19/04/2020
https://storage.googleapis.com/qurium/luatkhoa.org/2020-04-nhung-cuoc-khung-bo-khong-con-ai-nho.html
“Chủ nghĩa khủng bố” (Terrorism) bao gồm những hành
vi vi phạm pháp luật hình sự, nhưng được tính toán hoặc có chủ đích nhắm đến việc
làm hoang mang, khủng hoảng tinh thần của công chúng, của một nhóm dân cư hoặc
của một nhóm các cá nhân nhất định vì các mục tiêu chính trị.
Các hành vi khủng bố đều không thể biện hộ ở bất kỳ
ngữ cảnh chính trị, triết học, tư tưởng, sắc tộc, chủng tộc hay tôn giáo
nào.
Nghị quyết 49/60, Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc, 1994
***
Gần 20 năm sau khi Chiến tranh Việt Nam kết
thúc, pháp luật
và tư duy pháp luật quốc tế mới dần quan tâm đến việc kiểm soát, khống
chế và từ đó là loại trừ hoàn toàn những hành vi mang tính chất khủng bố khỏi nền
chính trị thế giới, thứ mà một thế lực ở Việt Nam đã dùng nó như là công cụ duy
nhất để vận hành toàn bộ cuộc kháng chiến của mình ở vùng đất xấu số này.
Hiện trường vụ đánh bom khách sạn Brinks ở Sài Gòn
ngày 24/12/1964. Ảnh: Chưa rõ nguồn
Khi nhắc đến chiến tranh Việt Nam (bắt đầu từ 1964 –
1975) và cả giai đoạn kèn cựa trước đó (từ 1954 – đến 1963), người phương Tây lẫn
người Việt Nam đều có định kiến tự động rằng Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng
hòa là bên thực hiện nhiều hành vi quân sự phi pháp nhắm đến thường dân nhiều
hơn, hay sẽ là chủ thể thực hiện nhiều tội ác chiến tranh… Luật Khoa từng có rất
nhiều bài viết liên quan đến những tội ác này, mà cụ thể là loạt bài về Thảm
sát Mỹ
Lai.
Song rất nhiều người đọc, nhà nghiên cứu có vẻ hơi
“hồn nhiên” khi bỏ qua khi những nguồn tư liệu khoa học, lịch sử dồi dào liên
quan đến những hành vi khủng bố có tổ chức, nhắm đến một số lượng lớn thường
dân và gây ra những đau thương lớn của Mặt trận Giải phóng Dân tộc miền Nam Việt
Nam (thường được biết đến dưới tên gọi Việt Cộng), được đỡ đầu và vận hành dưới
trướng chính quyền nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ở phía Bắc.
Giai đoạn 1954 – 1960: Khủng bố công chức, giết hại không
xét xử giáo viên và “kẻ thù giai cấp”
Điều đáng buồn cười là dù rất mạnh miệng lên án Bộ
luật 10-59 của Ngô Đình Diệm (ban hành tháng 10 năm 1959) về việc thành lập một
tòa án quân sự đặc biệt để xét xử các tội danh liên quan đến phản quốc và thân
cộng sản, rằng bộ luật khủng bố, đàn áp và tàn bạo vì không có các quyền kháng
cáo tư pháp.v.v. (cho đến nay sự thật lịch sử “lê máy chém đi khắp miền Nam” vẫn
còn gây tranh cãi), các
nhóm Cộng sản – Việt Minh (lúc này Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam
Việt Nam vẫn chưa được thành lập) quên đi rằng nguyên nhân dẫn đến sự hình
thành và ban hành của Bộ luật này chính là các hoạt động khủng bố của họ kéo
dài từ suốt năm 1954 đến thời điểm luật ban hành.
Một góc Sài Gòn những năm 1950. Ảnh: Flickr/Chưa rõ
nguồn.
