Thứ Hai, 04/20/2020 - 09:41 — tuongnangtien
Học thuyết Mác sẽ để lại gì trên đất nước Việt Nam?
Có chút tương lai nào cho học thuyết đó? Nói rộng ra, tương lai nào sau khi độc
tài toàn trị chấm dứt?
G.S Đỗ
Mạnh Tri
*
Tôi cứ nhìn hai bức ảnh trên trang FB của nhà
báo Huỳnh
Ngọc Chênh, cùng với lời bình của ông (“Cái này không phải do khác nhau vùng miền mà khác nhau do sống với cs
lâu hay mau. Giống như người Hoa lục với Hoa Hồng Công. Tất cả đều do giáo dục
mà ra.”) mà không khỏi có đôi chút băn khoăn.
Ngoài việc cầm bút, Huỳnh Ngọc Chênh còn có
thời gian dài cầm phấn nên nhận định thượng dẫn hẳn rất khó sai
nhưng tôi e rằng vẫn chưa đủ. Cùng với giáo dục, theo thiển ý, kinh
nghiệm sống của mỗi cá nhân – chắc chắn – cũng ảnh hưởng (ít nhiều)
đến cách ứng xử của từng người.
Nhà văn Đỗ
Hoàng Diệu tâm sự:
“Xem những bức ảnh, tôi không suy luận không kết luận người Nam ý thức
người Bắc tham lam, tôi chỉ thấy họ đói, họ đang đói. Cái đói làm họ sợ hơn sợ
virus, nên chen lấn, giằng co nhau trước máy nhả gạo. Bạn không bao giờ hiểu được
cảm giác đó, vì bạn nằm trong biên chế nhà nước, thế nào lương cũng không bị cắt.
Bạn không thể nào hiểu nỗi lo ngày lo đêm trong cơn bĩ cực của người nghèo, nó
đau đến mức nào, cả thể xác lẫn tinh thần, khi tài khoản tiết kiệm của bạn đủ
tiền để mua cá mua thịt trữ đầy tủ lạnh và trả tiền internet cho việc tải về
các bộ phim ưa thích. … Tôi hiểu cái đói cái nghèo, không làm gì ra tiền nó
kinh khủng tới mức nào. Không gì diễn tả nổi. Nó tàn phá mọi giá trị. Nền kinh
tế đóng băng, nhiều trung lưu vỡ nợ, nhiều người nghèo đang đói, rất đói, khắp
mọi miền Việt Nam… Tôi thương họ, như đã từng bất lực thương bố mẹ anh chị,
thương mình những năm tám mươi.”
Chuyện
gì xẩy ra vào những năm 80, hay trước đó?
Xin nghe thêm một câu chuyện nhỏ, từ một nhà
văn khác:
“Sắp đến ngày kỷ niệm Quốc khánh mùng 2 tháng 9, cả Hà
Nội bừng sáng trong rừng khẩu hiệu và cờ hoa... Nơi các cửa hàng
thịt cá mậu dịch người ta niêm yết trên bảng thông cáo: Các ô sổ phụ
của phiếu thực phẩm tháng Chín bán cá bể, mỗi hộ được mua hai ký
cá ngoài tiêu chuẩn để ăn mừng quốc khánh...
Cá bể chưa về. Thế mà có mấy người chầu chực sắp hàng từ năm
giờ sáng. Trời vào thu rồi mà vẫn nóng, đám người chờ mua đông đặc
không ra hàng lối gì. Mồ hôi, mồ kê nhễ nhại... vừa lúc đó, thốt
nhiên bên kia đường bật lên tiếng reo lớn:”Cá về! Cá về!
Lúc đó thì không còn hàng lối gì nữa, mọi người chen chúc xô
đẩy nhau, ý ới gọi nhau. Từng lớp sóng người dồn lên rồi lại dạt
xuống, khiến không còn chỗ cho những bà mậu dịch viên đổ hàng. Thế
là lại phải giải thích cho mọi người lùi lại, nhường cho một khoảng
trống. Có đến hai mươi phút sau cá mới được đổ xuống vỉa hè, chả
cần thau chậu gì ráo. Và lũ ruồi đánh hơi mới tài làm sao! Chỉ
loáng một cái chúng đã kéo đến hàng đàn, bám đen lên đống cá. Tôi
không đủ can đảm để giữ tư cách nữa, cứ thế mà chen đẩy theo sức
lực của mình. Đứng trước tôi là một thằng bé, không hiểu bằng cách
nào mà len lỏi tới trước được, nhưng cũng khổ cho nó, mỗi khi đợt xô
đẩy dồn tới là nó lại bị đè ngã vào đống cá ...” (Thế Giang. “Lộc Thánh”. Thằng Người Có Đuôi. Costa
Mesa: Người Việt, 1987. 119-123).
Trận đói khốc liệt 1945 và nạn “đói góp”
kéo dài đến vài thập niên, mãi cho đến Thời Kỳ Đổi Mới, khiến
người dân miền Bắc phải chịu đựng mọi thiếu hụt lâu hơn dân chúng
miền Nam và (chắc) vì thế nên tâm thức cũng bất an hơn – theo như suy
luận của nhà văn Võ
Đắc Danh:
“Người dân xứ tôi có lẽ chỉ chịu những cú đánh vào bao tử mới mười lăm
năm nên chưa bị xoáy mòn nhân cách, chưa thành di chứng, sự hào phóng chưa biến
mất bởi nó được tích lũy gần 300 năm ưu đãi của thiên nhiên. Đọc mấy câu ‘phán’
của anh Huỳnh Ngọc Chênh, tôi tự hỏi, nếu cái chủ nghĩa xã hội quái thai còn
kéo dài ở miền Nam cho tới bây giờ, liệu chúng ta có được bức ảnh người Sài Gòn
xếp hàng trật tự với khoảng cách hai mét trước cái máy ATM gạo để chúng ta so
sánh với người Hà Nội hay không?”
