Điều gì các viện sử quốc
doanh không làm, người lính sẽ tự làm lấy. Đó là ý nghĩ bất chợt của tôi khi đọc
đến trang cuối cùng tập bản thảo của một người lính có mặt tại Cao Bằng tháng
2-1979. Hơn 180 trang viết ngồn ngộn tư liệu, đang rất thô mộc. Vì thô mộc như
những người lính nên nó quá sống động và vô cùng chân thực.
Cuốn sách là những trang
hồi ức về Trung đoàn 567, một trung đoàn trong những năm 1977, 1978, chỉ được
giao khoét núi mở đường; cho tới tháng 12-1978, tức là chỉ còn mấy chục ngày
trước Chiến tranh, vẫn không được huấn luyện sẵn sàng, không được trang bị đầy
đủ vũ khí, không được bổ sung quân số… Một trung đoàn địa phương mà đã phải đối
đầu với hai sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo dàn… suốt 12 ngày đêm ở Tà Lùng,
Khau Chỉa…
Có những trang viết như
những thước phim:
“Một đám rất đông lính
Tàu bu quanh cây nhãn ở ngã ba thị trấn. Một sỹ quan của ta bị chúng buộc dây
vào chân rồi treo ngược lên cành nhãn. Anh ấy bị tra tấn… Từ xa nhìn qua ống
nhòm chỉ thấy anh rũ rượi, quằn quại… Một lúc sau, anh dãy lên vài cái rồi hy
sinh. Mấy cậu trinh sát định nã vào đám lính Tàu mấy loạt AK nhưng anh Khắc
ngăn lại, tầm bắn hơi xa, vả lại nhiệm vụ chính là đi trinh sát. Anh Khắc mắt đỏ
hoe…”
Có những trang viết làm
ta lặng người đi:
“Sáng sớm 2-3, bọn tàu
tràn vào đen đặc cả cánh đồng… Hai nữ y tá của đại đội quân y trung đoàn là
Đinh Thị Tuyến và Nguyễn Thị Huệ không còn đường rút đành đưa thương binh nặng ở
lại hang Keng Riềng (Ngườm Hẩu) ẩn náu, cùng đi có cả mấy người dân tự nguyện
giúp bộ đội chăm sóc thương binh. Cả hang chỉ có một khẩu CKC với mấy chục viên
đạn…, Tuyến và Huệ đã bắn những viên đạn cuối cùng vào đám lính Tàu tấn công
lên hang. Bọn Tàu chặn cửa hang, dùng súng phun lửa, B40, B41 bắn vào… Hang
Keng Riềng cháy đen khét lẹt, những xác người bị cháy thui co quắp, nứt toác…”
Có những trang viết làm
máu trong người ta sùng sục sôi:
“…Ngày 28-2, liên lạc
trung đoàn về báo cho đội văn công ở bản Chang về xã Hoàng Hải để rút… Đội có
15 người, 10 nữ, 5 nam, vũ khí chỉ có 1 AK và 1 CKC… Vượt quốc lộ 3, đoạn Lũng
Xỏm chừng một cây số thì cả đội đụng ổ phục kích, hơn trăm tên. Anh Kiền và
Minh Lý nổ súng chặn giặc và hô anh chị em chạy lên núi. Chỉ có ba người chạy
thoát… Bọn Tàu quây bắt được mười người, chúng đâm chết ba chiến sỹ nam ngay, bảy
chiến sỹ nữ văn công bị đám lính Tàu lao vào xâu xé hãm hiếp… Bảy xác chị em
chiến sỹ văn công, không một mảnh vải, bị chúng xếp thành hàng phơi ngoài cánh
đồng mười mấy ngày…”
Và, có những trang viết về
người lính khi tiếng súng đã tạm yên vẫn làm ta khóc to lên nức nở:
“Tuần đầu tiên sau chiến
tranh có một việc bất ngờ là tiểu đoàn được xem văn công xung kích ngay tại trận
địa… Tốp ca nam ba người hát “Làng tôi sau lũy tre mờ xa…” Nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ
quê rớt nước mắt. Suốt hơn một tháng, tin tức chỉ được nghe qua chiếc radio của
chính trị viên, thư từ liên lạc bị ách hết, biết chắc mẹ ở nhà rất nóng ruột chờ
tin… Tôi nói với một cậu văn công: “Bạn về Thái Nguyên, đánh điện về cho gia
đình tôi mấy chữ rằng tôi còn sống kẻo mẹ tôi khóc hết nước mắt.” Cậu văn công
nghe xong nói nhỏ với anh Trưởng đoàn. Anh Trưởng đoàn đứng lên nói to, các đồng
chí hãy cho chúng tôi địa chỉ về đến Thái Nguyên chúng tôi sẽ tìm cách báo tin
về nhà sớm nhất. Anh vừa dứt lời, rào rào tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay của lính…
Cuối năm đó tôi được về thăm nhà, mẹ tôi đưa tôi xem bức điện báo, gửi từ Thái
Nguyên: “Mẹ đừng khóc, con trai của mẹ vẫn còn sống”.
Theo tác giả:
“Chiến tranh nghiệt ngã
vô cùng, tháng 2-1979, có không ít những kẻ hèn nhát vứt súng chạy dài nhưng
cũng rất nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh oanh liệt. Nói không sợ chết
là không đúng. Không ai là không sợ, không ai muốn chết. Nhất là khi nhìn trực
tiếp chớp lòe đạn pháo bắn tung chiến hào, những xác người văng lên tan nát và
những tiếng kêu la đau đớn… Đạn cày xối xả bên mình, dưới chân đồi bọn lính Tàu
đông lúc nhúc, thổi kèn, phất cờ, hò hét tả lớ, tả lớ xung phong. Nhưng tại sao
người lính không buông súng bỏ chạy…”
Đọc những trang viết của
những người lính mới thấy, phần lớn những người thực sự anh hùng hoặc đã chết
hoặc đã trở về quê lặng lẽ với những ước mơ vô cùng giản dị. Nhiều người trong
số họ đã rất mưu lược khi chỉ huy, đã rất can trường trong chiến tranh…; nhưng
đã trở về với những vết thương, bệnh tật, vất vả mưu sinh và chết trong khó
khăn, cô độc.
Đọc những trang viết của
lính mới thấy, khi kể lại những ngày xả thân bảo vệ quê hương, không ai trong họ
tìm kiếm những tấm huy chương. Họ đã chống quân xâm lược Trung Quốc bằng máu, bằng
tính mạng của chính mình. Và nay, dù khao khát hòa bình, họ yêu cầu phải gọi
đúng tên cuộc chiến mà họ đã hy sinh xương máu: Cuộc chiến chống quân Trung Quốc
xâm lược.
PS: Vì bản thảo đang ở dạng nguyên liệu, hẳn tác giả sẽ còn mất nhiều thời
gian để hoàn chính nó thành một bộ sử liệu quan trọng, tôi xin chưa nói thêm gì
về tác giả và tác phẩm.
No comments:
Post a Comment