Sau năm 1954, để “tuân thủ” Hiệp định Geneva, các lực
lượng Việt Minh ở miền Nam Việt Nam tập kết ra Bắc, song đồng thời để lại một mạng
lưới tổ chức ngầm có ban bệ, có lực lượng vũ trang và hệ thống vũ khí quân dụng
tương đối hoàn chỉnh. Vì vậy, chính quyền Bắc Việt có thể tạm thời hạn chế ủng
hộ tài chính và vật lực cho nhóm ngầm ở miền Nam Việt Nam vì còn lo ngại Hoa Kỳ
sẽ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, nhưng định hướng thực hiện các hoạt động vũ
trang mang tính chất khủng bố, gây hoang mang và tạo áp lực không nhỏ lên hệ thống
an ninh quốc gia, đặc biệt trong thời điểm nhà nước miền Nam Việt Nam và sự
phát triển của hạ tầng, làng mạc, hệ thống xã hội tại đây vẫn chưa đến mức lâu
đời như phía Bắc.
Nghiên cứu của Tiến sĩ Robert G. Scigliano, có tựa đề “Political Parties in South
Vietnam Under the Republic”, có thể cho chúng ta một vài lát
cắt rất nhỏ về thực trạng khủng bố tại vùng đất này.
Trong đó, ông ghi nhận lại các sự kiện phá hoại và
khủng bố mang tính cá thể mà các sử gia thường lãng quên. Từ việc đe dọa giết bằng
thư nặc danh, bắt cóc người trong gia đình tạo sức ép, cho đến ám sát các quan
chức địa phương, trưởng thôn, người có ảnh hưởng tại địa phương… tất cả những
hành vi khủng bố tồi tệ nhất đều đã được thực hiện.
Không chỉ vậy, nhiều hoạt động bình thường của
chính quyền miền Nam như thu thập thông tin dân cư, cải cách ruộng đất và thậm
chí là tuyên truyền cho trẻ em đến trường tại các vùng nông thôn cũng bị những
nhóm Việt Minh – Cộng sản phá hoại. Những cuộc vận động đơn giản, phi bạo lực
luôn có thể kết thúc bằng cái chết của những công chức vô tội, các nhân viên xã
hội của chính quyền miền Nam Việt Nam. Scigliano ước tính, chỉ trong giai đoạn 1955 – 1959,
trung bình cứ mỗi ngày có một nhân viên công quyền bị phiến quân cộng sản
giết hại.
Điều này cũng được khẳng định trong các mẩu Tin tức
thường nhật Sài Gòn (Saigon Daily News Round-up) được United States Operation
Missions ghi chép và báo cáo, hiện đang được lưu trữ bởi một dự
án bảo tồn các loại tài liệu trong thời chiến tranh Việt Nam của Đại học
công lập bang Michigan.
Theo đó, chỉ cần đọc qua vài bản tin hằng ngày, ví dụ
như Bản
tin ngày 27 tháng 7 năm 1956, tin như việc một chủ đất 65 tuổi tên Võ Văn Mẹo
bị Việt Cộng chặt đầu ở Cần Thơ, một sĩ quan ở Sóc Trăng bị quân Việt Cộng giết
khi ông đang trong giờ tuần tra… dần trở thành những tin tức “thường ngày ở huyện”.
Hiển nhiên, sẽ có những người ủng hộ hành vi này cho
rằng Việt Minh chỉ giết “cường hào, ác bá”. Nhưng rồi ai là cường hào? Ai là ác
bá? Ai xét xử? Các nhóm Việt Minh?
Ở tầm vĩ mô, thực tế thống kê chứng minh những nhóm
Việt Minh giai đoạn này không có khái niệm phân biệt giết người tốt hay giết
người xấu, bởi bản chất khủng bố của những hoạt động này không hề thay đổi.
Trong một nghiên
cứu khác rất công phu của Giáo sư Chính trị học Anthony James Joes của
trường Đại học Saint Joseph (Mỹ), vốn tập trung vào chiến tranh du kích và hệ
quả chính trị của nó, đã dành một chương lớn bàn về sự tàn bạo và thiệt hại
kinh hoàng không chỉ về người, tài sản, mà còn là các chương trình phúc lợi mà
chính quyền Việt Nam Cộng hòa cố gắng áp dụng tại nông thôn khi phải đối mặt với
những chiến dịch khủng bố mà phe cộng sản địa phương tiến hành.
