Chủ Nhật, 04/12/2020 - 12:26 — nguyenvubinh
Ngày 30/3/2020, Phái đoàn thường trực của Việt
Nam tại Liên Hợp Quốc đã gửi Công hàm số 22/HC-2020 lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc,
phản đối các yêu sách của Trung Quốc trong hai Công hàm Trung Quốc, phản hồi đệ
trình của Malaisia (Công hàm CML/14/2019 ngày 12 tháng 12 năm 2019 nhằm phản hồi
đệ trình ngày 12 tháng 12 năm 2019 của Malaysia gửi Ủy ban Ranh giới thềm lục địa)
và Công hàm gửi Tổng thư ký LHQ (CML/11/2020 ngày 23 tháng 3 năm 2020 của Phái
đoàn thường trực nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc gửi Tổng
Thư ký Liên hợp quốc). Nội dung Công hàm của Việt Nam phản đối các yêu sách về
chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng với những
chủ quyền về thềm lục địa và các đảo nổi liên quan.
Theo một số luật sư quan
tâm tới chủ đề tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, xuất
phát từ Công hàm của Malaisia, hồ sơ thềm lục địa mở rộng về phía bắc, tức là
Malaisia đề nghị mở rộng thềm lục địa của các đảo của Malaisia về phía bắc,
Trung Quốc đã phản hồi Công hàm của Malaisia, đồng thời khẳng định chủ quyền
trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do Trung Quốc khẳng định chủ quyền
trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nếu các nước có liên quan đến chủ quyền
không lên tiếng, thì trong luật pháp quốc tế, im lặng có nghĩa là đồng ý. Vì vậy,
khi Malaisia có Công hàm, Trung Quốc cũng ngay lập tức có Công hàm phản hồi. Và
khi Trung Quốc có Công hàm có nội dung khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, thì Việt Nam đã phải lên tiếng phản đối. Như vậy, sự phản
biện của Việt Nam trước quốc tế (ở đây là Ủy ban ranh giới thềm lục địa thuộc
LHQ) về vấn đề chủ quyền lãnh thổ và hải phận là một "trình tự logic"
ngoại giao. Tức chuyện "hết sức bình thường".
Tuy nhiên, một số người hoạt
động và tranh đấu, đã nhìn nhận việc Việt Nam gửi Công hàm phản đối lên Liên Hợp
Quốc là một dấu hiệu quật khởi, hàm ý việc Việt Nam có ý định thoát khỏi ảnh hưởng
của Trung Quốc… và quan điểm này được nhiều người ủng hộ. Cá nhân người viết
bài này khi chưa tìm hiểu ý nghĩa của Công hàm và những vấn đề liên quan cũng
đã có ý nghĩ giống nhiều người như vậy. Chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề logic hình
thức và những lý do bên trong dẫn tới tâm tư của những người tranh đấu có sự lạc
quan như vậy.
Trước hết, từ trước tới
nay, chúng ta đều nghe nhiều sự phản đối của Việt Nam đối với Trung Quốc liên
quan tới chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Nhưng chúng ta chưa bao giờ được nghe có một “Công hàm phản
đối Trung Quốc về chủ quyền trên hai quần đảo gửi tới Liên Hợp Quốc”. Đây chính
là lý do quan trọng nhất để nhiều người (trong đó có cả người viết bài) chưa
tìm hiểu kỹ về Công hàm và ý nghĩa của Công hàm cho rằng đó là bước ngoặt về
pháp lý trong việc đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam, và từ bước ngoặt pháp lý này
dẫn tới việc nhận định xu thế thoát Trung của đảng cộng sản Việt Nam. Việt Nam
vẫn luôn luôn khẳng định chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, trên các phương tiện thông tin đại chúng và với quốc tế. Chính vì vậy,
trong tình huống cần bảo vệ lập trường về chủ quyền khi có các công hàm của các
nước liên quan tới chủ quyền, nhất là của Trung Quốc, thì Việt Nam lên tiếng phản
đối là đúng và cũng hoàn toàn thông thường, quốc gia nào cũng làm như vậy. Xuất
phát điểm là công hàm của Malaisia, nhưng nguyên nhân lại do Công hàm của Trung
Quốc khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có nghĩa là
nếu không có Công hàm của Malaisia, và không có Công hàm khẳng định chủ quyền của
Trung Quốc trên hai quần đảo thì cũng không có Công hàm của Việt Nam.
Nhưng tại sao chỉ là một công hàm
phản đối gửi Liên Hợp Quốc lại dẫn tới nhận định lạc quan, và hi vọng của nhiều
người phản biện và tranh đấu như vậy? Có thể có mấy lý do sau đây. Mong mỏi,
khát khao thoát Trung của người dân, đại diện là những người phản biện hiện nay
rất cháy bỏng. Từ việc phụ thuộc vào Trung Quốc trong tất cả các lĩnh vực, việc
Trung Quốc o ép Việt Nam, thái độ hèn yếu của nhà cầm quyền trước việc Trung Quốc
giết hại ngư dân, khủng bố và cấm đánh bắt cá… cho tới những mối nguy về việc lập
đặc khu..vv. Tóm lại, đó là những thực tế lệ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc
và ám ảnh về một kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, cộng thêm lo lắng về một mật
nghị Thành Đô đang dần trở thành hiện thực khiến cho không một người dân có
lương tâm nào có thể không nghĩ tới và mong mỏi một tương lai thoát Trung.
Một lý do quan trọng nữa, nếu
thực sự có một xu thế thoát Trung, thì đương nhiên đó cũng là xu thế từ bỏ con
đường cộng sản, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Logic vấn đề này khá
đơn giản. Việc thoát Trung cũng là việc từ bỏ sự lệ thuộc, những sự hậu thuẫn về
mọi mặt của Trung Quốc đồng nghĩa với việc Việt Nam cần tìm kiếm các mối quan hệ
thay thế, và đó là các quốc gia dân chủ. Mặt khác, việc thoát Trung trong bối cảnh
hiện nay (thế giới sắp hỏi tội Trung Quốc về đại dịch cúm Corona virus) cũng
chính là việc tìm đồng minh mới để được bảo vệ khỏi sự trả thù khi trở mặt với
Trung Quốc. Cả hai lý do này chắc chắn sẽ dẫn tới việc Việt Nam phải từ bỏ thể
chế toàn trị cộng sản của mình, đó là mong ước của cả trăm triệu người Việt Nam
hiện nay.
Còn một nguyên nhân nữa,
tuy không rõ ràng và cháy bỏng như hai lý do nêu trên, nhưng vẫn bàng bạc xung
quanh những người phản biện và tranh đấu. Một sự thay đổi từ chính đảng cộng sản,
sẽ giảm bớt những đổ vỡ cho một xã hội đã dồn nén đến cùng cực như hiện nay.
Chúng ta đôi khi không dám hình dung tới những viễn cảnh sụp đổ của chế độ, do
những biến chuyển của thời thế hoặc sự vùng lên của người dân giành lấy tự do của
mình và dân chủ cho đất nước./.
Hà Nội, ngày 12/4/2020
N.V.B
No comments:
Post a Comment