Thursday, 30 April 2020

NHỮNG NỖI ĐAU RIÊNG VẪN CÒN NGUYÊN (Phạm Thị Hoài trả lời phỏng vấn của Diễn Đàn Thế Kỷ)




29/04/2020

Diễn đàn Thế kỷ: Sau biến cố 30 tháng Tư 1975, dần dà chị có dịp tiếp xúc với đời sống miền Nam. Xin chị cho biết cảm tưởng chung của mình về đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng trên mảnh đất trước kia gọi là Việt Nam Cộng hòa.

Phạm Thị Hoài: Tôi thuộc thế hệ lớn lên trong "chân lý không bao giờ thay đổi" rằng "nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một", chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội và Chủ tịch Hồ Chí Minh là quốc gia hợp pháp duy nhất trên toàn bộ mảnh đất hình chữ S. Chính quyền Sài Gòn là bù nhìn. Rất lâu sau này tôi mới nghe danh xưng Việt Nam Cộng hòa.

Lần đầu tiên tôi đến Sài Gòn là năm 1984, đi phiên dịch cho một đoàn khách Đông Đức sang dự hội thảo khoa học. Điều duy nhất của miền Nam mà tôi còn nhớ là khi xe dừng trước khách sạn Bến Thành, một bác vận giày da và đồng phục rất đẹp tiến tới mở cửa xe. Tôi chui ra, ríu rít "Cảm ơn bác ạ", nhưng chưng hửng trước một gương mặt đóng băng. Tôi tiện tay đóng cửa xe sau lưng. Lớp băng trên gương mặt ấy thoáng rạn thành hai vệt lông mày nhíu lại, nhưng cặp môi vẫn lịch sự nói "Xin bà nhẹ tay", rồi lông mày lại giãn ra, lớp băng lại đóng kín. Chiếc xe êm ru ấy không cần tôi dùng hết sức lực của một cơ thể chưa đầy 40 ký để đóng cửa. Ngoài Bắc, cửa xe như tôi biết khi ấy thường cần thêm một cú đạp. Ngoài Bắc, gác cổng cơ quan nào cũng có thể vênh mặt rất chân đất hách dịch, nhưng không băng giá lịch thiệp. Ngoài Bắc, người đáng tuổi cha chú không gọi một cô gái là bà.

Lần tiếp theo là năm 1989, môi trường tôi tiếp xúc là giới báo chí và xuất bản, toàn bộ nằm trong tay một đội ngũ cán bộ hoặc từ miền Bắc vào, trong đó có nhiều người miền Nam tập kết ra Bắc rồi lại từ Bắc phái vào Nam, hoặc là người miền Nam có lý lịch và thành tích cách mạng, phần lớn từng là những gương mặt nổi bật của phong trào đô thị. Những người được coi là cấp tiến trong số đó, dù cởi mở thế nào vẫn là những cán bộ cộng sản tiếp quản một thành phố đã Bắc hóa về nền tảng. Sài Gòn khi đó khấm khá hơn, sôi động trẻ trung hơn Hà Nội, song phần lớn di sản của Việt Nam Cộng hòa thì đã di tản, đã thành tro bụi, hoặc đã tàn lụi trong các trại cải tạo. Trầm tích còn lại thì ẩn sâu. Tôi chỉ thực sự tiếp cận một phần di sản ấy sau này, từ khi định cư ở Đức. 

*
Diễn đàn Thế kỷ: Xin chị cho biết đánh giá của chị về di sản ấy.

Phạm Thị Hoài: Bản thân người trong cuộc, tức các thế hệ từng sống trong những thể chế khác nhau của Việt Nam Cộng hòa và con cháu họ, cho đến nay vẫn tiếp tục tranh cãi, thường là rất gay gắt, đầy nghi kị thù hận, đến mức thóa mạ, nguyền rủa, thậm chí như sẵn sàng làm thịt nhau về cái di sản ấy. Điều đó dễ hiểu. Định mệnh của Việt Nam Cộng hòa gắn liền với Chiến tranh Việt Nam, một chương sử đau thương vô hạn và cũng chia rẽ vô hạn của người Việt. Trong khi miền Bắc cùng thời là một khối duy nhất, đúc bằng ý chí sắt thép máu lửa của chủ nghĩa cộng sản thời chiến, không có gì để và có thể bàn cãi, thì miền Nam, ở mọi thời điểm của cuộc chiến, là một tổng thể phức tạp của nhiều phân mảnh đối kháng nhau mạnh mẽ. 