Một ngôi làng gần Khe Sanh trước năm 1975. Ảnh:
awm.gov.au.
Trước tiên phải kể đến nhóm nạn nhân là những công
chức làng, xã ở vùng nông thôn. Theo thống kê và đánh giá của vị giáo sư, các
nhóm vũ trang Việt Cộng gần như không chọn lọc gì khi bắt cóc và giết hại công
chức địa phương hay trưởng thôn, trưởng làng.
Ông bình luận rằng, những người cộng sản giết những
công chức lạm quyền và tham nhũng để lấy tiếng vang và sự ủng hộ của quần
chúng; song họ cũng giết cả những công chức mẫn cán và trong sạch, những lãnh đạo
cộng đồng tài năng, để gửi đi thông điệp rằng chính quyền Sài Gòn sẽ không thể
bảo vệ ai cả. Từ đó, họ đồng thời cắt đứt năng lực quản trị địa phương, khiến
các cộng động không còn người lãnh đạo.
Theo HistoryNet, các chiến
thuật này ban đầu chủ yếu để loại trừ bất kỳ ai dám chống đối hay ngăn cản những
thành viên Việt Cộng xâm nhập làng mạc để thu “thuế”.
Nhanh chóng, nhóm đối tượng trở thành mục tiêu khủng
bố mở rộng bao gồm cả một nhóm các giai tầng trung lưu sinh sống ở miền Nam Việt
Nam, từ nhân viên y tế, nhân viên hoạt động xã hội cho đến giáo viên – giảng
viên, những người hoàn toàn vô can và vô hại trong cuộc “đấu tranh giành độc lập”
của họ.
James Joes nhận định giáo viên là một trong những đối
tượng bị nhắm đến nhiều nhất bởi họ thường là các nhà dân tộc chủ nghĩa, có kiến
thức, không tin tưởng chủ nghĩa cộng sản và thường sẽ có ảnh hưởng nhất định
lên cộng đồng nơi mình đang sinh sống.
Tính chỉ đến năm 1958, vị giáo sư ghi nhận đã có đến
25.000 ngàn nhân viên công vụ, giáo viên và các trưởng thôn, trưởng làng bị giết
hại bởi phe Việt Cộng – chưa tính số thương vong do ảnh hưởng của các chiến dịch
quân sự chính thức. Một số tài liệu khác
cho rằng chiến thuật này tước đi hoàn toàn sức sống và năng lực tự cường của
các cộng đồng địa phương miền Nam Việt Nam mà phải nhiều thế hệ mới có thể có
hy vọng phục hồi.
Đôi khi các nhóm Việt Cộng còn thảm sát cả gia đình
của một công chức hay một giáo viên chỉ để chứng minh họ nói là làm, và thông
điệp của họ “rõ ràng” hơn, “đi xa” hơn.
Vụ thảm sát 17 người già, trẻ, lớn, bé của một gia
đình công chức tại Châu Đốc vào năm 1957 là minh chứng khá rõ cho cuộc khủng bố
vô minh này. Thêm vào đó là vô vàn những hành vi tàn ác khác mà Giáo sư James
Joes cho rằng người đọc sẽ phải hối hận khi tìm hiểu nếu muốn thỏa mãn trí tò
mò của họ (Ông vẫn viện đến tác phẩm rất nổi tiếng của Bác sĩ Tom
Dooley, Deliver
us from Evil, nếu bạn đọc thật sự cần).
Xóa nhòa ranh
giới giữa “người tham chiến” (combatant) và “người không tham chiến”
(non-combatant), phe cộng sản mang đến miền Nam Việt Nam một cuộc chiến bất tận. Các chương trình dân sự mang lợi ích công cộng chung như chương trình chống
sốt rét quốc gia, chương trình xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ cho trẻ em… đều
đi đến bế tắc khi các nhân viên hoạt động xã hội, người Việt Nam, và hoàn toàn
vô tội, bị giết hại vô cớ.
Giai đoạn 1960- 1968: Vô diện
Có nhiều người cho rằng chiến tranh thì phải thế,
nhưng họ chưa bao giờ tự trả lời câu hỏi tại sao chiến tranh cứ phải thế? Pháp
luật quốc tế ngay từ thế kỷ thứ 17 – 18 đã bắt đầu đưa ra những giới hạn về các
loại vũ khí sát thương mang
lại những đau đớn thể xác không cần thiết, hoặc có thể bị áp dụng một cách
không phân biệt đối tượng như đạn chùm, thuốc độc, vũ khí sinh học, vũ khí hóa
học, mìn và các loại bẫy chết người…
Đấy là còn chưa kể đến thực tế tại miền Nam Việt
Nam, xung đột giữa Việt Cộng và chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn được xếp theo
dạng là phiến quân, nổi loạn (insurgency) chứ không thể được gọi là một cuộc
xung đột vũ trang đúng nghĩa (armed conflict), việc áp dụng các biện pháp khủng
bố, mà theo ngôn ngữ của Mặt trận Giải phóng Dân tộc miền Nam Việt Nam là các
“đối tượng mềm” (soft-targets) khó có thể được lý giải bằng bất kỳ công cụ pháp
lý hay chính trị nào.
Hiện trường vụ đánh bom khủng bố Tòa Đô Chánh tại
Sài Gòn ngày 26/10/1962. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Năm 1960, sau
khi Mặt trận Giải phóng Dân tộc miền Nam Việt Nam được thành lập, tần suất và
quy mô của những vụ khủng bố ngày càng được tăng cường.
Đặc biệt nhất phải kể đến sự thành lập của nhóm
“Biệt động Sài Gòn – Gia Định” (Saigon–Gia Dinh Military Region Special
Action Group – Tên mật F100), với “đặc sản” bao gồm bom gắn với xe đạp dựng
trước các tòa nhà, lựu đạn vung giữa chợ, và các vụ khủng bố diện rộng tại các
quán bar, nhà hàng, rạp chiếu bóng hay khách sạn. Đến đây, công cuộc khủng bố tại miền Nam Việt Nam của Việt
Cộng có thể gọi là vô diện, vì họ không cần xác định người hay đối tượng cần phải nhắm đến.
Nếu mục tiêu của giai đoạn 1954 – 1960 là cắt kết nối quản trị nhà nước giữa
thành thị và phần nông thôn tại miền Nam Việt Nam, các cuộc khủng bố sau 1960
đơn thuần để tạo ra một không khí hỗn loạn, hoang mang và mất niềm tin vào năng
lực bảo vệ an ninh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Theo ngôn ngữ của nghiên cứu
“Viet-Cong
Strategy of Terror”, quân Việt Cộng tại miền Nam Việt Nam biến thành những
“quân nhân khủng bố toàn thời gian”.
Tác phẩm “Viet
Cong Terror Tactics in South Viet-Nam” làm rõ cáo buộc này ở nhiều
mức độ.
Nói đến hoạt động khủng bố của Việt Cộng đối với báo
chí, hai nhân vật quan trọng của tờ Chính Luận có lẽ là một ví
dụ điển hình. Chính Luận vốn là một tờ báo phản chiến và mong
muốn đưa sự thật đến với bạn đọc của miền Nam Việt Nam. Vì vậy, các nhà quan
sát Hoa Kỳ gọi đây là một tờ độc lập, vì nó vừa phản biện chính quyền Việt Nam
Cộng hòa, vừa chỉ trích các hoạt động của phe Việt Cộng.
Song chỉ duy nhất có nhóm Việt Cộng gửi thư dọa giết
hai lãnh đạo của tờ báo là chủ bút Đặng Văn Sung và biên tập viên Từ
Chung.
Đầu tháng 12/1965, một bức thư ký tên Võ Công Minh,
Chi đội trưởng Chi đội 618, Quân đội Giải phóng miền Nam Việt Nam khu vực Sài
Gòn – Gia Định, được gửi đến hai nhân vật trên như là tối hậu thư cuối cùng nếu
họ dám chỉ trích Việt Cộng thêm lần nào nữa. Bức thư được đăng tải ngay sau đó
lên Chính Luận, cùng với thư phúc đáp của hai người này, nhất quyết
không chịu bó tay trước vũ lực.
Ngày 30 tháng
12 năm 1965, khi Từ Chung bước xuống xe ngay trước nhà mình, hai kẻ khủng bố bắn
bốn viên đạn vào người ông ở cự ly gần, giết chết ông ngay tại chỗ.
Hiện trường vụ đánh bom khủng bố tòa đại sứ Mỹ ở Sài
Gòn năm 1965. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Trong những vụ khủng bố không phân biệt đối tượng
khác (non-selective terrorism), có thể kể đến vài vụ trong hằng hà sa số các vụ
khủng bố như:
- Việc hai nhân viên tên Phan Văn Hải và Nguyễn Văn
Thạch, phục vụ trong dự án chống sốt xuất huyết quốc gia, bị chém chết tại Biên
Hòa, năm 1962.
- Vụ ném lựu đạn vào một rạp chiếu bóng tại Cần Thơ,
cũng diễn ra vào năm 1962 khiến 108 người chết, với 24 phụ nữ và trẻ em.
- Năm 1964, Rạp chiếu bóng Kinh Đô bị đánh bom khiến
cho 32 người Việt Nam thương vong (cùng với 3 người Mỹ bị chết).
- Năm 1965, sân vận động quốc gia Cộng hòa bị tấn
công khủng bố bằng bom, khiến cho 11 người Việt Nam chết và 42 người khác bị
thương.
Và còn rất nhiều sự kiện khủng bố khác diễn ra, dù
là pháo kích vào chợ, khu vực đông người hay phá hủy cả một trường học.
Ngay cả tờ New York Times, một trong những
tờ phản chiến cứng đầu nhất của báo chí Hoa Kỳ, cũng phải thừa
nhận rằng Việt Cộng không chính nghĩa gì cho cam.
- Ngày 5 tháng 12 năm 1967, phiến quân Việt Cộng kết
hợp với quân đội chính quy Bắc Việt tấn công loạn xạ vào một làng người Thượng
lúc rạng sáng, dùng súng, lựu đạn và kể cả súng phun lửa giết chết bất kỳ ai
tháo chạy. Kết quả có hơn 200 dân làng bị giết và hàng chục người khác mất
tích.
Hoạt động khủng bố của lực lượng Việt Cộng đã được dựng
thành phim “Biệt động Sài Gòn”. Ảnh: Người Đưa Tin.
***
Năm
1968, Chiến dịch Mậu Thân nổ ra với kỳ vọng “giải
phóng” toàn bộ các tỉnh thành, huyện lị lớn ở miền Nam Việt Nam, chính thức
đánh dấu việc chuyển đổi từ chiến thuật khủng bố sang việc sử dụng những đơn vị
quân đội và các trận đánh trực diện, chính quy.
Hiển nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc họ từ
bỏ hoàn toàn các biện pháp khủng bố của mình nếu cảm thấy cần thiết. Nói cho
cùng, bản thân trận Mậu Thân cũng chỉ là một trận khủng bố trên diện rộng mà
thôi.
Những cái chết do hoạt động khủng bố của
Việt Cộng, với sự hậu thuẫn của chính quyền Bắc Việt, rất thường hay bị các sử
gia và những nhà quan sát của Việt Nam và của thế giới lãng quên. Tác giả hy vọng các thông tin đầy đủ dẫn chứng nói trên có thể giúp bạn đọc
lưu trữ và suy xét cho những thảo luận tương lai về chiến tranh Việt Nam, cũng
như cách mà chúng ta phân tích về tính chính danh của chính quyền ngày
nay.
Không phải không có lý do mà các băng nhóm khủng bố
ngày nay như Al Qaeda vẫn nhìn sự tồn tại của chính quyền Việt Nam với lòng tôn
kính và ngưỡng mộ.
No comments:
Post a Comment