Ngô Trường Anh Vũ
Doanh
nhân, blogger ở TPHCM
02/04/2020
"Anh
ơi, em chết đói thì có được tính là chết vì dịch không?" Người thợ hớt tóc
quen cười buồn hỏi tôi.
Ngày 1 tháng 4, Việt Nam bắt đầu thực thi cách ly
toàn xã hội, mọi hoạt động kinh tế sẽ bị đình trệ.
Những người bị ảnh hưởng đầu tiên là tầng lớp lao động,
trung lưu và kinh doanh nhỏ lẻ, vốn đóng vai trò xương sống của nền kinh tế.
Câu hỏi của người thợ hớt tóc chưa học hết phổ thông
cũng là trăn trở chung của hàng chục triệu người Việt Nam hiện tại.
Để trả lời câu hỏi ấy một cách đầy đủ là điều không
hề dễ dàng. Dĩ nhiên nếu tạm dừng mọi hoạt động kinh doanh trong 1-2 tuần thì
chưa đến mức người dân phải chết đói, nhưng dịch bệnh có khả năng sẽ còn kéo
dài và cả nền kinh tế đang chịu chung một số phận bấp bênh.
Khi chưa biết đến khi nào khủng hoảng mới chấm dứt,
vấn đề chính sách công một lần nữa lại được quan tâm và đem ra mổ xẻ so sánh.
Chính phủ Việt Nam có chính sách gì?
Đối với nhiều người Việt, họ chỉ biết một cách rất
mơ hồ những khái niệm kinh tế vĩ mô và bàn luận về chính sách chính phủ thậm
chí còn bị coi là vùng cấm.
Thế nhưng một cách mộc mạc giản đơn thì câu hỏi của
người thợ hớt tóc làm bật lên vấn đề cấp bách là:
Chính phủ Việt
Nam có chính sách gì để hỗ trợ người dân vượt qua giai đoạn khó khăn vì dịch bệnh?
Nhìn vào những khoản trợ cấp xã hội và cứu nguy kinh
tế mà các nước tiên tiến tung ra để hỗ trợ người dân nước mình đặc biệt là người
thất nghiệp, người Việt có suy nghĩ gì?
Thủ
tướng Úc Scott Morrison đã quyết định tăng gấp đôi trợ
cấp thất nghiệp cho công dân Úc trong 6 tháng, những người mà theo ông sẽ chịu
những hậu quả kinh tế đầu tiên vì Coronavirus.
Ông tuyên bố: "Chúng tôi sẽ hỗ trợ những người
dễ bị tổn thương nhất trước các tác động của khủng hoảng". Chỉ tính riêng
gói hỗ trợ này đã có giá trị lên đến 14 tỷ đô la.
Chính
phủ Pháp huy động hơn 300 tỷ Euro hỗ trợ thanh khoản cho các công ty bị ảnh hưởng bởi các tác động kinh tế từ sự bùng phát của
Coronavirus.
Pháp cứu nguy cho các doanh nghiệp và người lao động
bằng ba chương trình tài chính riêng biệt, trong đó hai chương trình cho phép
ngân hàng đầu tư công Bpi France cung cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay
thương mại và tín dụng.
Chương trình còn lại là viện trợ trực tiếp cho các
công ty khi cho phép ngân hàng nhanh chóng cung cấp nguồn tiền cho bất kỳ đơn vị
nào cần.
Chính
phủ Anh tung ra 330 tỷ Bảng Anh để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và người thu
nhập dưới trung bình. Theo đó, khoản tiền gần 400 tỷ USD, bằng 15% GDP của
Anh sẽ bao gồm nhiều khoản cho vay để giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ không suy sụp
vì mất khách và nợ ngân hàng. Bất kỳ doanh nghiệp nào cần tiếp cận với số tiền
này sẽ có thể nhận được khoản vay được chính phủ hỗ trợ theo các điều khoản ưu
đãi thông qua Ngân hàng Anh Quốc.
Ở
khu vực Châu Á, Nhật Bản bơm 14,2 tỷ USD vào thị trường trong một động thái được đánh giá là "táo bạo và chưa có tiền lệ"
nhằm kích thích tài chính quy mô lớn.
Singapore
cũng tung ra những gói cứu trợ kinh tế khẩn cấp với tổng giá trị khoảng 38 tỷ USD, chiếm đến 11% GDP nước này.
Gần sát Việt Nam thôi, đất nước mà trong tâm thức
nhiều người Việt vẫn ở một trình độ phát triển tương đồng hoặc không quá vượt
trội so với Việt Nam là Indonesia cũng đã công bố gói kích thích đầu tiên trị
giá 120 nghìn tỷ Rupiah, tức 8,1 tỷ USD.
Những công nhân sản xuất với thu nhập ít hơn 13
nghìn USD một năm cũng sẽ được hưởng chính sách giảm thuế mới.
Dĩ nhiên, việc so sánh chính sách của các nước phát
triển với Việt Nam là khập khiễng vì quy mô nền kinh tế và trình độ phát triển
khác nhau.
Nhưng tại sao người Việt phải đói nghèo?
Nguyên nhân đầu tiên đến từ sự độc quyền và thua lỗ của các tập đoàn nhà nước trong lĩnh vực
kinh tế, dẫn đến kềm hãm sự phát triển tư nhân và gây tổn thất cho xã hội.
Từ lúc mở cửa thị trường năm 1992, các số liệu về
phát triển của Việt Nam chủ yếu được tô hồng thông qua tăng trưởng GDP.
Tuy nhiên, GDP không phản ánh được chất lượng tài sản
và dịch vụ được tạo ra, cũng không nói lên được sự hiệu quả của việc gia tăng
phúc lợi toàn dân. Sự công nghiệp hoá và mở cửa của nước nhà đáng buồn thay lại
là cơ hội để một bộ phận lãnh đạo biến chất, thông qua các tập đoàn nhà nước,
làm giàu cho bản thân bằng cách bán tài nguyên và khoáng sản của Việt Nam đến
các nước phát triển hơn.
Theo
Kiểm toán Nhà nước năm 2018, lỗ lũy kế đến hết
năm 2017 của Tổng công ty CP Xây lắp dầu khí là 3.377 tỉ đồng; Công ty CP Hóa dầu
và xơ sợi dầu khí âm vốn 1.780 tỉ đồng, Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy
Dung Quất âm vốn 1.159 tỉ đồng. Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn (Sagri) đầu tư
vào 8 công ty liên doanh, liên kết và đầu tư dài hạn khác, lỗ lũy kế 315 tỉ đồng.
Công ty Đầu tư tài chính nhà nước TP.HCM (HFIC) cũng đầu tư vào 7 công ty, lỗ
lũy kế 105 tỉ đồng. Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN) nợ 547 tỷ đồng. Khi quy về
công ty mẹ, có những tập đoàn ôm khoản nợ khó đòi hàng chục nghìn tỷ đồng như của
PVN, lên đến 11.368 tỷ đồng. Tập đoàn này còn "mất không" 773 triệu
USD cho 24 dự án ở nước ngoài.
Những
tập đoàn nhà nước được ví như tay chân của nền kinh tế, được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và tiếp cận được nguồn tín dụng lớn.
Tuy nhiên nhóm này liên tục làm ăn thất thoát, khai báo lỗ và phí phạm nguồn lực
của xã hội. Như vậy ngay đầu vào của ngân sách đã không đảm bảo.
Nguyên nhân thứ hai khiến ngân sách cạn kiệt là do để xảy ra tình trạng bòn rút ngân sách và
đầu tư công không hiệu quả.
Giai
đoạn 2013 đến 2019, nếu như thu ngân sách tăng thêm 572 nghìn tỷ đồng thì
chi ngân sách tăng hơn 600 nghìn tỷ đồng, tổng cộng đạt hơn 1,66 triệu tỷ đồng.
Điều này có nghĩa là tuy tăng thu nhưng tốc độ tăng
chi còn cao hơn. Nếu tính riêng năm 2019 thì thu không đủ bù chi, thâm hụt ngân
sách quốc gia 222.000 tỷ đồng, chiếm 3,6% GDP.
Năm 2018 cũng đã thâm hụt ngân sách 204.000 tỷ đồng,
chiếm 3,7% GDP và dự kiến năm 2020 vẫn tiếp tục thâm hụt 234.000 tỷ đồng, tuy
nhiên với tình hình khủng hoảng hiện tại thì thâm hụt sẽ còn cao hơn rất nhiều.
Trong khi đó, các đại dự án có giá trị hàng chục đến
hàng trăm nghìn tỷ đồng liên tục thất bại, không tạo được phúc lợi cho xã hội
mà còn gây ra nhiều hệ luỵ cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Ở
ngành Giao thông Vận tải, Đường sắt đô thị TPHCM và đường
sắt Cát Linh - Hà Đông vẫn còn đang đắp chiếu, chưa biết chính xác khi nào mới
đưa vào hoạt động.
Nếu như tuyến Metro số 1 dời ngày hoạt động dự kiến
đến cuối năm 2021, thì tuyến Metro số 2 phải dời đến tận 2026 mà đại diện ban
quản lý dự án vẫn phải thừa nhận rằng "tiến độ của dự án rất khó đảm bảo".
Cát Linh - Hà Đông còn thê thảm hơn khi chưa đi vào sử dụng đã xuống cấp.
Ở
ngành Công Thương, các đại dự án thua lỗ nổi bật là Nhà máy Sản xuất
đạm Hà Bắc, từ năm 2016 đến 2019 lỗ khoảng 2700 tỷ đồng. Nhà máy sản xuất đạm
Ninh Bình chỉ tính đến hết 2018 lỗ luỹ kế gần 5000 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu nhà
nước âm hơn 2600 tỷ đồng. Hàng loạt dự án khác phải đình trệ, tranh chấp hợp đồng
và ngưng sản xuất.
Cả 2 nguyên nhân dẫn đến cạn kiệt ngân sách ở Việt
Nam đều có mẫu số chung là cơ chế quản lý yếu kém.
Bởi chính vì cơ chế quản lý lỏng lẻo, ở Việt Nam xuất
hiện sự vun vén của cải bằng các tổn thất xã hội qua các nhóm lợi ích vốn chiếm
độc quyền và hưởng nhiều đặc lợi trong mọi lãnh vực mà họ tham gia. Hệ thống tiền
tệ của Việt Nam lại được vận hành thông qua các ngân hàng trực thuộc trung
ương, nguồn vốn vay vì thế cũng chỉ có thể được tiếp cận một cách sâu rộng nhất
bởi những nhóm quyền lực chứ không phải tầng lớp lao động.
Những nhóm có đặc quyền đã sử dụng khả năng tiếp cận
tín dụng lớn của họ mà kiểm soát các nền kinh tế thông qua những ngành nghề
khác nhau. Tổ chức xã hội Việt Nam như được tạo ra để phục vụ riêng cho các
nhóm lợi ích này và điều đó cần phải được thay đổi. Trong khung pháp lý hiện tại,
cho dù chính phủ Việt Nam có muốn tung ra gói trợ cấp cho người nghèo thì cũng
khó mà đến tay họ, điều này đã xảy ra vào năm 2015 ở gói tín dụng hỗ trợ nhà ở
30.000 tỷ.
Nợ
công dự kiến năm 2020 sẽ chiếm đến 23% so với ngân sách, cao nhất trong
6 năm gần đây. Cũng trong giai đoạn này, nhà nước Việt Nam phải liên tục vay nợ
mới để trả nợ cũ và điều này là cực kì nguy hiểm do Việt Nam sẽ không còn được
hưởng nhiều chính sách ưu đãi về lãi vay trong thời gian tới. Dịch bệnh lần này
đã làm phơi bày những mặt tối trong mô hình vận hành xã hội cũng như làm nổi bật
một sự thật rằng đất nước đang rất thiếu nội lực.
Cho dù Bộ y tế đã có những nỗ lực lớn trong công tác
chống dịch, sự cố gắng đó là không đủ để bù lại những hạn chế về tiềm lực quốc
gia, điều chỉ được vun vén một cách bài bản qua hàng chục năm phát triển.
Thực tế cho thấy rằng sự phát triển của Việt Nam
trong 30 năm qua đi kèm với việc nới lỏng những định chế cho kinh tế tư nhân và
áp dụng nhiều quy luật vận hành căn bản của nền kinh tế thị trường, tức là thay
đổi cơ chế quản lý. Thế
nhưng đến thời điểm hiện tại, cải cách chính trị đã đi sau cải cách kinh tế.
30 năm mở cửa,
những người lãnh đạo Việt Nam lại đứng trước bài toán đặt ra ở thời bao cấp: đổi
mới hay là chết. Dịch bệnh rồi sẽ qua, điều quan trọng là Việt Nam
có đủ dũng cảm để nhìn nhận và khắc phục những điểm yếu của nước nhà. Để có thể
đương đầu với những thử thách và khủng hoảng tất yếu trên con đường phát triển,
một mô hình nhà nước tiến bộ hơn qua đó tích luỹ và phát huy được sức mạnh quốc
gia vẫn là lời giải vẹn toàn nhất.
Việt
Nam rồi vẫn tiếp tục đói nghèo hay sẽ biết trở mình để thịnh vượng hơn?
--------------------
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
----------------------------------
RFA
02/04/2020
Chính
phủ Việt Nam quyết định một gói hỗ trợ hơn 61.500 tỷ đồng cho khoảng 20 triệu
người dân đang gặp khó khăn trong đại dịch COVID-19.
Truyền thông trong nước, vào ngày 2/4 cho biết đây
là gói hỗ trợ an sinh chưa từng có tiền lệ, được xem xét và thảo luận tại phiên
họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2020.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến
Dũng, qua trao đổi với Báo mạng Zing.vn vào ngày 2/4, cho biết Thủ tướng Chính
phủ, vào chiều ngày 1/ 4, đã thống nhất dự thảo Nghị quyết về gói hỗ trợ vừa
nêu; đồng thời giao cho các bộ, ngành liên quan nhanh chóng hoàn thiện dự thảo
Nghị quyết để trình Thủ tướng.
Gói
hỗ trợ hơn 61.500 tỷ đồng sẽ dùng để hỗ trợ cho các đối tượng được cho có thu
nhập bị giảm nặng nề, mất việc làm, không bảo đảm mức sống tối thiểu do tác động
trực tiếp bởi dịch COVID-19.
Gói hỗ trợ này không hỗ trợ dàn trải mọi đối tượng.
Theo đó, có khoảng 20 triệu người dân đang gặp khó khăn, thuộc 6 nhóm đối tượng
sẽ được xem xét để nhận hỗ trợ.
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội
Đào Ngọc Dung cho biết 6 nhóm đối tượng bao gồm: người có công đang hưởng chính sách thường xuyên và người đang hưởng
chính sách bảo trợ xã hội; các hộ nghèo và hộ cận nghèo; nhóm người lao động bị
tạm dừng lao động, dừng hợp đồng nhưng chưa có lương; những người bị dừng hợp đồng
nhưng chưa đủ điều kiện hưởng chính sách BHXH và lao động tự do không có giao kết
hợp đồng; những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ có mức thu nhập dưới
100 triệu nhưng phải dừng việc do thực hiện nghiêm các quy định về cách ly; những
doanh nghiệp không có khả năng trả mức lương tối thiểu vùng bình quân cho người
lao động sẽ được vay 50% mức lương tối thiểu vùng, với lãi suất 0% để trả cho
người lao động, giữ chân người lao động, nhằm tiếp tục phục hồi và tái sản xuất
sau này.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết thêm tổng số tiền
trong gói hỗ trợ an sinh dự kiến hơn 61.500 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước
hỗ trợ khoảng 35.880 tỷ đồng.
No comments:
Post a Comment