Wednesday, 13 June 2012

CON NGƯỜI & NHỮNG QUY LUẬT TỰ NHIÊN (Nguyễn Văn Thạnh)




12:01:am 01/06/12

Tư tưởng của tôi là thừa nhận tính tất yếu của con người là chủ nghĩa cá nhân: đã là con người thì phải ăn, ngủ,……và phải tham lam, ham sống, sợ chết, muốn sống sung sướng, muốn có nhiều tiền bạc, quyền lực,… Điều quan trọng là phải đưa ra giải pháp, cơ chế để chủ nghĩa cá nhân phát huy sức mạnh, làm điều tốt đẹp, hạn chế cái tính xấu xa của nó, chứ không phải thần thánh hóa con người, triệt tiêu nó. Dao có sắc mới gọt được quả, dao sắc cũng dễ đứt tay, cốt yếu sử dụng sao không đứt tay chứ không phải đem mài cùn đi. Đã là con người thì đều bị chủ nghĩa cá nhân chi phối từ anh lao động, cu li, đến chị lao công, từ anh trí thức đến các bậc lãnh đạo cao thượng, không có chuyện làm lãnh đạo thì thành thánh, kinh doanh thì xấu xa, tham lam.

Qui luật tự nhiên:
Hẳn, ai cũng biết nhà bác học vĩ đại Isaac Newton (http://vi.wikipedia.org/wiki/Isaac_Newton) , từ việc nghiền ngẫm quả táo rơi, đã khám phá ra một qui luật vĩ đại của thiên nhiên, của vũ trụ: định luật vạn vật hấp dẫn. Đây là một định luật lớn của tự nhiên, nhờ có nó mà vũ trụ thực hiện được bản giao ca vĩ đại của mình: các thiên hà, các hành tinh hút nhau, quay quanh nhau, vận động, chuyển hóa không ngừng nghỉ: các ngôi sao cháy sáng dưới sức hút của trọng lực chính mình (trọng lực đã tạo ra sức nén kích hoạt phản ứng hạt nhân), trong hệ mặt trời chúng ta, mặt trời cháy rực soi sáng thiên hà, trái đất quay quanh, các dòng sông cuộn chảy, sự sống sinh sôi, trong đó có thế giới loài người,…. thật vĩ đại, thật kỳ diệu. Đó là kiến thức khoa học cơ bản, bây giờ thì ai cũng biết. Có người cho rằng Newton đã “tạo” ra lực hấp dẫn. Điều này không đúng, lực hấp dẫn là thuộc tính tự nhiên, nó mặc nhiên có, Newton vĩ đại vì là người thấy nó và tổng kết thành qui luật để con người hiểu biết và vận hành trong cuộc sống. Nhà bác học thiên tài Albert Einstein (http://vi.wikipedia.org/wiki/Albert_Einstein) từng nói “tự nhiên thì nó vẫn là nó cho dù có người quan sát hay không”. Con người chỉ phát hiện ra nó, tổng kết thành qui luật và ứng dụng trong cuộc sống. Con người khác con vật ở chỗ: “một con ruồi bò trên bề mặt quả địa cầu, nhưng nó không biết rằng nó đang bò trên đường cong. Còn con người thì biết đó là đường cong”, đã là qui luật thì còn người phải tuân theo để đạt được mục đích của mình (triết học có phạm trù: tự do và tất yếu). Từ biết định luật vạn vật hấp dẫn mà chúng ta biện giải được những hiện tượng xung quanh mình: té ngã, nhà sập, nước chảy, đá lăn,… Tuyệt vời hơn nữa là con người biết ứng dụng, lợi dụng qui luật tự nhiên để cải biến cuộc sống của mình: không bao giờ con người bay được trong những chiếc máy bay khổng lồ, an toàn mà không thừa nhận định luật vạn vật hấp dẫn.
Tự nhiên có rất nhiều “định luật” lớn nhỏ, chi phối các thuộc tính khác nhau, tuy nhiên có những định luật lớn, tổng quát nhất chi phối bản hòa ca của tự nhiên. Định luật vạn vật hấp dẫn là một trong số đó. Một nguyên tắc đơn giản: dưới tác dụng của trọng lực, nước phải chảy chỗ trũng. Đơn giản có vậy mà bao con sông hùng vĩ tuôn trào, mang lại phù sa, nước mát làm trù phú quả địa cầu. Chúng ta không thể ngăn một dòng sông chảy, có chăng ‘uốn” dòng chảy để nó phục vụ theo ý mình, muốn thế cũng phải tuân theo qui luật tự nhiên: tạo nên chỗ trũng và hai bờ để nó chảy theo ý mà không “tức nước vỡ bờ” chảy tràn lan, không kiểm soát được, nhấn chìm làng mạc, tiêu hủy cuộc sống. Cũng có khi có những “giọt nước” được tia nắng mặt trời làm cho bốc hơi, không cần phải chảy vẫn ra được đến biển. Thấy một con đường đi quá ngắn, quá tuyệt vời để đạt được mục đích, dùng ý chí ao ước, ép buộc, dùng mọi biện pháp để cả dòng sông được thế, chỉ tốn sức, hoài công vô ích. Hiểu qui luật, hành động theo qui luật thì điều tốt đẹp tự đến, dùng ý chí không đếm xỉa qui luật, dù có “quyết tâm cao độ” cũng chỉ gây ra thảm họa! (Kinh tế tập trung, quan liêu thời bao cấp là một minh chứng hùng hồn).

Con người và những thuộc tính: Con người là một sản phẩm của tự nhiên, cũng có những thuộc tính của tự nhiên, hiển nhiên nó tồn tại, dù có những lúc như giọt nước bốc hơi kia, nhưng ta không thể lấy đó để “làm thước đo” cho cả xã hội. Thuộc tính con người chúng ta cần thừa nhận: con người có thuộc tính ích kỉ, tham lam, tư hữu, tiền của mình thì mới xót, mới lo hết mức, lo cho mình và người thân trong gia đình trước, muốn sống sung sướng, giàu sang, thỏa mãn thuộc tính cá nhân về tình dục, về cái tôi,….. phản ứng tự nhiên là muốn bảo vệ quyền lợi mình đang có,…. Tất cả những thuộc tính đó được tập hợp lại trong cái gọi là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chi phối con người mạnh mẽ như trọng lực chi phối lên chiếc máy bay và vạn vật. Chúng ta không thể “thần thánh” hóa con người mà bỏ qua chủ nghĩa cá nhân, chúng ta cần thừa nhận, tôn trọng nó như một tất yếu để rồi ứng dụng nó trong quản lý, vận hành xã hội đến mục đích tốt đẹp như thừa nhận trọng lực tác dụng lên máy bay và vận hành đúng để nó bay. Chủ nghĩa cộng sản, giấc mơ vĩ đại của nhân loại, gây cảm hứng mạnh mẽ cho hơn một nửa nhân loại trong suốt thế kỷ 20 và được cố gắng thực hiện bởi nhiều bộ óc được cho là thông minh tầm cỡ, được noi gương đạo đức bởi nhiều vị “thánh tổ”…. nhưng rất tiếc lại là chủ thuyết hành động trái qui luật. Tất yếu nó sụp đổ, phải rơi xuống đất tan nát như chiếc máy bay do một tên lãng mạn tạo ra.

Phát huy thuộc tính con người trong xã hội:
Một nguyên tắc đơn giản: dưới tác dụng của trọng lực, nước phải chảy chỗ trũng. Đơn giản có vậy mà bao con sông hùng vĩ tuôn trào, mang lại phù sa, nước mát làm trù phú quả địa cầu. Cũng với chủ nghĩa cá nhân, với mong muốn được sống tốt, được có tài sản, con người đã ra sức lao động, chấp nhận rủi ro, mạo hiểm,… làm giàu cho mình, cho gia đình mình. Thấy có lợi cho mình, cho gia đình mình thì làm, thấy thiệt thì né ra, điều này nhiều khi chúng ta gọi là… tham lam, là… hèn. Vâng, nhiều khi là như vậy, nhiều khi cuộc sống cần những con người vì đại nghĩa, vì hảo hớn, nhưng chúng ta không thể lấy nó làm chuẩn để đòi hỏi cả xã hội ai ai cũng phải thế. Cứ cho rằng ông Hồ Chính Minh là người có đạo đức cách mạng sáng ngời, như lâu nay Đảng Cộng Sản tuyên bố và vận động toàn Đảng, toàn dân ra sức học tập, làm theo đạo đức của ông để đất nước tốt đẹp, thịnh vượng, giàu có. Đây là một hình thức làm việc trái qui luật tự nhiên, phản ảnh sự bế tắc của các giải pháp quản lý xã hội khoa học, không bao giờ có kết quả như mong muốn. Ông Hồ Chí Minh có thể là một giọt nước “bốc hơi” đẹp long lanh, nhưng không thể bắt cả dòng sông cũng “bốc hơi” như ông. Thực tế qua 6 năm làm cái việc vận động, học theo tốn không biết bao nhiêu sức lực, tiền của mồ hôi, nước mắt của dân, tham nhũng ngày càng trầm trọng, kinh tế lụn bại là một minh chứng hùng hồn, không thể chối cãi được. (Hãy xem những tên chóp bu kêu gào học tập và làm theo đã hành động như thế nào? Rất chuẩn theo qui luật tự nhiên: chủ nghĩa cá nhân: gia đình, vợ con, dòng họ sung sướng, giàu sang, đi toàn xe công sang trọng, đẳng cấp,…).

Làm sao thuộc tính chủ nghĩa cá nhân “xấu xa” lại có thể làm cho cuộc sống xanh tươi, xã hội tốt đẹp?

Dòng sông chảy về chỗ trũng, không thể chảy tràn lan dù nó có muốn thế cũng không được, vì sao? Vì có đôi bờ ngăn hai bên. Con người thấy lợi thì làm, hại cho mình thì không, luôn cân nhắc được nhiều hơn mất thì sẽ làm, dù người đó là nông dân, anh xe ôm, chị lao công, đến vị thức giả, doanh nhân, đến nhà chính trị bảnh bao, miệng lưỡi hùng hồn cũng vậy. Lợi cho mình, quyền sống cho mình, cho gia đình mình luôn được cân nhắc trước, tự nhiên con người không thể lấy búa mà ghè vào chân.

Qua hàng ngàn năm tiến hóa, bao thăng trầm, bao cuộc cách mạng đẫm máu, trời long đất lở, bao chủ thuyết được nêu ra, thực hiện, thất bại cay đắng,…. cho đến hôm nay con người đã tìm ra cho mình hai “bờ” hiệu quả để quản lý chủ nghĩa cá nhân, giúp nó phát huy, cuộn chảy, mang lại tốt tươi cho đời mà không tàn phá “làng mạc”. Hai bờ kỳ diệu đó là gì?

Bờ thứ nhất là kinh tế thị trường tự do: Như tôi từng nói: Xét về tự nhiên, con người thoát khỏi giới động vật là nhờ lao động, lao động làm ra tài sản, của cải, tiền bạc. Tiền chính là giá trị sức lao động (suy rộng ra là giá trị con người), có tiền (tài sản, của cải) thì sẽ được sống sung sướng, không chỉ cho mình mà cho người thân trong gia đình, không tiền, không tài sản, không của cải thì sống vô cùng khốn khổ không khác gì con thú; tiền của mình thì xót, tiêu dùng, kinh doanh có trách nhiệm, của người khác dù là của bố mẹ thì cũng không thể xót xa, trách nhiệm như của mình, huống gì tiền “chùa”, tiền của “nhân dân”, điều này thì rõ ràng, không cần bàn cãi. Do vậy ai cũng muốn có nhiều tiền, nhiều tài sản, nhiều của cải, vì nó là nguồn sống. Kinh tế vẫn là hoạt động chính yếu của con người. Trong xã hội hiện đại, một người, một gia đình không thể làm ra mọi thứ, để có hiệu quả, chỉ làm một thứ và trao đổi với nhau. Đồng tiền có vai trò vô cùng to lớn, tiền là tài sản, là của cải, có tiền là có “đủ thứ”, hoạt động kinh tế chính là hoạt động kiếm tiền, suy rộng ra, hoạt động sống gần như là hoạt động kiếm tiền, tiêu tiền. Có người nói, từ khi con người phát minh ra tiền, con người không thể điều khiển thế giới theo ý muốn chủ quan của mình nữa quả không sai. Tất cả xã hội vận động theo qui luật vận động của tiền, hiểu qui luật “chảy” của tiền mới điều khiển được xã hội loài người, như hiểu trọng lực mới điều khiển được dòng sông. (Cả nước Mỹ to lớn, hùng cường, nên kinh tế đa dạng, qui mô 15.000 tỷ USD, chỉ nắm mỗi một việc duy nhất: lãi suất của FED là điều khiển được (suy rộng ra, không chỉ điều khiển nước Mỹ mà còn là nền kinh tế toàn cầu, với 7 tỷ người, hàng chục ngàn tỷ USD), kỳ diệu như người phi công cầm cái cần điều khiển của chiếc siêu máy bay Air Bus A380, nặng 560 tấn, cao hai tầng, chở đến 900 người, vượt đại dương 16.000 km mới cần tiếp nhiên liệu, thật kì diệu) (http://vi.wikipedia.org/wiki/Airbus_A380).

Để hiểu được tiền được làm ra như thế nào trong nền kinh tế thị trường tự do toàn cầu hóa, ta phải nắm được cái tư tưởng chủ đạo của cha đẻ lý thuyết marketing hiện đại: Michael Porter (http://vi.wikipedia.org/wiki/Michael_Porter). Ông chỉ ra rằng, trong nền kinh tế tự do, việc gì cũng có nhiều người làm, cạnh tranh nhau rất khốc liệt, để bán được hàng, để có lợi nhuận thì phải nghiên cứu, điều tra thị trường, sản xuất ra đúng cái thị trường cần, với doanh số làm sao bán ra mình có lãi nhiều nhất. Điều này rất phù hợp với thuộc tính cơ bản của con người: làm ít nhất mà có cuộc sống sướng nhất (làm ít tốn sức nhất mà có tiền nhiều nhất), trong cuộc chơi này, nếu ai khù khờ, không hiểu biết, không chơi đúng qui luật thì lãnh phần thiệt về mình. Điều đó giải thích vì sao người nông dân lao động vất vả, đầu tắt, mặt tối mà cuộc sống vô cùng khổ sở. Có câu nói: làm việc thông minh hơn làm việc chăm chỉ, quả không sai.

Có tiền là có đủ thứ, tìm mọi cách để có tiền, không thể khác hơn được. Xã hội sẽ tốt đẹp nếu muốn có tiền, ta phải làm một điều gì đó có ích: bán sản phẩm tốt, sáng tạo ra điều kì diệu mà dân chúng phải bỏ tiền ra mua (Apple), làm một dịch vụ giúp cuộc sống tốt hơn,… Tất nhiên có rất, rất nhiều kiểu cách có tiền đơn giản hơn, không cần phải mất sức nhiều như: trộm cướp, lừa đảo, bán hàng đểu kém chất lượng, chế biến gian dối tạo ra sản phẩm độc hại để có giá thành thấp, bán hàng giá cắt cổ,… làm như vậy là anh tự cắt cổ mình. Hoặc bị luật pháp trừng trị, hoặc bị người tiêu dùng tẩy chay. Tuy nhiên trong cơ chế kinh doanh tự do, có thương hiệu, tôn trọng bản quyền, sở hữu trí tuệ, luật pháp nghiêm minh (luật pháp nghiêm minh nhất chỉ có trong thể chế dân chủ, pháp quyền). Chỉ có một cách duy nhất là tìm hiểu nguyện vọng người tiêu dùng để thỏa mãn họ, bán được hàng, giữ được chữ tín,…. khi đó mới có lợi nhuận, có tiền.

Bờ thứ hai là nền chính trị dân chủ, nhà nước pháp quyền:
Để biết chính trị có mang lại tiền của, cuộc sống sung sướng không, ta nên tìm hiểu một nhân vật trứ danh trong lịch sử Trung Hoa: Lã Bất Vi với câu nói nổi tiếng: làm ruộng lãi 1, nuôi tằm lãi 10, đi buôn lãi 100, buôn vua lãi hàng vạn, không tính được. Thế mới biết vì sao con người ham mê quyền lực đến thế, chế độ phong kiến có một điều khoản vô cùng khốc liệt: tru di tam tộc, thậm chí là cửu tộc nếu giành quyền của vua, thế mà có ngăn được con người tranh giành quyền lực được đâu.

Dưới ánh sáng của tư tưởng chính trị hiện đại: quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền, lãnh đạo là nghề làm thuê (lời của tổng thống Barack Obama), làm không nên, không thỏa mãn người dân, không mang lại kinh tế thịnh vượng, cơm no áo ấm cho dân thì về vườn, không có chuyện thiên tử, nước của Vua, mang ơn lãnh đạo,… Câu chuyện lãnh đạo tuyệt đối, duy nhất cũng như vậy. Tư tưởng là vậy, nhưng để làm được điều đó không phải muốn là được, phải tổ chức công việc khoa học, không thể ý muốn lãnh tụ, cha già dân tộc, đạo đức sáng ngời để người làm chính trị, làm lãnh đạo noi gương, làm theo là thành công. Không bao giờ, mãi mãi không bao giờ!

Câu chuyện tự phê bình, nhận khuyết điểm, rửa mặt hàng ngày,… là câu chuyện hành động trái luật tự nhiên, chống lại bản ngã con người, không ai lấy búa mà ghè vào chân mình được, có chăng chỉ là chiêu mị dân, hoặc là niềm tin của kẻ lãng mạn, ngây thơ. Nếu tin theo cái ý tưởng đó không khác gì theo cái long lanh của giọt nước bay hơi. Việc gì phải thế, giọt nước bay hơi thì tốt nhưng cái chính nó phải theo luật chơi của trọng lực, của dòng chảy, của bề ngăn. Quan trọng là luật, là thiết chế, làm sao có muốn gian dối, tư lợi, lạm quyền, biển thủ,… cũng không được. Đó mới là điều quan trọng.

Loài người đã phát minh ra rất nhiều cơ chế để làm được việc trên, tôi sẽ có bài viết phân tích kỹ hơn, tựu trung lại: cạnh tranh tự do chính trị, tam quyền phân lập, báo chí tự do, kinh tế dân nắm, minh bạch trong công quyền, qui tắc xung đột lợi ích, … tất cả được luật hóa, kiểm soát, ràng buộc nhau, có thế và lực để thực thi (điều này vô cùng quan trọng, nó giải thích vì sao nhiều điều luật, nhiều bản hiến pháp được viết ra đẹp như mơ cũng chẳng ích gì, vì nó không đủ thế và lực để thực thi), không làm không được, hoàn toàn không có chuyện mong chờ “đạo đức cách mạng sáng ngời” thực thi. Người nắm quyền thành công phải chấp nhận tất cả các chế tài đó, không chấp nhận thì đi chỗ khác. Ai cũng biết ông Barack Obama, có vợ, hai con gái, thu nhập hàng năm bao nhiêu, đóng thuế bao nhiêu, rất rõ ràng, rất minh bạch. Nhiều lãnh đạo, điển hình như ông Putin, ông Nguyễn Tấn Dũng nhà ta, dấu biến vợ con, gia đình, tài sản, nói rằng bảo vệ cuộc sống riêng tư gia đình, rất là tù mù. Muốn nắm quyền, muốn làm chính trị, phải tuân thủ sự minh bạch, phải chấp nhận cuộc sống cá nhân, gia đình, tài sản bị người ta xăm soi, không có ngụy biện, trả treo gì hết. Tôi muốn có việc, muốn có tiền phải đi làm cho người ta, phải đủ ngày tám tiếng, phải làm xong việc, phải tuân thủ kỷ luật công ty, làm gì có chuyện vòng vo, giỡn chơi.