Cả hệ thống quốc gia chống cộng lẫn Việt cộng và những người được coi là "thành phần thứ ba" cũng như khối dân chúng chao đảo giằng xé giữa các bên đều thuộc về miền Nam ấy. Cả ấp chiến lược lẫn “vùng giải phóng” cũng như cả Tổng thống Ngô Đình Diệm lẫn Hòa thượng Thích Quảng Đức; cả thảm sát ở Huế lẫn thảm sát ở Mỹ Lai; cả Nguyễn Văn Trỗi đặt mìn lẫn Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom; cả tà áo dài tân thời của Đệ nhất Phu nhân Trần Lệ Xuân lẫn tấm áo bà ba của Phó Tư lệnh Mặt trận Nguyễn Thị Định; cả tướng Nguyễn Ngọc Loan lẫn đại úy biệt động Nguyễn Văn Lém; cả tướng Nguyễn Cao Kỳ, tướng Nguyễn Khoa Nam lẫn tướng Dương Văn Minh, tướng Phạm Xuân Ẩn; cả linh mục Cao Văn Luận lẫn linh mục Chân Tín; cả luật gia Nguyễn Văn Bông lẫn luật sư Nguyễn Hữu Thọ; cả thầy Tuệ Sỹ, thiền sư Lê Mạnh Thát lẫn Phật giáo Hòa Hảo, thiền sư Thích Nhất Hạnh; cả nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam lẫn nhà hoạt động Trương Như Tảng; cả nhân sĩ Hồ Hữu Tường lẫn nhân sĩ Lý Chánh Trung; cả học giả Nguyễn Hiến Lê lẫn nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng; cả triết gia Phạm Công Thiện lẫn giáo sư triết Nguyễn Văn Trung; cả nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lẫn nhạc sĩ Lưu Hữu Phước; cả thi sĩ Bùi Giáng lẫn nhà thơ Lê Anh Xuân; cả nhà văn Mai Thảo lẫn cây bút Vũ Hạnh; và cả triệu người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 lẫn triệu người từ miền Nam di tản năm 1975...

Tất cả những nhân vật, sự kiện, hiện tượng, khuynh hướng ấy đều thuộc về di sản của Việt Nam Cộng hòa, và chỉ riêng điều đó đã là một thành tựu vô tiền khoáng hậu. Không một quốc gia nào trên lãnh thổ Việt Nam từng trải qua một lịch sử đa tầng và nén chặt như vậy. Hai mươi năm là một khoảnh khắc rất ngắn trong lịch sử, chỉ đủ cho người Việt ngủ rồi thức dậy vẫn trong giường chiếu cũ, vươn vai hít thở không khí cũ, khề khà xỏ chân dép cũ, ra hiên cũ ngắm mây cũ đọng vuông trời cũ. Phần lớn là như thế suốt mấy ngàn năm. Nhưng hai thập niên Việt Nam Cộng hòa là một chuyến tốc hành lao vào những xung đột trung tâm của một thế giới luôn kề cận một cuộc đại chiến mới. Không phải miền Bắc tuyệt đối một lòng và vì thế phiến diện, mà miền Nam đa diện bỗng trở thành đấu trường nóng bỏng của những lý tưởng và trào lưu thời đại nổi bật. Lần đầu tiên, và cho đến nay là lần duy nhất, người Việt có mặt ở đỉnh cao của tinh thần thời đại, dù đó là một thời đại kinh hoàng. Là người ngoài cuộc, tôi có thể dễ dàng chọn cách nhìn nhận gia tài "hai mươi năm nội chiến từng ngày"của miền Nam từ tổng thể ấy. Song với người trong cuộc thì khó hơn nhiều, họ phải sống với những sự thực khác nhau mà những nỗi đau riêng vẫn còn nguyên. 45 năm không ngắn nhưng chưa đủ dài.

*
Diễn đàn Thế kỷ: Chị đã biết hiện tượng đốt sách và việc bắt giam một số khá lớn các nhà văn nhà báo miền Nam của phe thắng trận. Chị đánh giá việc này ra sao?

Phạm Thị Hoài: Đó là cách hành xử của nhiều chính quyền độc tài, không riêng gì cộng sản. Thời Minh thuộc, sách vở văn tự An Nam bị đốt sạch phá sạch để dọn đường cho văn minh Bắc triều. Hà Nội cũng làm thế với miền Bắc sau 1954 để dọn đường cho văn minh cộng sản: sách vở báo chí tiền chiến bị bài trừ; bia đình chùa miếu mạo biến thành đá lót; nông dân đốt sổ sách văn tự trong Cải cách Ruộng đất; và Hà Nội tiếp tục chính sách thay máu tàn khốc nhưng hiệu quả này với miền Nam sau 1975. Miền Nam không phải là ngoại lệ, mà chỉ đi sau cả nước trong công cuộc thay máu đó. Nhiều cây bút miền Bắc thậm chí còn chịu số phận cay đắng hơn. Chế độ chính trị hiện hành đã vượt qua hai cuộc chiến tranh nóng và kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh với sự sụp đổ của hệ thống; đã trải qua nhiều hình thái, từ giáo điều đến cải cách, từ khép kín đến mở cửa, từ cộng sản chiến khu đến cộng sản bao cấp, từ cộng sản ảo mộng đến cộng sản vỡ mộng, từ cộng sản trong tim đến cộng sản ngoài da, từ cộng sản cần lao đến cộng sản đại gia, từ cộng sản đào mồ chôn tư bản dân tộc đến cộng sản ôm chân tư bản toàn cầu. Chế độ ấy vững tin ở sự bất diệt của bản thân, như thể nó sẽ trụ lại ngay cả khi dân tộc này qua đi. Nhưng lịch sử không có điểm dừng cuối cùng. Một hay nhiều vụ thay máu văn hóa khác, cũng sẽ dã man và ngu xuẩn không kém, không phải là không thể diễn ra nữa trên mảnh đất Việt Nam. Chúng ta luôn nhắc nhở rất hoa mỹ về những bài học của lịch sử, nhưng con người nói chung chỉ lắng nghe quá khứ khi đã muộn.

*
Diễn đàn Thế kỷSau này chị đã làm công việc sưu tầm và số hóa các tác phẩm văn học của miền Nam và đưa lên Website có tên talawas để mọi người có thể tiếp cận. Chị có thể cho biết động lực, cách thức và thời gian để chị thực hiện việc này?

Phạm Thị Hoài: Một trong các trọng tâm của talawas là đối thoại đa chiều, song điều đó là bất khả nếu cơ hội cho các bên không bình đẳng. Tôi rất ngạc nhiên vì cộng đồng hải ngoại của "Việt Nam Cộng hòa nối dài" khi ấy chưa hề có một thư viện online cho sách báo miền Nam trước 1975, mặc dù có thẩm quyền và nhiều nguồn lực nhất để làm việc đó. Vậy thì chúng tôi, toàn những người xuất xứ từ "bên thắng cuộc", phải bắt tay vào mà làm thôi, không có gì phải dài dòng cân nhắc. Chúng tôi giao cho một số cộng tác viên ở trong nước tìm và chọn tác phẩm, cho đánh máy và sửa bản thảo cũng ở trong nước rồi gửi bản điện tử đến tòa soạn. Khá thủ công, tốn kém và vất vả, nhưng khi đó tốc độ internet cũng như các công cụ hỗ trợ cho phép những giải pháp kỹ thuật khác chưa phát triển như hiện nay.

*
Diễn đàn Thế kỷ: Nhiều thế hệ Việt Nam trong và ngoài nước nhờ talawas mà đã tìm đọc, thưởng thức và nghiên cứu lại cả một nền văn học có cơ bị xóa bỏ hẳn bởi phe thắng trận. Thế nhưng, công việc đẹp đẽ này bỗng dưng phải ngừng lại. Chị có thể cho biết lý do?

Phạm Thị Hoài: "Sách xuất bản tại miền Nam trước 1975" chỉ là một trong nhiều nội dung của talawas. Chúng tôi hoạt động ở giai đoạn bước đệm, khi internet vừa mở ra cơ hội cho một môi trường truyền thông độc lập của người Việt, song trước thời điểm mạng xã hội bùng nổ. Chúng tôi quyết định dừng lại khi nhận thấy talawas đã đi hết giới hạn cuối cùng khả dĩ ở quy mô và chất lượng mà nó đã đạt được. Mô hình làm việc tự nguyện, tay trái, ngoài giờ, không lương, của ban biên tập và sự đóng góp bài vở cũng tự nguyện, không thù lao, của các tác giả, tuy đẹp và thậm chí lãng mạn nhưng rốt cuộc chỉ là giải pháp tạm thời của tình huống bất đắc dĩ. Nếu hình dung trước là sự tạm thời đó kéo dài đến 9 năm, có lẽ tôi đã không đủ can đảm để bắt đầu.

Một mô hình chuyên nghiệp, với một tòa soạn chuyên nghiệp và một đội ngũ cộng tác viên chuyên nghiệp đòi hỏi một nguồn tài chính và nhân lực lâu dài, ổn định. Chúng tôi không thể có điều đó, dù được cảm tình của một lượng độc giả khá đông đảo. Ngoài ra, cuối thập niên 2000 các blog cá nhân trên nền tảng Yahoo, rồi WordPress, Google nở rộ và không lâu sau đó, đầu thập niên 2010, mạng xã hội Việt Nam hình thành và bùng nổ với Facebook. Nếu tiếp tục với mô hình cũ, talawas sẽ chỉ là cái bóng lay lắt của chính nó cho đến khi tắt hẳn. Chúng tôi muốn tiết kiệm cho mình và độc giả cái kết cục đó. Một mạng lưới truyền thông độc lập, có uy tín, chất lượng và độ lan tỏa lớn; có khả năng xây dựng một công luận tự do và có trách nhiệm; có thể thực sự làm đối trọng với truyền thông "lề phải" do chính quyền Việt Nam quản lý; hình thành từ ý chí và nguồn lực của chính cộng đồng Việt chứ không phải là một chi nhánh của những hãng truyền thông nước ngoài như BBC, RFA, VOA, RFI... cho đến nay vẫn chỉ là một trong những ước mơ miễn phí của chúng ta, còn thực tế thì chúng ta phó thác hết cho vị cứu tinh đáng ngờ là Facebook.

Tôi không phủ nhận vai trò khai phóng của Facebook đối với những xã hội chuyên chế như Việt Nam, song nó là con dao hai lưỡi, có thể thúc đẩy nhưng cũng có thể đe dọa hay đầu độc tiến trình dân chủ và văn minh hóa một quốc gia độc tài chậm tiến. Mọi con vật đều bình đẳng trên mạng xã hội, song sự phát triển ở Nga, Trung Quốc và các nước độc tài Trung Đông cho thấy một số con vật rõ ràng bình đẳng hơn những con khác. Tự do trên Facebook được định nghĩa bởi chính Facebook và nhà cầm quyền. Hai thế lực này, dù khác biệt đến đâu và sau một thời gian dè chừng lẫn nhau, cuối cùng sẽ phải câu kết để duy trì lợi nhuận cho bên này và quyền lực cho bên kia hay thậm chí cả hai lợi ích gộp lại cho đôi bên; vụ Facebook chấp nhận kiểm duyệt ở Việt Nam mới đây chỉ là một trong chuỗi những mở đầu mà chúng ta ghi nhận để rồi bỏ qua như chưa hề xảy ra. Chúng ta là những con ếch trong bình nước đang nóng dần. Khi chính quyền học được cách sử dụng và chế ngự mạng xã hội cho chính sách tuyên truyền của mình - trấn áp, lung lạc, chia rẽ, mị dân – thì tiếng nói riêng lẻ của các nhà báo công dân sẽ chỉ còn hồi thanh trong những phòng cách âm rải rác trên không gian ảo. Mạng xã hội lại hình thành trong bối cảnh người Việt tuy bập rất nhanh vào công nghệ hiện đại, ào ào lướt mạng, thoăn thoắt bấm phím, hội chứng Facebook thành chứng chỉ chất lượng sống, nhưng phần lớn đều kém cả kiến thức lẫn nhận thức về môi trường mới này, vì vậy vừa dễ làm mồi ngon cho tin giả, đủ thứ trào lưu mù quáng và những cạm bẫy đổi đời – lấy đời ảo thay đời thực, vừa hăng hái kết nối lan tỏa những căn bệnh khủng khiếp của mạng xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà năm nay Việt Nam lọt top 5 cộng đồng mạng kém văn minh nhất theo đánh giá của Microsoft. Thú thật, tôi thấy may mắn cho talawas là đã đình bản đêm trước, khi sáng hôm sau Facebook tiến vào và chiếm lĩnh không khói súng cả trái tim, khối óc lẫn tâm hồn người Việt.

*
Diễn đàn Thế kỷ: Theo chị, gia tài văn hóa nghệ thuật 20 năm đó của miền Nam có đóng vai trò gì trong lịch sử tinh thần của dân tộc Việt Nam?

Phạm Thị Hoài: 451 độ F là câu chuyện nổi tiếng nhất về đốt sách, xóa sạch dấu vết của tư tưởng và nghệ thuật, những thứ nguy hiểm hoặc vô dụng đối với một xã hội không cần động não vì tất cả đã có chính quyền lo hết, dân chúng chỉ việc sinh sống và xem TV. Trớ trêu là tác phẩm này chính thức được xuất bản bằng tiếng Việt từ mấy năm trước, không hề bị truy bức như trường hợp Chuyện ở nông trại (Animal Farm), song rơi tõm vào sự thờ ơ của độc giả Việt Nam, tức cũng ít nhiều chung số phận của những cuốn sách bị đốt mà nó miêu tả. Tác giả Ray Bradbury lập ngôn bằng viễn kiến, nhưng chắc chắn không tính đến viễn cảnh về ngày mình bị ra rìa trong một xã hội như Việt Nam hiện tại, không phải vì bị ngăn cấm mà đơn giản bị đào thải. Bây giờ chính quyền có thể vững tin rằng dân chúng chẳng buồn quan tâm đến những thứ rách việc và vô bổ như văn chương nghệ thuật, kiểm duyệt làm gì cho mệt mà có thể còn gây hiệu ứng ngược. Tôi e rằng, ngay cả hiệu ứng ngược cũng đã tắt ngóm. Những năm gần đây, một số tác phẩm của các tác giả miền Nam trước 1975 đã được xuất bản trở lại, song trong môi trường văn hóa hiện tại, với cuốn sách vĩ đại duy nhất là Facebook của 60 triệu tác giả đồng độc giả tiếng Việt, mọi thành tựu văn học bất kể miền Bắc, miền Nam hay thế giới đều vô nghĩa. Dĩ nhiên đó là trên bề mặt rộng. Ở sâu bên dưới, các chuyển động tinh thần như nước ngầm, thấm vào những tầng và tụ về những phương mà mắt thường không xuyên tới. Trong văn giới, trước hết ở các tác giả ngoài luồng, hai mươi năm văn học miền Nam ít nhất đã để lại cảm hứng tự do và những phong cách đa dạng. Đời sau sẽ khai quật những báu vật ấy để bảo tàng hay chỉ bận đi tìm những mỏ vàng; lịch sử tinh thần của dân tộc này sẽ thăng trầm hay sẽ phẳng lì; và chúng ta sẽ làm gì với gia tài văn hóa của mình, tôi hoàn toàn không biết. Nhưng tôi dự cảm, rằng với công cuộc phây hóa ngày càng thắng lợi như hiện nay, người Việt sẽ quẳng mọi gánh nặng văn học nghệ thuật đi để vui sống.

Diễn đàn Thế kỷ: Xin cảm ơn chị về cuộc trò chuyện này.







No comments:

Post a Comment

View My Stats