Câu hỏi này lại khiến tôi lại trộm nghĩ thêm
rằng nếu thay được những lời lẽ kỳ thị, hay miệt thị (giữa cơn đại
dịch, và giữa lúc biển đảo đang mất dần dần) bằng ánh mắt bao dung,
bằng ngôn từ hoà thuận, cùng với tấm lòng nhân ái thì quan hệ vùng
miền Nam/Bắc – chắc chắn – sẽ tốt đẹp hơn, và cũng vững mạnh hơn
(nhiều) khi đất trước đang đối diện với nạn ngoại xâm. Chả những
thế, tự thâm tâm tôi còn thành thật tin rằng dân Việt hiện nay (thuộc
bất cứ thế hệ nào, đang sinh sống bất cứ nơi nao) cũng đều vướng
phải ít nhiều thương tật và cũng đều đáng thương hơn đáng trách.
Tôi sống tha hương gần hết đời mình nên kinh
nghiệm về XHCN (xếp hàng cả ngày) không được phong phú lắm; dù thế,
chuyện xô đẩy hay chen lấn thì cũng chả lạ lùng gì. Chừng hơn mười
năm trược – có hôm – tôi dừng xe trước một tiệm giò chả Việt Nam (nổi
tiếng) ở miền Bắc California, rồi bảo đứa con gát út:
- Từ nay, con tự mua thức ăn lấy nhá.
Cháu đã học qua 5 năm tiếng Việt vào mỗi
sáng chủ nhật hằng tuần, đã được nuôi dậy cả chục năm trong một gia
đình mà cả bố lẫn mẹ đều ngọng nghịu tiếng Anh nên cả nhà chỉ nói
thuần tiếng Việt. Tôi tin là nó đã đủ khả năng giao tiếp bằng tiếng
mẹ đẻ để có thể mua sắm lặt vặt cho chính bản thân. Vài phút sau,
con bé bước ra khỏi tiệm tay không và mặt đỏ bừng bừng:
-
Con ghét người Việt Nam, con không thích họ tí nào! I hate
Vietnamese, I don’t like them at all!
Vẻ giận dữ của cháu khiến tôi ái ngại:
- Chuyện gì vậy con?
- Con đứng xếp hàng nhưng mấy người đến sau cứ chen lên trước nên đợi
mãi cũng chả đến lượt mình.
Con tôi chào đời ở Hoa Kỳ nên không biết rằng
khách hàng trong tiệm này, ông bà, cô dì, chú bác … phần lớn (cũng y
như bố nó) đều là thuyền nhân. Họ đã bán tống bán tháo, hoặc “dâng
hiến” hết cả tài sản để bỏ của chạy lấy người. Tất cả đâm xầm ra
biển, xô đẩy chen lấn và sẵn sàng đạp lên nhau (nếu cần) với ước
mong duy nhất là có thể giành được một chỗ trên một con thuyền ọp
ẹp hay mong manh nào đó. Kẻ nhanh chân chưa chắc đã sống sót đến bờ
nhưng người chậm lại thì chắc chết, chết chắc, vì tù tội và tán
gia bại sản.
Kinh nghiệm hãi hùng này vẫn còn in đậm trong
tâm trí và cách hành xử của rất nhiều người tị nạn cộng sản nên cứ
thấy đám đông là là họ chen ngay (cứ như một phản xạ tự nhiên) dù
chỉ để mua vài ổ bánh mì hay mấy cây chả lụa. Chính tôi cũng thế,
cũng đã năm lần bẩy lượt – chứ chả ít ỏi gì – vượt đèn vàng hay
len lách trên xa lộ một cách hoàn toàn vô thức (và vô cùng ngu xuẩn)
dù chả có chuyện gì đến nỗi phải vội vàng đến thế.
Nhìn gương mặt đỏ au, và nghe giọng nói uất
ức của con mà không dưng tôi chợt nhớ đến một câu nói (khó quên) của
G.S Đỗ Mạnh Tri: “Rồi chế độ toàn trị sẽ chấm dứt tại Việt Nam. Nhưng người Việt Nam
không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam. Trong thực tại
ấy, có Mác.”
Mà di sản của Marx để lại, ở đất nước này,
nào có phải chỉ giới hạn trong chuyện tranh giành hay chen lấn. Di
lụy của CNXH còn là vô số những thứ “bệnh tật kinh niên” khác nữa: chèn ép, hiếp đáp, trù
dập, phe cánh, chạy chọt, luồn lọt, lươn lẹo, lừa lọc, tham lam, gian
xảo, trộm cắp, rình rập, soi mói, ti tiện, hèn hạ, huyênh hoang, hợm
hĩnh, hung bạo, khoác lác, tục tằn, trơ trẽn, tráo trở, ích
kỷ, dối trá, vô trách nhiệm, vô văn hoá, vô giáo dục, vô liêm sỷ
…
Chúng ta chỉ cần vài thập niên để có thể
tạo dựng lại một nền kinh tế lành mạnh và hiệu quả nhưng e sẽ mất
đến đôi ba thế hệ mới loại bỏ dần được những thói hư (và tật xấu)
vừa nêu. Vấn đề không chỉ đòi hỏi thời gian mà còn cần đến sự nhẫn
nại, bao dung, và thông cảm (lẫn thương cảm) nữa. Nếu không thì dân
tộc này vẫn sẽ tiếp tục bước hết từ bi kịch sang bi kịch khác – cho
dù chế độ toàn trị và nguy cơ bị trị không còn.
No comments:
Post a Comment