Thừa nhận bản ngã con người: chủ nghĩa cá nhân, để kiến giải những điều bất ổn trong xã hội Việt Nam hiện nay, đưa ra giải pháp khoa học để làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội phú cường.

© Nguyễn Văn Thạnh
© Đàn Chim Việt


2 Phản hồi cho “Con người và những qui luật tự nhiên”

Bạn người Việt says:
Lại được xem bài hay nữa của anh Thạnh. Ở VN và các nước cộng sản, làm gì có minh bạch, minh bạch thì làm sao làm lãnh tụ, làm sao tham nhũng được nhiều tiền. Bản ngã của con người ngoài tham lam còn độc ác nữa, cái phần độc ác này được cộng sản đẩy lên thành “chuyên chính vô sản”. Nó làm suy kiệt sức phản kháng của dân VN, mặc dù biết là bất công, vô đạo.

ĐẠI NGÀN says:
THẾ NÀO LÀ ĐẠO ĐỨC CÁ NHÂN VÀ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI ?
Đạo đức cá nhân là những tính chất hay hành vi nào có lợi cho mục đích và giá trị của các cá nhân. Đạo đức xã hội là những tính chất hay hành vi nào có lợi chung cho xã hội. Đạo đức cá nhân như vậy không thể vượt lên hay bao trùm đạo đức xã hội. Có nghĩa điều gì tốt đối với cá nhân chưa hẳn đã là tốt đối với xã hội. Cúng vậy, ngược lại điều gì tốt đối với xã hội chưa hẳn đã là tốt đối với cá nhân.
Vậy thì đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội là một sự tương hòa. Có nghĩa điều gì tốt đối với cá nhân đồng thời cũng tốt đối với xã hội, đó mới thật là ý nghĩa đạo đức lành mạnh và trọn vẹn. Ngược lại điều gì tốt đối với cá nhân mà không tốt đối với xã hội hay tốt đối với xã hội mà không tốt đối với cá nhân, không thể xem như tiêu chuẩn đạo đức toàn vẹn hoặc lý tưởng. Không đặt cá nhân cao hơn xã hội, hay đặt xã hội cao hơn cá nhân, đó chính là đạo đức xã hội. Ngược lại nếu đặt cá nhân cao hơn xã hội, đó là phi đạo đức, vì đó không phải là đạo đức cá nhân cũng như càng không phải là đạo đức xã hội. Tương tự như vậy, nếu đặt xã hội cao hơn cá nhân, khiến yêu cầu xã hội chà đạp lên các nguyện vọng, ý nghĩa, giá trị chính đáng của cá nhân, thực chất là phi đạo đức xã hội lẫn phản đạo đức cá nhân, vì như thế chỉ là sự hình thức, sự giả tạo, phản lại cả thực chất cá nhân cũng như thực chất xã hội, hay nói khác là phản lại chính bản thân và thực chất của chính con người.
Vậy thì cá nhân và xã hội chỉ là hai mặt của cùng một vấn đề. Không thể có cá nhân nếu không có xã hội, cũng như không thể có xã hội nếu không có cá nhân. Cho nên suy tôn cá nhân mà quên xã hội cũng là phản xã hội. Ngược lại suy tôn xã hội mà quên cá nhân cũng là phản lại bản chất tự nhiên, xác đáng, cần thiết của chính bản thân con người nói chung.
Những điều trên đây cũng áp dụng cho cả đạo đức cá nhân và đạo đức tập thể. Bởi mọi tập thể chỉ là xã hội thu nhỏ, và mọi xã hội thu nhỏ cũng chính là tập thể.
Từ đó cũng thấy rằng chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa xã hội hay quan niệm về mục đích cá nhân và quan niệm về mục đích xã hội thực chất cũng không đi ra ngoài tất cả mọi điều tương quan cơ bản như thế.
Có người lấy chủ nghĩa hay quan điểm xã hội để bài xích chủ nghĩa hay quan điểm cá nhân, đó chỉ là sự cường điều, dại khờ, giả tạo, giả dối. Ngược lại những người lấy chủ nghĩa hay quan điểm cá nhân để xem nhẹ lợi ích chung của xã hội cũng là thái độ thiển cận, ích kỷ, hẹp hòi, tầm thường, thấp kém.
Nên nói một cách trung thực ra, mọi sự dung hòa các ý nghĩa cá nhân và xã hội luôn luôn hợp lý, cần thiết, chính đáng cũng như hoàn toàn hữu lý và thực tế.
Cái được gọi là chủ nghĩa xã hội đúng nghĩa đó là tinh thần, thái độ của những người nào hướng về xã hội là chính.
Cái được gọi là chủ nghĩa cá nhân trái lại chính là tinh thần, thái độ của những người nào hướng về bản thân, hướng về lợi ích riêng là chính. Như vậy có nghĩa chủ nghĩa hay quan điểm, quan niệm xã hội, vì lợi ích chung đúng nghĩa, luôn luôn cao cả và chính đáng hơn chủ nghĩa hay quan điểm cá nhân, vị kỷ, lợi ích riêng tư rất nhiều.
Điều đó cũng hoàn toàn phân biết với cái gọi là xã hội chủ nghĩa, hay chủ nghĩa xã hội theo hướng học thuyết Mác xít.
Thực chất học thuyết Mác không đặt nặng gì đạo đức cá nhân hay đạo đức xã hội.
Thực chất học thuyết Mác chỉ đặt năng mô thức tổ chức xã hội như là một công thức do chính Mác sáng nghĩ ra.
Mác dựa vào khái niệm biện chứng suy biện mơ hồ, huyền hoặc của Hegel để cho rằng lịch sử xã hội loài người cũng “biện chứng” khách quan để đi từ xã hội cộng sản nguyên thủy, đến xã hội tư bản chủ nghĩa và cuối cùng là xã hội cộng sản khoa học.
Chính trên cơ sở đó mà Mác cho rằng đạo đức cách mạng là ý nghĩa hành động phù hợp với quy luật mà Mác cho là khách quan đó, mà không phải là đạo đức kiểu giá trị nhân văn truyền thống mà Mác tự ý gom chung vô một phạm trù khái quát được Mác gọi là đạo đức tư sản.
Rõ ràng học thuyết Mác chỉ là học thuyết gà mờ. Bởi vì nếu ý niệm “biện chứng” của Hegel là sai lầm, cũng kéo theo toàn bộ lý thuyết Mác là sai lầm, không còn một ý nghĩa khoa học hay nhân bản gì cả.
Đó chính là điều mà tôi gọi là sự mê tín, sự mù quáng của Mác vào ý nghĩa “phép biện chứng” của Hegel. Về ý nghĩa vấn đề quy luật biện chứng của Hegel có dịp tôi sẽ phân tích và phê phán sau. Ở đây chỉ nói riêng cái kéo theo với nó là quan điểm biện chứng duy vật hay duy vật biện chứng, và cái được gọi là biện chứng lịch sử hay duy vật lịch sử hay duy vật sử quan của Mác thực chất đều chỉ là những ức đoán võ đoán, mơ hồ, phi khoa học, không có gì chứng minh cụ thể và thực tế về mặt khoa học, nên trong thực tế nó hoàn toàn phi lý, thất bại vì thực chất là hoang đường và nghịch lý như nhiều lần tôi đã nói. Từ đó cũng kéo theo cái được gọi là chủ nghĩa cộng sản khoa học hay xã hội cộng sản khoa học chỉ là điều tào lao, không thực tế, phản thực tế mà nhiều người hẳn nhiên vẫn thấy hay vẫn tiên đoán ra được. Cái gọi là xã hội cộng sản nguyên thủy cũng chỉ là khái niệm ngược ngạo của Mác, bởi vì thực tế đó chỉ là xã hội con người nguyên thủy, không có cái suy diễn kèm theo là “cộng sản” gì cả. Cộng sản chỉ là khái niệm được suy luận ra sau này, không hề là thực chất của đời sống nguyên thủy lúc ban đầu của loài người, vì thực tế xã hội đó là ý nghĩa nguyên thủy của xã hội, không phải là ý nghĩa của các khái niệm được gắn cái đuôi đó vào về sau này.
Cho nên cái được gọi là đạo đức cách mạng trong học thuyết Mác không hề được hiểu như một loại đạo đức truyền thống nào cả mà Mác đã dè bỉu là đạo đức tư sản. Bởi vì chủ trương của Mác là chủ trương vô sản, nên đối với Mác chỉ có đạo đức gọi là đạo đức cách mạng, tức là sống và suy nghĩ phù hợp với nguyên tắc hay nguyên lý công thức do Mác đề ra là từ xã hội chủ nghĩa tiến lên cộng sản chủ nghĩa bằng cách hủy diệt xã hội tư sản hay xã hội tư bản.
Hiểu đạo đức Mác xít thực chất là cách hiểu lệch lạc. Bởi vì Mác chỉ đồng hóa đạo đức Mác xít với khoa học Mác xít, là điều mà Mác cho là quy luật khách quan, duy nhất đúng, là dựa vào niềm tin nơi quan điểm biện chứng của Hegel mà chính Mác đã phiên dịch ra từ học thuyết tư biện trừu tượng và chủ quan của Hegel. Khía cạnh này ở đây tôi chỉ phân tích sơ qua. Cũng mong có dịp và có thì giờ cũng cần đi sâu sát về chi tiết thêm nhiều hơn.
Nói chung lại, quan niệm của Mác là quan niệm dựa trên ý niệm “bản thể” của lịch sử xã hội một cách mơ hồ, phi lý, bởi vì nền tảng của nó theo Mác là thuần túy duy vật.
Trong khi đó, thực thể con người và thực thể xã hội đúng nghĩa là thực thể sinh học cụ thể.
Vì đã đã thực thể sinh học cụ thể, nó phải có các quy luật khách quan của nó, như quy luật lịch sử thực tế, quy luật môi trường tự nhiên và xã hội, quy luật tâm lý ý thức, quy luật phát triển cụ thể đời sống cá nhân và xã hội nói chung khách quan v.v… Toàn bộ những thứ đó Mác hầu như không đếm xỉa đến mà chỉ có mê muội vào nguyên tắc “biện chứng” cứng nhắc, mơ hồ, trừu tượng, tư biện của Hegel nên thực chất đó đích thực là sự u mê, sự gàn bướng, sự phi thực tế và sự phản khoa học một cách khách quan của lý thuyết Mác. Có nghĩa nền tảng của đạo đức khách quan và khoa học khách quan không hề được Mác quan tâm hoặc đặt nặng hay nhấn mạnh đến.
Trên đây là sự phân tích sơ bộ một số khía cạnh về chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa xã hội, đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội, cũng như cái được gọi là đạo đức cách mạng và quy luật cách mạng như trên đã nói. Nói rõ hơn, đối với Mác nguyên lý đấu tranh giai cấp mới chính là ý nghĩa “đạo đức” cách mạng mà ông ta mong muốn. Có nghĩa đối với Mác không hề có ý nghĩa đạo đức truyền thống dù Đông phương, dù Tây phương, mà ông ta chỉ gom chung vào cái được gọi là “đạo đức tư sản”. Đạo đức của ông ta thực chất chỉ là “đạo đức” vô sản hay “đạo đức” cộng sản, có nghĩa là phù hợp theo quy luật “cách mạng” xã hội mà ông ta theo đuổi hay quan niệm. Cũng có nghĩa đây là một thứ “đạo đức” kiểu “chuyên chính” mà chính Mác đã từ chủ trương hay hô hào trong ý nghĩa của “duy vật lịch sử” và “đấu tranh giai cấp”.
Ngày nay ở Việt Nam người ta nói đến đạo đức HCM, thực chất cũng không ngoài ý nghĩa đạo đức Mác xít như trên kia chúng ta đã phân tích.
NGÀN KHƠI
(02/6/12)




No comments:

Post a Comment

View My Stats