động trực
tiếp đến đời sống nhân quần; còn cái chết của đảng CS dù vui nhưng sẽ khá huyên
náo và nhiều hệ lụy. Cái chết này sẽ làm cho nhiều tầng lớp bị thương.
Hệ lụy đầu tiên là những khoản nợ công khổng lồ mà nhân dân phải gánh chịu trong hàng thế kỷ nữa mới mong
trả hết. Chính quyền vay nợ quốc tế bao nhiêu tiền, không một chuyên gia hay tổ
chức nào có thể tổng kết hết được, chỉ biết là rất nhiều và chủ yếu để phục vụ
các nhóm nhỏ quyền lực của đảng.
Hệ lụy tiếp theo là nền giáo dục tan hoang. Hiện có đến 1/3 dân số đi học (khoảng 30 triệu học
sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh…) mà giáo dục chỉ có bệnh thành tích, thu học
phí cao và nhồi sọ, làm sao có được những lớp kế tục giỏi và lành mạnh.
Hệ lụy kế tiếp là các thỏa hiệp bất lợi về biên cương,
biển đảo, chủ quyền…, làm sao các thế hệ tiếp theo đủ cơ sở pháp lý để bảo vệ,
tranh biện.
Hệ lụy dễ thấy nữa là nền nông lâm ngư nghiệp bị phá tan
tành, dù phần lớn người dân vẫn thuộc tầng lớp
này.
…v.v….
Nếu cải lương sống dở chết dở là do chính
sách bảo tồn văn hóa sai lệch, thì Đảng CSVN sống dở chết dở là vì chủ đích của
chính họ. Sự phân nhóm quyền lực trong một đảng độc quyền khiến cuộc chay đua
quyền lực và tài lực luôn là chủ đích chính, hùng mạnh thì khó tham nhũng, móc
ngoặt. Họ luôn tự xào xáo để tạo ra lỗ hổng nhằm có cơ hội trục lợi và xóa dấu
vết của chính mình, cái này gọi là “đục nước béo cò”.
Chính vì vậy, cái chết của đảng
CSVN cũng rất khác với cải lương, nó không phải mất sức sống mà hoàn toàn sẽ
biến mất trong thù hận, oán hờn của người dân, chỉ còn lại những dòng trong
lịch sử. Chắc chắn đảng cầm quyền cũng biết điều đó, nên họ luôn
chơi chiêu của cờ bạc, “rời bàn tan nợ”, nên họ mặc sức tích cóp tài sản riêng
và tìm cách hợp thức hóa đây đó.
Chính bối cảnh như vậy, con đường của Việt Nam sẽ là món
nợ khổng lồ từ một cái chết và một đám tang được báo trước, chỉ còn chờ đợi
ngày xảy ra mà thôi. Cho nên, trong viễn cảnh về một Việt Nam hậu cộng sản,
những người soạn thảo ra các con đường cho Việt Nam, bắt buộc phải nghĩ đến các
món nợ này. Nếu phớt lờ nó, mọi kế sách chỉ còn là bong bóng xà phòng vì nó phi
thực tế.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu